Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Đánh giá sinh trưởng, năng suất của một số giống cà chua lai mới ở vụ xuân hè 2011 tại huyện nam sách tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 77 trang )

Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau là loại thực phẩm rất cần thiết cho đời sống hàng ngày của con
người. Cây rau không những cung cấp vitamin, muối khoáng, chất xơ, năng
lượng cho con người mà còn là loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
người sản xuất.
Cây cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) được trồng rộng rãi trên
thế giới, do nó có giá trị dinh dưỡng, giá trị kinh tế cao nên được nhiều nước
xếp vào cây chiếm vị trí hàng đầu trong ngành sản xuất rau. Cà chua có thể sử
dụng cho mục đích ăn tươi, nấu chín, salát, nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến thực phẩm như: cà chua đóng hộp, nước cà chua cô đặc, tương cà chua,
cà chua hỗn hợp với các loại đậu rau. Quả cà chua khi chín có rất nhiều chất
dinh dưỡng như: đường, vitamin A, C và các chất khoáng quan trọng cho con
người. Không những thế cà chua còn có giá trị sử dụng rất đa dạng và giá trị
về mặt y học to lớn. Các nghiên cứu gần đây cho biết cà chua có tác dụng tốt
cho hệ tiêu hóa, tăng cường sự tiết dịch ở dạ dày và quá trình lọc máu, giúp
bảo vệ cho những người nghiện thuốc lá khỏi nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Với những giá trị đó, cây cà chua đã và đang được trồng rộng rãi trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Cà chua được du nhập vào Việt Nam hơn 100 năm nay và được trồng
phổ biến ở Miền Bắc tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Bắc
Ninh, Hưng Yên.... Trong điều kiện Miền Bắc nước ta, cà chua được trồng
chủ yếu vào vụ Đông. Bởi thời vụ này có điều kiện khí hậu thời tiết thuận lợi
cho cây sinh trưởng, phát triển, ít sâu bệnh hại, năng suất và chất lượng quả
cao nhưng giá thành lại thấp. Trong khi đó, ở vụ Xuân hè cà chua lại có giá
thành rất cao. Do đó, trồng cà chua vụ Xuân hè sẽ mang lại hiệu quả kinh tế



1


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

cao hơn so với vụ Đông xuân. Tuy nhiên, gieo trồng cà chua Xuân hè thường
gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện khí hậu thời tiết không thuận lợi cho cây
sinh trưởng, phát triển, nhiều sâu bệnh hại nên năng suất, chất lượng quả cà
chua trong vụ này thường thấp. Vì vậy, để nâng cao năng suất, chất lượng cà
chua vụ Xuân hè thì việc chọn ra bộ giống cà chua tốt để trồng rải vụ là rất
quan trọng. Xuất phát từ những vấn đề trên và được sự cho phép của bộ môn
Di Truyền – Chọn Giống, Khoa Nông Học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà
Nội. Dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hồng Minh, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá sinh trưởng, năng suất của một số giống cà chua lai mới
ở vụ Xuân hè 2011 tại huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương”.
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục đích
- Đánh giá đặc điểm nông sinh học của các giống cà chua lai mới
- Chọn ra các giống cà chua lai có triển vọng cho năng suất cao, chất
lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh cao thích
hợp cho sản xuất vụ Xuân hè
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển cấu trúc cây và hình thái
của các giống cà chua lai ở vụ Xuân hè
- Đánh giá khả năng đậu quả và các yếu tố cấu thành năng suất

- Đánh giá tình hình nhiễm bệnh trên đồng ruộng của các giống cà chua
lai vụ Xuân hè.
- Đánh giá các chỉ tiêu về hình thái quả và một số đặc điểm liên quan
đến chất lượng quả của các giống cà chua lai ở điều kiện vụ Xuân hè.

2


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CỦA CÂY CÀ CHUA
2.1.1. Nguồn gốc
Chi Lycopersicum được Miller tách ra từ một số đại diện của chi
Solanum L. từ năm 1975. Chi này có khoảng 10, loài trong đó cà chua có lẽ là
kết quả của một quá trình lai tạp giữa một số loài. Cà chua có nguồn gốc từ
vùng Andean thuộc Nam Mỹ gồm một phần lãnh thổ của Bolivia, Chilê,
Ecuador và Colombia. Tuy nhiên cà chua lại được trồng trọt đầu tiên ở
Mêhicô. Sau các cuộc thám hiểm tìm ra Châu Mỹ, cà chua được đưa về trồng
ở Châu Âu, đến thế kỷ XVII du nhập vào Trung Quốc, một số nước vùng
Đông Nam và Đông Nam Á. Đến thế kỷ XVIII, cà chua mới được trồng ở
Nhật Bản và Hoa Kỳ (R.T. Openna & H.A.M van de Vossen, 1994 in
PROSEA NO8, Vegetables, 199-206).
Các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của cây
cà chua trồng. Tuy nhiên nhiều tác giả khác nhận định L.esculentum
var.cerasiforme (cà chua anh đào) là tổ tiên của loài cà chua trồng. Với nhiều
bằng chứng khảo cổ học, thực vật học, ngôn ngữ học và lịch sử đã thừa nhận

Mêhicô là trung tâm thuần hóa cà chua trồng (Jenkin, 1948). Theo nhà thực
vật học người Ý Pier Andrea Mattioli (1554), những giống cà chua đầu tiên
được đưa vào Châu Âu có nguồn gốc từ Mêhicô.
Lịch sử phát triển và du nhập của cây cà chua vào các nước trên thế
giới bắt đầu từ thế kỷ XVI.
Ở Châu Âu, theo Lucdewill (1943) cà chua từ Nam Mỹ được đưa vào
Châu Âu từ thế kỷ 16 và đầu tiên được trồng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, từ
đó cà chua được lan truyền đi các nơi khác.

3


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Ở Châu Á, theo Luck Will (1943); Kuo et al và Cs, 1998, thì quá trình
du nhập cà chua vào các nước Châu Á được bắt đầu từ Philipin, đảo Java và
Malayxia, thông qua các lái buôn người Châu Âu và thực dân Hà Lan, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha vào khoảng thế kỷ XVII. Sau đó được trồng phổ biến ra các
vùng khác lân cận trong khu vực.[8]
Ở Việt Nam, Một số nghiên cứu cho rằng cà chua được du nhập vào
Việt Nam từ thời thực dân Pháp chiếm đóng tức là vào khoảng hơn 100 năm
trước đây và được người dân thuần hóa trở thành cây bản địa [1]. Từ đó cùng với
sự phát triển của xã hội thì cây cà chua đang ngày càng trở thành một cây trồng
có giá trị kinh tế và giá trị sử dụng cao ở Việt Nam.
2.1.2. Phân loại cây cà chua
Cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) thuộc họ cà (Solaneceae) chi
(Lycopersicon). Có bộ nhiễm sắc thể 2n=24 và gồm có 12 loài, tất cả đều có

