Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 174 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
------------- -

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành

: Kinh tế học

Mã số chuyên ngành

: 62.31.03.01

Tp. Hồ Chí Minh năm 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu sử
dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã được công bố đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là do tác giả tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tế.
Tác giả luận án

Nguyễn Văn Tri nh
̣

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

ii

MỤC LỤC

iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

v

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

vi

DANH MỤC CÁC HỘP

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

vii

MỞ ĐẦU

1


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

11

1.1. Các quan niệm về công nghiệp hỗ trợ
1.1.1. Các quan niệm của các nƣớc trên thế giới
1.1.2. Một số quan niệm tƣơng đồ ng với công nghiệp hỗ trợ
1.1.3. Các quan niệm về công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam

11
11
14
19

1.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Công nghiệp hỗ trợ và lợi thế cạnh tranh
1.2.2. Công nghiệp hỗ trợ trong phát triển cụm ngành
1.2.3. Công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá tri ̣

21
21
25
32

1.3. Kinh nghiệm quố c tế về cơ sở phát triển công nghiệp hỗ trợ
1.3.1. Kinh nghiê ̣m chung
1.3.2. Kinh nghiê ̣m của một số quố c gia
1.3.3. Bài học rút ra tƣ̀ kinh nghiệm quố c tế cho phát triển công nghiệp hỗ trợ
của Việt Nam


35
35
37

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

57

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA
VIỆT NAM TRONG TIẾN T RÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

59

2.1. Tổng quan chung về phát triển công nghiê ̣p hỗ trơ ̣ của Viê ̣t Nam
qua
2.1.1. Thực trạng chung về công nghiê ̣p hỗ trơ ̣
2.1.2. Thực trạng phát triể n công nghiê ̣p hỗ trơ ̣ của một số ngành

59
59
71

2.2. Cơ sở cho sự phát triể n công nghiê ̣p hỗ trơ ̣ ở Viê ̣t Nam
2.2.1. Về đinh
̣ hƣớng , chính sách , pháp luâ ̣t
2.2.2. Chiế n lƣơ ̣c phát triể n công nghiê ̣p hỗ trơ ̣
2.2.3. Tiềm năng phát triển công nghiệp hỗ trợ
2.2.4. Sƣ̣ phát triể n của các tâ ̣p đoàn đ a quố c gia


iii

52

thời gian

83
83
88
91
92


2.3. Cơ sở hình thành chiế n lƣơ ̣c phát triể n các ngành công nghiê ̣p hỗ trơ ̣ của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
2.3.1. Những điể m ma ̣nh
2.3.2. Những điể m yế u
2.3.3. Cơ hô ̣i
2.3.4. Thách thức
2.3.5. Ma trâ ̣n SWOT

95
95
97
102
103
104

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2


106

CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 107
3.1. Bối cảnh quốc tế và Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
3.1.2. Tình hình Việt Nam trong thập niên đầu của thế kỷ XXI
3.1.3. Tình hình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dƣới sự tác động của kinh
tế quốc tế
3.1.4. Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn tới
3.1.5. Sự lớn mạnh của các nhà cung ứng quốc tế và mạng lƣới sản xuất toàn cầu
3.1.6. Tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế và khả năng bù
đắp của công nghiệp hỗ trợ

107
107
109
111
114
115
118

3.2. Quan điểm, mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đến năm
2020
124
3.2.1. Quan điểm phát triển
124
3.2.2. Nhu cầu và mục tiêu phát triển
126
3.3. Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đến

năm 2020
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để công nghiệp hỗ trợ nhanh chóng phát
triển
3.3.2. Hoàn thiện các bộ máy quản lý của các cơ quan chuyên trách về công
nghiệp hỗ trợ
3.3.3. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở các địa phƣơng
3.3.4. Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở một số ngành chính
3.3.5. Thúc đẩy nhu cầu công nghiệp hỗ trợ từ các công ty đa quốc gia
3.3.6. Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ

132
132
137
142
145
151
155

KẾT LUẬN

161

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

164


iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
APEC
ASEAN
ASEM
CEO
CIEM
CLKN
CN
CNĐT
CNH
CNHT
DN
DNNN
DNNVV
FDI
HĐH
IFC
IMF
IPSI
JETRO
KCN
KCX
MLSX
MITI
METI

R&D
TĐĐQG
TNHH
TPP
UNIDO
VCCI
VDF
VƢDN
WB
WTO

Khu vực Thƣơng mại tự do ASEAN
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình dƣơng
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
Giám đốc điều hành
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ƣơng
Cụm liên kết ngành
Công nghiệp
Công nghiệp điện tử
Công nghiệp hóa
Công nghiệp hỗ trợ
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nƣớc
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Hiện đại hóa
Tổ chức Tài chính Quốc tế
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Viện nghiên cứu Chiến lƣợc Chính sách