nguồn gốc từ Châu Mỹ. Cà chua được nghiên cứu và lập thành hệ thống phân
loại theo quan điểm riêng của nhiều tác giả: H.J.Muller (1940), Daskalov và
Popov (1941), Luckwill (1943), Lehmann (1953), Brezhnev (1955, 1964)…
nhưng cho đến nay hệ thống phân loại của Brezhnev (1964) được sử dụng
đơn giản và rộng rãi nhất. Theo Brezhnev, chi Lycopersicon được phân làm 3
loài thuộc 2 chi phụ:
+ Chi phụ Eriopersicon: dạng cây một năm hoặc nhiều năm, quả
không bao giờ chín đỏ, luôn luôn có màu xanh, có sọc tía, quả có lông, hạt
nhỏ. Chi phụ này gồm 5 loại hoang dại: L. cheesmanii, L. chilense, L.
glandulosum, L. hirsutum, L. peruvianum. thuộc 2 loài Lycopersicun
hisrutum và - Lycopersicum peruviarum
- Lycopersicun hisrutum Humb: Loài này thường ở độ cao 22002500m, ít khi ở độ cao 1100m so với mặt nước biển, đây là loại cây ngày
ngắn, quả chỉ hình thành trong điều kiện chiếu sáng trong ngày 8-10 h/ngày,
quả chín xanh, có mùi đặc trưng.

4


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

- Lycopersicum peruviarum Mill: loại này thường mọc ở miền Nam
Pêru, bắc Chilê, sống ở độ cao 300-2000m, có xu hướng thụ phấn chéo cao
hơn so với loài Lycopersicon esculentum Mill. Trong điều kiện ngày ngắn cây
ra quả tốt hơn ngày dài, nó không có đặc tính của L. hisrutum, loại này có khả
năng chống bệnh cao hơn các loài khác.
+ Chi phụ Eulycopersicon: là dạng cây hàng năm, quả chín đỏ hoặc
vàng. Quả không có lông hạt mỏng rộng. Chi phụ này có một loài là

Lycopersicon Esculentum.Mill. Loài này gồm 3 loài phụ là:
- L. Esculentum. Mill. Ssp. spontaneum Brezh (cà chua hoang dại).
- L. Esculentum. Mill. Ssp. subspontaneum Brezh (cà chua bán hoang dại).
- L. Esculentum. Mill. Ssp. Cultum (cà chua trồng): là loại lớn nhất, có
các biến chủng có khả năng thích ứng rộng, được trồng khắp thế giới.
Brezhnev đã chia loài phụ này thành biến chủng sau:
L. Esculentum var. Vulgare (cà chua thông thường) biến chủng này
chiếm 75% cà chua trồng trên thế giới. Bao gồm các giống có thời gian sinh
trưởng khác nhau với trọng lượng quả từ 50 đến trên 100g. Hầu hết những
giống cà chua đang được trồng ngoài sản xuất đều thuộc nhóm này.
L.Esculentum var. Grandifolium: Cà chua lá to, cây trung bình, lá láng
bóng, số lá trên cây từ ít đến trung bình.
L.Esculentum var. Validum: cà chua thân bụi, thân thấp, thân có lông
tơ, lá trung bình, cuống ngắn, mép cong.
2.2. GIÁ TRỊ CỦA CÂY CÀ CHUA
2.2.1. Giá trị dinh dưỡng và y học của cây cà chua
Cà chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, được sử dụng rộng
rãi trên khắp thế giới. Quả chín chứa nhiều chất dinh dưỡng như đường,
vitamin A, vitamin C và các khoáng chất quan trọng như canxi, sắt, phot pho,
kali, magie, …

5


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Theo E.D Warr C.Tigchelaar (1989), thành phần hóa học trong quả

chín có nước chiếm 94-95%,vật chất còn lại chiếm 5-6%, bao gồm các chất
sau: Đường: 35% ( đường Fructosa, glucoza, sucroza); chất không hòa tan
trong ruợu: 21% ( Protein, Xenlulo, Pectin, Polysacarit); Axit hữu cơ: 12%
(Xitric, malic, galacturonic, Pỷolidon cacboxylic); Chất vô cơ: 7%; các chất
khác: 5% (Carotenoic, Ascobic axit, chất dễ bay hơi, Aminoaxit...).[4]
Khảo sát trên 100 mẫu giống cà chua trồng vụ xuân hè tại Đồng bằng sông
Hồng cho thấy thành phần hóa học chủ yếu như sau (Tạ Thu Cúc, 1985):
nước: 0,94g%; Protein: 0,6g%; Gluxit: 4,2g%; Xenlulo: 0,8g%; tro: 0,4g%;
Ca: 12mg%; Caroten: 2,0mg%; PP: 0.5mg%.( Nguồn: Bảng thành phần hóa
học thức ăn Việt Nam, 1972).[3]
Trong quả cà chua còn chứa các aminoaxit (trừ tritophan) giá trị dinh
dưỡng của cà chua rất phong phú, vì vậy hàng ngày mỗi người chỉ cần sử
dụng 100-200g cà chua sẽ thỏa mãn nhu cầu vitamin cần thiết và các chất
khoáng chủ yếu (theo Võ Văn Chi 1972).[15]
Bên cạnh giá trị to lớn về mặt dinh dưỡng thì cây cà chua còn có giá trị
trong y học. Cà chua được chỉ định dùng ăn hay lấy dịch quả uống trị suy
nhược, ăn không ngon miệng, nhiễm độc mãn tính, thừa máu, máu quá dính,
xơ cứng tiểu động mạch máu, tạng khớp, thấp phong, thấp khớp, thừa ure
trong máu, viêm ruột… Dùng ngoài để chữa trứng cá và dùng lá để trị vết đốt
của sâu bọ. Nước sắc lá có tác dụng giảm huyết áp, lọc máu, khử trùng đường
ruột. Chất tomarin chiết xuất từ lá cà chua khô có tác dụng kháng khuẩn,
chống nấm, diệt một số bệnh hại cây trồng [12].
Ngoài ra, trong cà chua có chất Lycopen - thành phần tạo nên màu đỏ của
quả cà chua - giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Hàm lượng chất này nhiều
hay ít phụ thuộc vào độ chín của quả và chủng loại cà chua. Đây là một chất oxi
hóa tự nhiên mạnh gấp 2 lần so với beta-caroten và gấp 100 lần so với vitamin E.
Lycopen liên quan đến vitamin E đã được chứng minh là có thể ngăn ngừa ung

6



Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

thư tiền liệt tuyến [20]. Ngoài ra nếu sử dụng nhiều cà chua thì tỉ lệ oxi hóa làm
hư các cấu trúc sinh hóa của AND giảm xuống thấp nhất [9].
2.2.2. Giá trị kinh tế
Đối với nhiều nước trên thế giới thì cây cà chua là một cây trồng mang
lại hiệu quả kinh tế rất cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Theo FAO (1999) Đài Loan hằng năm xuất khẩu cà chua tươi với tổng
trị giá là 952.000 USD và 40.800 USD cà chua chế biến. Lượng cà chua trao
đổi trên thị trường thế giới năm 1999 là 36,7 tấn trong đó cà chua được dùng
ở dạng ăn tươi chỉ 5-7%. Ở Mỹ (1997) tổng giá trị sản xuất 1ha cà chua cao
hơn gấp 4 lần so với lúa nước, 20 lần so với lúa mì [3].
Ở Việt Nam tuy cà chua mới được trồng khoảng trên 100 năm nay
nhưng nó đã trở thành một loại rau phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Theo
số liệu điều tra của phòng nghiên cứu thị trường Viện nghiên cứu rau quả, sản
xuất cà chua ở Đồng bằng sông Hồng cho thu nhập bình quân 42,0-68,4 triệu
đồng/ha/vụ với mức lãi thuần 15-25 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so với
trồng lúa [13].
Trong đề án phát triển rau, quả và hoa cây cảnh thời kỳ 1999-2010
của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cà chua là một trong những mặt
hàng được quan tâm phát triển. Theo đề án năm 2005 diện tích trồng cà chua
toàn quốc sẽ là 2000 ha. Với sản lượng 80.000 tấn, cho giá trị xuất khẩu 10
triệu USD; năm 2010 diện tích tăng lên 6000 ha, tổng sản lượng đạt 240.000
tấn cho giá trị xuất khẩu là 100 triệu USD.[16]
2.3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC CỦA CÂY CÀ CHUA
Cà chua có hệ rễ thuộc hệ rễ chùm, ăn sâu và phân nhánh mạnh, có thể

ăn sâu đến 1,5m. Hệ rễ phân bố chủ yếu ở tầng đất 0-30cm, trong phạm vi bán
kính 60-65cm. Rễ phát triển tốt nhất ở nhiệt độ trung bình ngày 26,5 0C, đêm
từ 16-220C.

7


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Cà chua thân bụi, phân nhánh mạnh, toàn thân có lớp lông mền và lông
tuyến phủ. Trên thân có nhiều đốt và có khả năng ra rễ bất định.
Lá cà chua thuộc loại lá kép lông chim lẻ, phân thùy. Mỗi lá hoàn
chỉnh có từ 3-4 đôi lá chết. Màu sắc lá, răng cưa nông hay sâu tùy thuộc vào
đặc điểm của từng giống.
Hoa cà chua là hoa chùm, màu vàng, mọc thành xim thưa ở kẽ lá.
Hoa đính vào chùm, có một lớp tế bào riêng rẽ hình thành ở cuống hoa. Vì
nguyên nhân bất thuận sẽ hình thành tầng rời ở cuống hoa, lớp tế bào đó chết
đi và hoa sẽ rụng.
Quả cà chua chín là quả mọng bao gồm vỏ, thịt quả, vách ngăn, giá
noãn và ở giữa là trục. Cà chua được trồng hiện nay thường có màu đỏ, đỏ
hồng, vàng và vàng cam.
Hạt cà chua nhỏ, dẹt, nhọn, ở cuống hạt có màu vàng sáng, vàng tối
hoặc vàng nhạt, hạt của một số giống có phủ lông tơ.
2.4. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH CỦA CÂY CÀ CHUA
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng nói chung
và cây cà chua nói riêng luôn luôn chịu sự tác động của điều kiện ngoại cảnh.
Trong đó các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, dinh dưỡng và đất đai

đóng vai trò quan trọng.
2.4.1. Nhiệt độ
Cà chua có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới khô nên ưa nhiệt độ ấm áp, khả
năng thích ứng rộng. Nhiệt độ ảnh hưởng suốt quá trình sinh trưởng và phát
triển của cây cà chua: từ nảy mầm, tăng trưởng cây, nở hoa, đậu quả, hình
thành hạt và năng suất thương phẩm.
Hạt cà chua có thể nảy mầm thích hợp ở nhiệt độ 25-30 0C, nhiệt độ đất
thích hợp là 290C[6]. Mùa khô, điều kiện nhiệt độ yêu cầu ban ngày là 21250C, ban đêm là 15-200C. Trong giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng, cà chua

8


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

yêu cầu nhiệt độ từ 18-240C, cây ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ >350C và
<250C. Nếu nhiệt độ ở 100C trong thời gian dài sẽ làm cây chết.
Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển cà chua đặc biệt ở
thời kỳ đậu qủa. Nhiệt độ tối ưu cho cây phát triển đậu quả là 20-27 0C (ngày),
13-160C (đêm). Khi nhiệt độ tăng làm giảm khả năng đậu quả. Để ra hoa nhiệt
độ đòi hỏi không thấp hơn 14-150C (ngày).[7]
Nhiệt độ còn là yếu tố quan trọng liên quan đến sự hình thành sắc tố ở
quả. Màu đỏ đặc trưng của quả cà chua do sắc tố lycopen tạo thành chỉ được
hình thành ở nhiệt độ 20-250C. Trên nhiệt độ này sắc tố đó bị phá hủy hoặc
không hình thành. Đó là cơ sở khoa học giải thích vì sao trong vụ xuân hè
màu sắc cà chua thường không được đỏ nhất là những năm vụ xuân hè có
nắng nóng sớm.
2.4.2. Ánh sáng

Theo một số kết quả nghiên cứu thì cà chua là cây trồng không phản
ứng chặt chẽ với thời gian chiếu sáng trong ngày. Do đó, nếu nhiệt độ thích
hợp cà chua có thể sinh trưởng, phát triển ở nhiều vùng sinh thái khác nhau
trên đất nước ta [10]. Tuy cây cà chua không phản ứng chặt chẽ với thời gian
chiếu sáng nhưng cây cà chua đòi hỏi cường độ chiếu sáng mạnh trong suốt
thời kỳ sinh trưởng, nếu thiếu ánh sáng cây sẽ sinh trưởng yếu, thời gian sinh
trưởng kéo dài và sản lượng thấp, chất lượng quả giảm, hương vị kém. Thiếu
ánh sáng nghiêm trọng dẫn đến rụng nụ, rụng hoa, rụng quả. Cường độ ánh
sáng yếu làm cho nhụy bị co rút lại, phát triển không bình thường, giảm khả
năng tiếp thu hạt phấn của núm nhụy. Somos (1971) đã chứng minh rằng: để
cho cà chua sinh trưởng bình thường ra hoa kết quả thì cần có chế độ chiếu
sáng với cường độ chiếu sáng không dưới 1000 lux, ánh sáng yếu ức chế quá
trình sinh trưởng, làm chậm giai đoạn từ sinh trưởng sinh dưỡng sang sinh
trưởng sinh thực (theo Tạ Thu Cúc, 1985) [3]. Điều đó chứng tỏ cây cà chua
là cây ưa sáng mạnh. Ánh sáng đầy đủ, tốt cây con sinh trưởng tốt, ra hoa quả

9


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

thuận lợi, năng suất chất lượng quả tốt. Trong điều kiện thiếu ánh sáng có thể
điều khiển sự sinh trưởng, phát triển của cây thông qua chế độ dinh dưỡng
khoáng. Cần tăng cường bón phân kali và phân lân tùy theo đặc trưng đặc tính
của từng giống. Cần bố trí mật độ thích hợp để cây sử dụng ánh sáng có hiệu
quả nhất.
2.4.3. Nước, độ ẩm