Cơ quan xúc tiến ngoại thƣơng Nhật Bản
Khu Công nghiệp
Khu Chế xuất
Mạng lƣới sản xuất
Bộ Công thƣơng Nhật Bản
Bộ Kinh tế, Thƣơng mại và Công nghiệp Nhật Bản
Nghiên cứu và triển khai
Tập đoàn đa quốc gia
Trách nhiệm hữu hạn
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng
Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc
Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam
Diễn đàn Phát triển Việt Nam
Vƣờn ƣơm doanh nghiệp
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức Thƣơng mại thế giới
v


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu

Nội dung

Trang

Hình 1.1 Phạm vi của công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản

12


Hình 1.2 Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam

19

Hình 1.3

Mô hình viên kim cƣơng về lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.
Porter

23

Hình 1.4 Sơ đồ một cụm ngành

31

Hình 2.1 Thị phần các nƣớc xuất khẩu linh kiện ô tô sang Việt Nam 2009

69

Hình 2.2 Giá trị xuất – nhập khẩu hàng điện tử – tin học và điện thoại,
giai đoạn 2005 -2010

73

DANH MỤC CÁC HỘP
Số hiệu
Hộp 1.1

Nội dung
Cụm ngành rƣợu ở California


Trang
27

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Nội dung

Trang

Bảng 1.1

Malaysia – Các thành phần của dự án MAJAICO

48

Bảng 2.1

Tỷ lệ gia tăng trong giá trị sản xuất của toàn ngành công
nghiệp

65

Cơ cấu thu mua linh kiện của các nhà lắp ráp xe máy Nhật
Bản - Điển hình trong tháng 3 năm 2007 (%)


68

Bảng 2.3

Một số doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài đầu tƣ vào CNHT
ngành điện tử - tin học

72

Bảng 2.4

Năng lực sản xuất một số sản phẩm phụ kiện ngành may của
Việt Nam

76

Bảng 2.5

Số lƣợng doanh nghiệp ngành trong da – giày, 2006 - 2010

78

Bảng 2.6

Tổng vốn FDI vào Việt Nam theo ngành

92

Bảng 3.1


Kim ngạch xuất nhập khẩu, nhập siêu giai đoạn 2006 - 2012

118

Bảng 3.2

Mục tiêu phát triển các sản phẩm phôi và chi tiết ngành cơ
khí

126

Bảng 3.3

Chỉ tiêu nhu cầu về các sản phẩm CNHT

127

Bảng 3.4

Chỉ tiêu cụ thể về nhu cầu phát triển CNHT của ngành sản
xuất và lắp ráp ô tô đến năm 2015, tầm nhìn 2020

128

Bảng 3.5

Mục tiêu cụ thể về nhu cầu phát triển CNHT ngành dệt –
may giai đoạn 2015, tầm nhìn 2020

129


Bảng 3.6

Mục tiêu giải quyết nguyên phụ liệu cho ngành đến năm
2015, tầm nhìn 2020

131

Bảng 2.2

vii


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau gần 30 năm đổi mới, nƣớc ta đã đạt đƣợc một số thành tựu quan trọng
trên tất cả các mặt. Kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ, chuyển
sang cơ chế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập tích cực vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Tuy vậy, tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá trị sản xuất công
nghiệp lại đang có dấu hiệu đi xuống. Cụ thể, năm 1995 giá trị gia tăng (VA)/giá trị
sản xuất toàn ngành công nghiệp (GO) là 42,5%; đến năm 2000, tỷ lệ này chỉ còn
38,45%; năm 2005 còn 29,63%; năm 2007 đạt 26,3%; và ƣớc tính tỷ lệ này hiện
nay chỉ còn trên dƣới 23% [2]. Một trong những lý do quan trọng của tình trạng
này, là sự yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Bối cảnh kinh tế thế giới trong những năm gần đây đã có sự thay đổi nhanh
chóng, về cơ bản, những thế mạnh về nhân công giá rẻ, điều kiện mặt bằng ở các
nƣớc đang phát triển... không còn là yếu tố quyết định việc thu hút đầu tƣ, và đó
cũng không còn là ƣu tiên hàng đầu của các nhà đầu tƣ. Nhiều nhà sản xuất lớn trên
thế giới nhƣ Toyota, Canon của Nhật Bản, LG của Hàn Quốc… chỉ nắm giữ các