Chế độ nước trong cây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến cường
độ của các quá trình sinh lý cơ bản: quang hợp, hô hấp, sinh trưởng và phát
triển…Theo cấu tạo của lá và hệ rễ thì cây cà chua là loại cây trồng tương đối
chịu hạn nhưng không có khả năng chịu úng.
Somos (1971) đã quan sát thấy sự tiêu hao nước của cà chua trong 1
ngày đêm là 20-650g, sự khác nhau khá xa đó có liên quan đến sự phát triển
của cây và điều kiện thời tiết. Độ ẩm đất thích hợp cho cây sinh trưởng phát
triển tốt là 70-80%. Thời kỳ khủng hoảng nước là từ khi hình thành phấn hoa,
ra hoa, hình thành quả và quả phát triển. Cà chua yêu cầu độ ẩm không khí
thấp trong quá trình sinh trưởng và phát triển, độ ẩm thích hợp là 45-55%.
Nước ta là một nước có khí hậu nóng ẩm, độ ẩm không khí cao nên cà chua
nhiễm nhiều loại bệnh hại, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm
cho năng suất và chất lượng cà chua chưa cao.
2.4.4. Đất và dinh dưỡng
Cà chua yêu cầu chế độ luân canh rất nghiêm ngặt, không được trồng
cà chua trên đất mà cây trồng trước là cây họ cà nhất là cây khoai tây. Đất
phù hợp với cây cà chua là đất thịt nhẹ, đất thịt trung bình, đất thịt pha cát,
giàu mùn, tơi xốp, tưới tiêu thuận lợi. Độ pH từ 5,5-7,5, đất chua, độ pH dưới
5,5 thì trung hòa bằng cách bón thêm vôi vào đất trước khi trồng. Khối lượng
vôi bón từ 2-3 tấn đến 5 tấn/ha tùy theo độ chua của đất. Độ pH từ 6,0-6,5
thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển. Cà chua là cây có thời gian sinh
trưởng dài, thân lá sinh trưởng mạnh, cành lá sum suê, khả năng ra hoa, ra quả

10


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –


nhiều, tiềm năng năng suất lớn. Vì vậy cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng là
yếu tố có tính chất quyết định đến năg suất và chất lượng quả.
Chất dinh dưỡng: P, N, K, S, Mg, B, Fe, Mn, Cu, Zn, Mo, Ca. Trong đó
cà chua hút nhiều nhất là kali, tiếp đến là đạm và ít nhất là lân. Cà chua sử
dụng 60% lượng đạm, 59-60% K2O và 15-20% P2O5 tổng lượng phân bón vào
đất suốt vụ trồng. Vai trò các nguyên tố dinh dưỡng với cây cà chua cụ thể
như sau:
- Đạm: Cây cần nhiều vào thời kỳ ra hoa kết quả để thúc đẩy sinh
trưởng thân lá, phân hóa hoa sớm, tăng số hoa trên cây, hoa to, tăng khối
lượng quả và tăng năng suất.
- Lân: Kích thích quả lớn nhanh trong điều kiện bón đạm đầy đủ. Thiếu
lân, cây đồng hóa kém do đó kéo theo thiếu đạm và một số yếu tố khác.
- Kali: Kali giúp cho các tế bào cứng cáp hơn, làm tăng khả năng cất
trữ, vận chuyển, tăng khả năng kháng bệnh cho cây đồng thời chiếm giữ vai
trò trong việc hình thành màu sắc quả, tăng lượng sắc tố carotene và giảm sắc
tố chlorophin.
- Các yếu tố vi lượng: tác dụng quan trọng đối với sự sinh trưởng và
phát triển của cây đặc biệt là cải thiện chất lượng quả. Cà chua phản ứng tốt
với các nguyên tố vi lượng B, Mn, Zn…Trên đất chua nên bón phân Mo [4].
2.5. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ CHUA TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.5.1.Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới
Hiện nay cà chua là một loại rau được sử dụng rộng rãi trên khắp thế
giới trong các bữa ăn, trong thẩm mỹ và công nghiệp chế biến. Chính vì vậy
mà diện tích trồng cà chua luôn luôn tăng trong các năm trước và gần đây.
Theo FAO (2005) hiện nay có tới 150 nước trồng cà chua với diện tích
4.570.869 ha, năng suất trung bình là 27,222 (tạ/ha), sản lượng là 124.426,995
tấn. Trong đó đứng đầu về diện tích cà chua là Châu Á với diện tích là

11



Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

2.563.991 ha, Châu Âu đứng đầu về năng suất với 410.165 tạ/ha, Trung Quốc
là nước có diện tích trồng cà chua lớn nhất thế giới.
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới.
Năm
1995
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2005

Diện tích

Năng suất

(triệu ha)
3,272 021
3,566 252
3,566 252
3,763 183

3,750 176
3,745 229
3,998 219
4,188 389
4,570 869

(tấn/ha)
26,770
25,044
26,453
27,734
27,192
26,770
27,005
27,921
27,222

Sản lượng

(triệu tấn)
87,592 093
89,313 832
94,338 747
104,366 671
101,975 637
100,259 346
109,972 098
116,943 619
124,426 995
(Nguồn FAO – Database 2006)


Sản lượng cà chua chiếm xấp xỉ 1/6 tổng sản lượng rau hàng năm trên
toàn thế giới. Châu Âu là khu vực nhập khẩu cà chua lớn nhất thế giới,
khoảng 21 triệu tấn quả tươi hàng năm, bằng 60% lượng nhập toàn thế giới.
Thị trường nhập khẩu lớn nhất là Anh, Đức, Hà Lan, Italia, Bỉ và Tây Ban
Nha. Nhưng đồng thời Châu Âu cũng là khu vực xuất khẩu sản phẩm cà chua
chế biến nhiều nhất thế giới chiếm khoảng 56% tổng lượng xuất khẩu đứng
đầu là Mỹ và Italia, trong đó khu vực châu Á sản phẩm cà chua chế biến xuất
khẩu chỉ chiếm 21 %.

12


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Bảng 2.2. Sản lượng cà chua của thế giới và 10 nước dẫn đầu thế giới
trong 4 năm
Quốc gia
Thế giới
Trung Quốc
My
Thổ Nhĩ Ky
Ấn Đô
Italy
Ai Cập
Tây Ban Nha
Braxin

Iran
Mehico
Hy Lạp

1995
85,592 093
13,172 494
11,784 000
7,250 000
5,260 000
5,182 000
5,034 179
2,841 100
2,715 016
2,403 367
2,309 968
2,064 160

Sản lượng (triệu tấn)
2000
2003
2005
108,339 598 116,943 619 124,426 995
22,324 767
28,842 743
31,644 040
11,558 800
10,522 000
11,644 040
8,890 000

9,820 000
9,700 000
7,430 000
7,600 000
7,600 000
7,538 100
6,651 505
7,087 016
6,785 640
7,140 198
7,600 000
3,766 328
3,947 327
4,651 000
2,982 840
3,708 600
3,396 767
3,190 999
4,200 000
4,200 000
2,086 030
2,148 130
2,800 115
2,085 000
1,830 000
1,713 580
(Nguồn FAO – Database 2006)

Cà chua sản xuất ở Châu Mỹ, Châu Âu thường được chế biến thành các
dạng sản phẩm khác nhau như cà chua đóng hộp, cà chua cô đặc…Xuất khẩu

cà chua cô đặc ở Châu Âu chiếm tới 56% lượng xuất khẩu trên toàn thế giới.
Sản lượng cà chua Châu Á và Châu Phi cao nhưng do chất lượng không đồng
đều nên chủ yếu được tiêu thụ tại chỗ.
Giá cà chua trên thế giới hiện nay tăng hầu hết ở các thị trường. Mới
đây thị trường bắc Italia, giá cà chua đã lên tới 700 eure/tấn. Nguồn cà chua
cung ứng cho thị trường thế giới chủ yếu là Châu Á đặc biệt là Trung Quốc,
tiếp đến là Hoa Kỳ và Châu Âu.[18]
2.5.2. Tình hình sản xuất trong nước
Ở Việt Nam cây cà chua mới được trồng từ hơn 100 năm nay, diện tích
cà chua trồng hàng năm chiếm khoảng 7-10% tổng diện tích rau của cả nước
và chiếm 3-4% tổng sản lượng. Sản xuất cà chua phát triển chủ yếu vào vụ
đông với diện tích khoảng 6800-7300 ha tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc

13


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

đồng bằng và trung du Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc…) còn ở
Miền Nam tập trung ở các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Lâm Đồng…
Bảng 2.3. Diện tích, năng suất và sản lượng cà chua từ 2001 – 2005
Năm
2000
2001
2002
2003
2004

2005

Diện tích

(nghìn

ha)
13,729
17,834
18,868
21,628
24,644
23,354

Năng suất

Sản lượng

(tấn/ha)
(nghìn tấn)
15,126
207,658
15,717
280,289
16,550
312,178
16,410
354,846
17,210
424,126

19,800
462,435
(Nguồn: Tổng cục thống kê 2006)

Giai đoạn 2001–2005 diện tích trồng cà chua ở nước ta tăng lên đáng
kể từ 13.729 (2001) đến 23.354 ha (2005). Tại thời điểm năm 2005 năng suất
đạt 19,8 tấn/ha, tăng 2,59 tấn/ha so với năm 2004 (17,21 tấn/ha) nhưng năng
suất cà chua của nước ta vẫn còn thấp, chỉ bằng 62% so với năng suất trung
bình toàn thế giới.
Về diện tích trồng có sự tăng trưởng vượt trội nhất là giai đoạn từ
2000-2001, chỉ trong vòng một năm diện tích đã tăng tới 4.105 ha.
Về sản lượng, năm 2005 đạt 462,435 nghìn tấn mặc dù đã tăng 2,23 lần
so với năm 2000 nhưng chỉ đủ cung cấp 5,5 kg quả/người/năm, bằng 35% so
với mức trung bình toàn thế giới.
Tính đến tháng 7 năm 2008, Lâm Đồng hiện là địa phương có diện tích,
năng suất và sản lượng cà chua lớn nhất cả nước với khoảng từ 4000 đến
5000 ha gieo trồng hàng năm. Đơn Dương là nơi có diện tích trồng cà chua
lớn nhất tỉnh khoảng từ 3000 đến 3500 ha mỗi năm, năng suất trung bình đạt
khoảng 40-45 tấn/ha, một số trường hợp năng suất có thể đạt từ 80-90 tấn/ha.
[17]
Theo kết quả điều tra của TS. Phạm Đồng Quảng và cộng sự, hiện nay
cả nước có khoảng 115 giống cà chua được gieo trồng, trong đó có 10 giống

14


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –


được gieo trồng với diện tích lớn 6259 ha, chiếm 55% diện tích cả nước.
Giống M386 được trồng nhiều nhất với diện tích khoảng 1432 ha, tiếp theo là
các giống cà chua Pháp, VL 2000, TN002, Red Crown, T42, HT7, TN129,
TN2700, TN54, Hà Lan, TN52, P375,….[14],[2]
2.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÀ CHUA
Chọn giống là một trong những khâu rất quan trọng trong quy trình
sản xuất. Ngay từ xa xưa con người đã biết chọn những cây tốt, khỏe, ngon để
giữ lại làm hạt giống. Đó là quá trình chọn lọc nhân tạo. Sau đó người ta sử
dụng những đột biến tự nhiên và đột biến nhân tạo để sử dụng làm vật liệu
cho quá trình chọn lọc giống mới. Ngày nay, với trình độ khoa học kỹ thuật
hiện đại, các nhà chọn giống đã áp dụng các phương pháp mới như nuôi cấy
mô kết hợp với các phương pháp chọn tạo truyền thống để tạo ra những giống
cà chua mới phục vụ cho nhu cầu ngày một cao của con người.
2.6.1. Tình hình nghiên cứu cà chua trên thế giới
Việc chọn tạo giống đã được ghi nhận đầu tiên vào giữa thế kỷ XIX ở
Châu Âu. Năm 1863, đã có 23 giống cà chua được giới thiệu trong đó giống
Trophy được coi là giống có chất lượng tốt nhất với 5 USD 1 gói nhỏ có 20
hạt giống.
Chương trình thử nghiệm của Liberti Hyde Bailey tại trường nông
nghiệp Michigan (Mỹ) bắt đầu từ năm 1886, tác giả đã tiến hành chọn lọc,
phân loại giống cà chua chọn lọc.[4]
Ở Italia vào những năm 1970 đã tạo ra được bộ giống CS80/64,
CS67/74, CS72/64. Là các giống có khả năng chịu hạn, cho năng suất cao,
chống chịu bệnh tốt, chín tập trung nên rất thích hợp cho việc thu hoạch bằng
cơ giới. Những giống này được sử dụng để sản suất nước sốt cà chua là chủ
yếu.[15]
Ở Ai Cập, từ năm 1977 đến năm 1984 đã tiến hành nghiên cứu chọn
tạo giống cà chua chịu nhiệt có năng suất cao. Kết quả cho thấy: Các giống có


15


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

nguồn gốc từ Mỹ như: Cal. Ace, Housney, Prit Chard, VFN–8 và VFN–
Bash…đều có những đặc tính tốt như quả to, có năng suất và chất lượng cao.
Một số giống khi quả chín có màu vàng như Caro Kich, Golde Bay, Tubiler
và có hàm lượng khá cao. Các giống này rất thích hợp để trồng các vụ có điều
kiện nhiệt độ cao.
Nhiều công trình nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu và phát triển
rau Châu Á (AVRDC) cho thấy những giống cà chua chọn tạo trong điều kiện
ôn đới không thích hợp với điều kiện nống ẩm vì sẽ tạo những quả kém chất
lượng như có màu đỏ nhạt, nứt quả, vị nhạt hoặc chua…(Kuo và cs, 1998)
[20]. Theo ý kiến của Anpachev (1978), Iorganov (1971), Phiên Kì Mạnh
(1961) (dẫn theo Kiều Thị Thư, 1998) [15] thì xu hướng chọn tạo giống cà
chua mới là:
+ Tạo giống chín sớm phục vụ cho sản xuất vụ sớm
+ Tạo giống cho sản lượng cao, giá trị sinh học cao, dùng làm rau tươi
và nguyên liệu cho chế biến đồ hộp
+ Tạo giống chín đồng loạt thích hợp cho cơ giới hóa
+ Tạo giống chống chịu sâu bệnh
Viện nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Malaysia (MARDI) đã phối
hợp với AVRDC và trung tâm nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới (TARC) ở
Nhật Bản để xúc tiến chương trình cải tiến giống cà chua triển vọng. Đã chọn
được 6 dòng có khả năng chịu nhiệt và chống chịu vi khuẩn: MT1, MT2,
MT3, MT4, MT5, MT6, MT10 [21].