hoạt động nhƣ nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thƣơng mại, phát triển sản phẩm,
còn các công đoạn sản xuất, những phần công việc trƣớc đây vẫn nằm trong dây
chuyền sản xuất hoàn chỉnh trong nƣớc thì ngày nay hầu hết đƣợc giao cho các
doanh nghiệp bên ngoài biên giới quốc gia. Nhƣ vậy, các sản phẩm công nghiệp
không còn đƣợc sản xuất tại một không gian, địa điểm, mà đƣợc phân chia thành
nhiều công đoạn, ở các địa điểm, các quốc gia khác nhau, từ đây thuật ngữ công
nghiệp hỗ trợ đƣợc xem là một trong những quan niệm và cách tiếp cận mới đối với
sản xuất công nghiệp.
Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ, các quốc gia dù lớn hay nhỏ khó có thể phát triển đƣợc mà không
tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Vì vậy, xuất hiện hàng loạt
các yếu tố đòi hỏi phải tính đến, để bảo đảm “tính hợp lý” trong phát t riển công

1


nghiệp hỗ trợ. Trong đó có yếu tố về tƣ duy kinh tế toàn cầu, việc đặt nền kinh tế
mỗi quốc gia trong mạng lƣới sản xuất và phân phối toàn cầu, yếu tố về xử lý mối
quan hệ giữa nhà nƣớc, doanh nghiệp và thị trƣờng. Về lý thuyết, cho đến nay, đó l à
những vấn đề vẫn chƣa đƣợc lý giải rõ ràng; về thực tế, vẫn còn những quan điểm
khác nhau về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở những nƣớc đang trong quá trình công
nghiệp hoá nhƣ Việt Nam. Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ quốc gia, vì
vậy, cần phải phù hợp với xu hƣớng toàn cầu hoá và hội nhập có hiệu quả vào đời
sống kinh tế quốc tế.
Việt Nam hiện nay đang đứng trƣớc nhiệm vụ hết sức quan trọng là phải tiến
hành công nghiệp hoá hiện đại hóa theo hƣớng hiện đại trong điều kiện hội nhập và
thực hiện các cam kết của các hiệp định song phƣơng, đa phƣơng đã ký kết. Tuy nhiên,
sức cạnh tranh của hàng hóa của Việt Nam, nhất là các hàng công nghiệp nói chung
còn yếu, đặc biệt là những ngành sản xuất máy móc, thiết bị. Để đạt đƣợc mục tiêu đến
2020 đƣa nƣớc ta về cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp trong điều kiện hội nhập ngày

càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, với cơ cấu công nghiệp hiện nay thì các chính
sách đang đƣợc áp dụng rất khó có thể xoay chuyển đƣợc tình trạng hiện tại nếu không
có đƣợc những đột phá mới về chính sách và phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Việc nghiên cứu sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa
quan trọng. Đây chính là những lợi thế, nếu biết khai thác tốt, Việt Nam hoàn toàn
có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, phân bố lại cơ cấu đầu tƣ hợp lý, thu hút thêm
đầu tƣ và rút ngắn khoảng cách so với các nƣớc phát triển, tham gia vào sự phân
công lao động quốc tế. Ngoài hiệu quả tạo ra nhiều công ăn việc làm, thu hút lao
động, công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm công nghiệp, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá theo hƣớng vừa mở
rộng vừa chuyên sâu.
Ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện chƣa phát triển dẫn đến hệ quả
Việt Nam phải phụ thuộc rất nhiều vào bên ngoài từ những nguyên liệu, sản phẩm
sơ chế.... Kết quả là hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả chƣa cao vì giá trị gia