Nhiều thử nghiệm về các giống cà chua được tiến hành ở AVRDCTOP, trường đại học Kasestart Thái Lan đã chọn tạo nhiều giống được đánh
giá là chất lượng tốt kết hợp với tính chịu nóng, năng suất cao và chống bệnh
cụ thể là các giống cà chua anh đào CHT104, CHT92, CHT105 có năng suất
cao, chống chịu bệnh tốt, màu sắc quả đẹp, hương vị ngon, quả chắc. Các

16


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

giống PT225, PT3027, PT4165, PT446, PT4121 cho năng suất cao, chất
lượng tốt, chống bệnh và chống nứt quả (Chu Jinping, 1994) [22]
Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau Châu Á còn phát triển chương
trình về các dòng tự phối hữu hạn và vô hạn có khả năng đậu quả cho phép ở
giới hạn nhiệt độ cực đại 32-340C và cực tiểu 22-240C đã đưa được nhiều
giống lai có triển vọng, được phát triển ở một số nước nhiệt đới như CLN
161L, CLN 2001C, CL5915-204DH, CL143…(Morris 1998) [23]
Tháng 8/2005, AVRDC giới thiệu 3 giống cà chua triển vọng là
CLN2026D, CLN2116B, CLN2123A. Cả 3 giống này đều sinh trưởng hữu
hạn, có khả năng chịu nhiều loại bệnh như héo xanh vi khuẩn, héo rũ do nấm,
virus….trong đó giống CLN2026D quả có thể dùng ăn tươi hoặc chế biến;
giống CLN2116B có quả tròn, chịu nóng tốt, thích hợp trồng nửa cuối mùa
khô; giống CLN2123A là giống có khả năng chịu nóng cao, quả thuôn dài
phục vụ cho cả ăn tươi và chế biến [24].
Ở Mỹ công tác chọn giống cà chua được tiến hành từ rất sớm, đến nay
đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Trường Đại học California đã chọn ra
được những giống cà chua mới như: UC-105, UC-134, UC-82 có năng suất

cao hơn hẳn VE-145 và có nhiều đặc điểm tốt như: tính chịu nứt quả cao và
quả cứng. (Dẫn theo nguồn tài liệu của Hồ Hữu An, 1996).
Các nhà khoa học tại Mỹ đã tạo ra những giống cây trồng biến đổi gen
trong đó có cà chua. Những giống cây trồng này ngoài khả năng chống chịu
được sâu bệnh, tuyến trùng, khô hạn, sương muối mà còn có khả năng cất giữ
bảo quản lâu, chất lượng cao, mang nhiều dược tính, năng suất cao. Các nhà
nghiên cứu tại đại học bang Oregon (Mỹ) đang hoàn thiện một giống cà chua
tím, đây là một sự kết hợp giữa màu sắc và chất dinh dưỡng. Màu tím trong
quả cà chua do có chứa chất Phytochemical, có khả năng giảm nguy cơ ung
thư và bệnh tim. Loại cà chua này có nguồn gốc từ dạng dại ở Nam Mỹ. Hàng
trăm năm trước các nhà khoa học đã phát hiện cà chua màu tím trong thiên

17


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

nhiên nhưng loài cây này nhỏ và có độc. Vào thập niên 1960-1970, các nhà
khoa học đã thu nhặt hạt giống từ cà chua tím và lai với loài hiện đại để cho
ra loại quả an toàn với mọi người hơn dạng ban đầu của nó.
Hiện nay, các nhà khoa học trên toàn thế giới vẫn đang tiếp tục tiến
hành các nghiên cứu và thử nghiệm và áp dụng những thành tựu của Công
Nghệ Sinh Học vào việc chọn tạo giống cà chua để tạo ra các giống cà chua
mới. Trung Quốc là nước đầu tiên có Công nghệ chuyển gen mang tính
thương mại với các sản phẩm của công nghệ chuyển gen trên cà chua. Mỹ là
nước bán ra thị trường giống cà chua có gen kìm hãm sự chín ở cà chua có tên
là: Elavasarr. T. M vào những năm 90, loại cà chua có tính biến đổi di truyền

cao, có thời gian chín hơn 10 ngày.
2.6.2. Tình hình nghiên cứu cà chua trong nước
Cà chua là một loại rau chủ lực có diện tích trồng ngày càng tăng ở
nước ta. Cà chua phát triển mạnh trong các thời vụ chính khi mà điều kiện ẩm
độ cũng như nhiệt độ là rất thích hợp cho quá trình sinh trưởng, phát triển và
ra hoa đậu quả của chúng. Đa số những giống phù hợp đó lại là các giống cho
năng suất không cao, lại có khả năng kháng sâu bệnh kém.
Tạo giống cây trồng ưu thế lai là lĩnh vực được quan tâm lớn ở nhiều
nước trên thế giới, đặc biệt đối với các cây rau. Trung tâm nghiên cứu và phát
triển rau châu Á, các viện, các trung tâm tạo giống khác nhau ở châu Âu, Mỹ,
Trung Quốc, … hàng năm đưa ra nhiều giống cà chua lai nổi tiếng với nhiều
ưu điểm về năng suất, chất lượng, chịu nóng và chống chịu các bệnh hại nguy
hiểm như bệnh chết héo xanh, bệnh virus, … Các công ty tư bản thâu tóm các
giống rau lai để thương mại trên phạm vi toàn cầu. Từ năm 1995–1996 tới
nay, các giống nước ngoài nhập vào nước ta ngày càng tăng, điều này tạo cho
ngành chọn giống trong nước đứng trước thách thức và cạnh tranh rất lớn.
Các giống nhập nội có nhiều ưu điểm, song vẫn mang những nhược
điểm kém phù hợp với cơ cấu luân canh cây trồng, thời tiết miền Bắc Việt

18


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Nam. Việc nghiên cứu tạo ra các bộ giống cà chua có năng suất, chất lượng
cao, phù hợp với điều kiện miền Bắc Việt Nam luôn là đòi hỏi rất cấp thiết.
Ở nước ta nhiều viện, trường, trung tâm, … triển khai các nghiên cứu

về tạo giống và kỹ thuật thâm canh cà chua. Trong đó có thể dẫn đến một số
đơn vị chủ lực như: Viện nghiên cứu rau quả Trung ương, Viện CLT và TP,
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Các nghiên cứu và phát triển cà chua ở
nước ta có thể phân ra các giai đoạn sau.[11]
Giai đoạn 1986: nhằm mục đích chọn được những giống cà chua thích
hợp cho vụ Xuân Hè ở vùng ĐBSH, từ năm 1973-1984, Tạ Thu Cúc đã tiến
hành nghiên cứu tập đoàn gồm 100 mẫu giống cà chua nhập nội. Được trồng
trong vụ Xuân Hè ở vùng Gia Lâm – Hà Nội. Kết quả cho thấy loại cà chua
hoang dại L.Racemogerum có khả năng chống chịu sâu bệnh cao nhất. Tiếp
đến là các giống như: Pháp số 7, BeA-5, CuBa, …các giống BeA-5, BeA-1,
Nhật số 2 cho năng suất cao nhất. (Tạ Thu Cúc, 1985).[3]
Giai đoạn 1986-1995: Các nghiên cứu về chọn tạo giống cà chua đã
thu được một số kết quả, đi theo hai hướng.
Các giống trồng ở điều kiện vụ Đông truyền thống như số 7, 214, Hồng
Lan (Viện CLT và TP), HP5 (Công ty nhập khẩu rau quả Hải Phòng).
Ở giai đoạn này đã tiến hành các nghiên cứu về tạo giống cà chua chịu
nóng để phục vụ cho trồng trái vụ. Trên thế giới, những năm 80 và đầu những
năm 90 của thế kỷ 20 đã tập trung nghiên cứu mạnh về cà chu chịu nóng. Do
điều kiện nóng ở miền Bắc Việt Nam khá đặc thù nên nhiều cơ sở nghiên cứu
ở nước ta tới năm 1994-1995 vẫn chưa đưa ra được giống cà chua chịu nóng
đảm bảo chất lượng thương phẩm để trồng trong sản xuất. Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội là cơ quan nghiên cứu về chọn tạo giống cà chua MV1
có khả năng chịu nóng trồng được được trái vụ đáp ứng về năng suất và chất
lượng thương phẩm. Giống này phát triển diện tích đại trà lớn và tới năm
1997 thì MV1 được công nhận là giống quốc gia (Nguyễn Hồng Minh, Kiều

19


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp

K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Thị Thư, 1998), đây là giống cà chua chịu nóng trồng trái vụ đầu tiên được
chọn tạo nở nước ta trồng trên diện tích lớn ở vụ sớm và vụ muộn xuân hè.
Giai đoạn 1996-2005: Từ trước 1995 nghiên cứu tạo giống cà chua ưu
thế lai ở nước ta đã được đề cập, song giai đoạn từ sau 1995 vấn đề mới được
phát triển mạnh nhằm tạo ra các giống cà chua lai có ưu điểm trồng ở chính
vụ và trái vụ. Bên cạnh đó vấn đề chọn tạo giống cà chua phục vụ chế biến
công nghiệp cũng được chú trọng.
Tuy nhiên từ 1995-1996 trở đi các giống cà chua lai nước ngoài nhập
vào nước ta ngày càng ào ạt. Chọn tạo giống cà chua trong nước đứng trước
những thách thức và cạnh tranh rất lớn.
Tạo giống cà chua lai và công nghệ sản xuất hạt giống lai cà chua được
triển khai nghiên cứu hệ thống và nhiều hơn cả là trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội đã nghiên cứu các công nghệ sản xuất hạt giống cà chua lai
bằng công nghệ như: bỏ qua công đoạn khử đực cây mẹ, bằng sử dụng các
dòng bố mẹ có tính trạng bất dục đực và tính trạng bất thụ, công nghệ có sử
dụng khử đực cây mẹ bằng thủ công, Đại học Nông nghiệp Hà Nội cũng đã
nghiên cứu tạo ra quy trình công nghệ sản xuất hạt giống cà chua lai trên quy
mô đại trà đầu tiên ở nước ta vào năm 1997-1998. từ năm 1998, giống cà chua
lai HT7 của trường ĐHNNHN bắt đầu mở rộng diện tích sản xuất đại trà.
Tháng 9 năm 2000, tại hội nghị khoa học, Bộ Nông nghiệp đã công nhận
chính thức giống cà chua lai HT7 là giống quốc gia. HT7 có sức cạnh tranh
với các giống ngoại nhập (do có nhiều ưu điểm độc đáo về trồng trái vụ, ngắn
ngày, chất lượng, …) nên nó được phát triển mạnh trên diện tích đại trà lớn
nhiều năm liên tục. Như vậy, HT7 là giống cà chua lai quốc gia đầu tiên của
Việt Nam phát triển trên diện tích sản xuất lớn. Năm 2004, đã đưa ra một số
giống cà chua lai mới công nhận tạm thời: HT21 (ĐHNNHN) và VT13 (Viện

CLT và TP). Gần đây (2005-2006), nhiều giống cà chua lai của trường

20


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

ĐHNNHN có khả năng cạnh tranh với các giống ngoại nhập phát triển trên
diện tích sản xuất lớn như: HT42, HT160 và các giống khác.
Ở giai đoạn này một số giống cà chua tự thụ chọn lọc (giống thuần)
phục vụ chế biến được đưa ra như: PT18 (Viện nghiên cứu rau quả Trung
ương), C95 (Viện CLT và TP). Tuy nhiên trước áp lực cạnh tranh của các
giống ngoại nhập chúng chưa tìm được sự phát triển trong sản xuất.
Giai đoạn từ 2005-2006 đến nay: Sau nhiều năm phát triển sản xuất cà
chua tới năm 2004-2005 đã đạt diện tích khá lớn ở nước ta. Tuy nhiên với sự
phát triển ào ạt của các giống ngoại nhập, nguy cơ các dịch bệnh ngày càng
cao, từ 2005-2006 bùng phát dịch virus rất mạnh ở các vùng sản xuất cà chua
lớn. Những năm 2005, 2006, 2007 diện tích sản xuất cà chua ở nước ta đã bị
giảm do dịch bệnh này. Vấn đề chọn tạo các giống cà chua cần nhấn mạnh
khả năng kháng bệnh virus. Những nghiên cứu này đang được triển khai ở
một số cơ sở nghiên cứu ở nước ta, trong đó có trường ĐHNNHN.
Cũng từ 2005-2006 sản xuất cà chua mini (quả nhỏ) ở nước ta cũng đã
có sự phát triển khởi sắc về diện tích (phục vụ chủ yếu cho đóng hộp xuất
khẩu). Chọn tạo giống cà chua quả nhỏ trước 2005 đã được triển khai ở một
số cơ sở nghiên cứu ở nước ta, trong đó có ĐHNNHN. Tuy nhiên kết quả về
chọn tạo giống cà chua quả nhỏ giai đoạn trước 2005 là chưa đáng kể. Trường
ĐHNNHN sau nhiều năm nghiên cứu về tạo các giống cà chua lai quả nhỏ,

năm 2003-2004 đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất hạt hạt giống cà
chua lai quả nhỏ trên quy mô đại trà, đã tạo ra bộ giống cà chua lai quả nhỏ
HT144 đã phát triển diện tích sản xuất đại trà lớn, phục vụ cho nội tiêu và
xuất khẩu (đóng hộp nguyên quả). HT144 là giống cà chua lai quả nhỏ đầu
tiên của Việt Nam chất lượng cao cạnh tranh thành công với các giống thế
giới để phát triển sản xuất lớn. Bên cạnh HT144, nhiều giống cà chua lai khác
mang thương hiệu HT đã được tiếp tục đưa ra, quảng bá để phát triển sản
xuất, trong đó có các giống tham gia trình diễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

21


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Trong những năm gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã áp dụng
thành công kỹ thuật ghép cà chua trên cà tím, cà chua trên khoai tây. Mặc dù
trồng cà chua ghép có chi phí cao hơn nhưng nó hạn chế được nhiều vấn đề
trở ngại của vụ cà chua Xuân Hè, giúp cho nông dân có thể trồng cà chua trái
vụ cho năng suất cao. Kỹ thuật ghép cà chua trên cà tím được trung tâm phát
triển rau Châu Á (AVRDC) chuyển giao cho viện nghiên cứu rau quả từ năm
1998, đến nay đã được mở rộng ở nhiều vùng trên cả nước như: Hải Phòng,
Bắc Giang, Hà Nội, Thái Bình, Vĩnh Phúc…Năm 2005, thông qua dự án phát
triển Nông nghiệp bền vững ven đô (SUSPER). Viện nghiên cứu rau quả đã
chuyển giao công nghệ ghép cà chua cho công ty Giống cây trồng Hà Nội,
cung cấp cho các huyện ngoại thành hàng vạn cây cà chua ghép [19]. Theo
kết quả thí nghiệm của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội khi ghép 2
giống MV1 Và HT7 trên gốc ghép cà tím EG203 thì cây cà chua ghép có khả

năng kháng bệnh héo xanh tốt và chịu ngập úng 72 giờ (Vũ Thanh Hải,
Nguyễn Văn Đĩnh, 2004) [5].

PHẦN III: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm gồm 15 giống cà chua lai do Trung tâm nghiên cứu và phát
triển giống rau chất lượng cao - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đưa ra:
Q14, Q18, Q19, Q4, Q5, Q7, Q8, T06, T119, T26, T29, T33, T35, T357, T51.
Giống đối chứng là giống nhập nội Savior (B22) do công ty Syngenta cung ứng.
3.1.2. Thời gian và địa điểm tiến hành thí nghiệm
- Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện vụ xuân hè năm 2011 tại
xã Cộng Hòa huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương

22


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

- Thời gian thực hiện: tháng 1/2011 đến tháng 6/2011.
3.2. PHƯƠNG PHÁP BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
Thí nghiệm bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh RCB với 3 lần nhắc lại
(mỗi ô thí nghiệm có diện tích 7,2 m2, trồng 18 cây /ô). Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
Dải bảo vệ

T35
Q5


Q14
Q8

Q19
T357

T29
T06

Q18
T26

T51
Q7

T119
Q4

B22
T33

T357
bảo
Q14

T26
T06

Q18

T33

Q8
B22

Q4
Q5

T51
T119

T35
Q7

Q19
T29

T51
Q18

Q19
Q14

Q8
Q5

T357
T35

Q4

Q7

T29
T33

T26
B22

T06
T119

Dải
vệ

Dải
bảo
vệ

Dải bảo vệ

23


Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

3.3. KỸ THUẬT TRỒNG TRỌT
3.3.1. Thời vụ trồng

- Gieo hạt : Từ 25/01/2011
- Trồng ra ruộng sản xuất: Từ 6/03/2011
3.3.2. Mật độ và khoảng cách
- Mật độ: mỗi ô thí nghiệm 7,2m2, trồng 18 cây/ô.
- Khoảng cách: hàng – hàng: 60cm, cây – cây: 48cm

.

3.3.3. Kỹ thuật vườn ươm
- Đất: Chọn đất thịt nhẹ, đất pha cát, tơi xốp, chủ động tưới tiêu, sạch
cỏ dại, ít nấm bệnh, độ pH khoảng 6-6,5.
- Chuẩn bị hạt giống: Chọn hạt giống có tỷ lệ nảy mầm lớn hơn 80%
- Gieo hạt: gieo hạt với mật độ 2g/m 2, sau đó rắc lớp đất bột, phủ lên
trên mặt luống một lớp trấu và rơm sạch để giữ ẩm cho hạt
- Chăm sóc: tới nước giữ ẩm, khi hạt nảy mầ khỏi mặt đất thì gỡ bỏ lớp
phủ hạt, tỉa cây con.
- Khi cây có 4-5 lá thật thì nhổ đem trồng.
3.3.4. Kỹ thuật trồng trên đồng ruộng
- Làm đất: phải có thời gian để ải, phải làm sạch cỏ dại. Lên luống cao
25- 30cm, rộng 1,4cm, đáy rãnh rộng 35cm.
- Cách trồng: Trồng cây vào thời điểm chiều mát, không trồng quá sâu,
sau khi trồng phải tưới nước ngay để đảm bảo đủ độ ẩm cho cây.
- Phân bón và cách bón: Quy trình bón phân trong thí nghiệm (tính cho
1ha) như sau:
Lượng bón: + Phân chuồng hoai mục: 12 tấn
+ Đạm urê: 400kg
+ Supe lân: 600kg
+ Kali: 380kg

24



Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
K52Gi

Dương Hồng Sinh –

Cách bón:
+ Bón lót: toàn bộ phân chuồng và 50% lân
+ Bón thúc: Chia làm 4 thời kỳ bón:
Lần 1: Sau trồng 7-8 ngày, bón 10% đạm và 10% lân.
Lần 2: Khi cây ra hoa rộ (sau trồng 28 ngày), bón 40% lân, 30%
đạm và 30% kali.
Lần 3: Khi quả rộ (sau trồng 46 ngày), bón 30% đạm và
40% kali.
Lần 4: Sau thu hoạch quả đợt 1, bón 30% đạm và 30% kali.
- Vun xới, làm cỏ, tiến hành 3 lần.
+ Lần 1: Vun xới và làm cỏ khi cây hồi xanh.
+ Lần 2: Làm cỏ vun gốc kết hợp bón phân lần 2.
+ Lần 3: Sau 2 lần vun xới tiến hành làm cỏ bằng tay, không xới
xáo làm ảnh hưởng đến bộ rễ tạo điều kiện cho sâu bệnh xâm nhập và phát
triển.
- Tưới nước: Đảm bảo độ ẩm đất 70-80%.
- Làm giàn, buộc cây, tỉa cành:
+ Làm giàn: Sau khi bón thúc lần 2, cây đạt chiều cao 30-40cm thì làm
giàn, tốt nhất là làm giàn kiểu chữ A.
+ Buộc cây: Dùng dây mềm buộc nhẹ cây dựa vào giàn theo hình số 8,
mối buộc đầu tiên ở chùm hoa thứ nhất, đảm bảo cây phát triển tốt không bị
đổ gãy.
+ Tỉa cành: cần thường xuyên tỉa nhánh để cây có độ thoáng, tránh sâu

bệnh, tập trung dinh dưỡng nuôi quả. Tỉa cành để lại 2 thân gồm 1 thân chính
và 1 thân phụ phát triển ngay dưới chùm hoa thứ nhất.
- Sâu bệnh hại và phòng trừ.
(Theo quy trình của Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau chất lượng cao
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội)

25


×