2


tăng ở các khâu cần có công nghiệp hỗ trợ chiếm tỷ trọng cao, nhƣng Việt Nam
không đáp ứng đƣợc, hầu hết phải nhập khẩu.
Trƣớc đòi hỏi của quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển
công nghiệp hỗ trợ, nhất là trong các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ,
đang là thách thức rất lớn đặt ra cho Việt Nam. Bởi lẽ, cùng với việc nâng cao năng
lực sản xuất, nền công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ là yếu tố mạnh nhất để thu hút và
giữ chân các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài một cách bền vững. Nhƣ vậy, phát triển Công
nghiệp hỗ trợ không chỉ nhằm mục tiêu gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, mà
còn là công cụ quan trọng để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng.
Trong bối cảnh nêu trên, đề tài “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” đã đƣợc tác giả chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Nhật Bản có thể nói là nơi xuất hiện quan niệm công nghiệp hỗ trợ từ những
năm 60 của thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến những năm 80 quan niệm này mới xuất hiện
ở các nƣớc Đông Nam Á, Đông Á cùng với việc đầu tƣ trực tiếp của Nhật vào khu
vực này. Đến những năm 90 của Thế kỷ 20 công nghiệp hỗ trợ đƣợc sử dụng phổ
biến. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chƣa có một quan niệm công nghiệp hỗ trợ
chung cho tất cả các quốc gia. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của ngành công nghiệp của
mình, mỗi nƣớc lại có một định nghĩa khác nhau.
Ở Nhật Bản, định nghĩa công nghiệp hỗ trợ chính thức đƣợc đƣa ra lần đầu
tiên vào giữa những năm 80 của thế kỷ trƣớc trong Chƣơng trình Phát triển công
nghiệp hỗ trợ châu Á, theo đó công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp cung
cấp những gì cần thiết, nhƣ nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá tƣ bản,
cho các ngành công nghiệp lắp ráp.
Ở Thái Lan công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp cung cấp các linh
phụ kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng gói kiểm tra cho các ngành công
nghiệp cơ bản.

3


Tại Mỹ những ngành công nghiệp cung cấp nguyên liệu và quy trình cần
thiết để sản xuất ra sản phẩm trƣớc khi chúng đƣợc đƣa ra thị trƣờng.
Năm 1990, trong cuốn “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” Michael E.Porter có đề
cập đến công nghiệp hỗ trợ nhƣ một trong năm yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh
tranh quốc gia. Lợi thế cạnh tranh trong một vài ngành cung cấp đã mang lại lợi thế
tiềm năng cho các công ty hoạt động trong nhiều ngành khác nhau của một số quốc
gia vì họ sản xuất những nguyên liệu đƣợc sử dụng rộng rãi và quan trọng cho đổi
mới hoặc quốc tế hoá. Ví dụ, sự thành công của Thuỵ Sĩ trong ngành dƣợc phẩm có
liên quan chặt chẽ với sự thành công quốc tế trƣớc đó của ngành nhuộm. Sự dẫn đầu
của Nhật Bản về máy fax nhờ rất nhiều vào sự lớn mạnh của ngành máy photocopy.

Sự tồn tại của các ngành hỗ trợ có khả năng cạnh tranh quốc tế trong một quốc gia
tạo ra những lợi thế cho các ngành công nghiệp sử dụng đầu ra theo các cách khác
nhau. Và tiếp tục, sự hiện diện của những ngành liên quan có khả năng cạnh tranh
trong một quốc gia thƣờng dẫn đến những ngành có khả năng cạnh tranh mới.
Thành công của một nƣớc trong một ngành nhất định dễ xảy ra nếu trƣớc đó có lợi
thế cạnh tranh trong một số ngành liên quan.
Nhƣng các nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ nhiều nhất vẫn là ở các quốc
gia Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, nơi ra đời quan niệm công nghiệp hỗ trợ. Tình
hình thuê ngoài và các nhà cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản
đã đƣợc phân tích trong “Chi nhánh các nhà lắp ráp Nhật Bản ở châu Á” (JapaneseAffiliated Manufactures in Asia) do JETRO thực hiện năm 2003; và “Báo cáo khảo
sát về hoạt động kinh doanh tại nước ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản ”
(Survey report on overseas business operations by Japanese manufacturing
companies) do JBIC xuất bản năm 2004. Trong đó, chi nhánh các tập đoàn Nhật
Bản ở châu Á, đặc biệt là Thái lan, Malaysia, Indonesia, đã sử dụng hệ thống thầu
phụ đƣợc hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện
có vốn đầu tƣ từ Nhật Bản.
Năm 2002, Tổ chức năng suất châu Á (APO-Asian productivtity
Organisation) đã đúc kết kinh nghiệm phát triển Công nghiệp hỗ trợ trong cuốn

4


“Đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ: các kinh nghiệm của châu Á” (Strengthening of
Supporting Industries: Asian Experiences). Đây là tài liệu hữu ích cho các nƣớc
đang phát triển về chính sách phát triển Công nghiệp hỗ trợ qua các thời kỳ ở Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các chính sách này tập trung vào một số điểm chính: thu
hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào phát triển Công nghiệp hỗ trợ, quy đ ịnh về tỷ lệ nội địa
hoá và các hỗ trợ mạnh mẽ hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho liên kết doanh
nghiệp, nhƣ là điều kiện tiên quyết để phát triển Công nghiệp hỗ trợ.
Những tài liệu trên hầu hết đã đƣa ra những nét khái quát chung và đặc điểm,

vai trò của công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, quan niệm công nghiệp hỗ trợ ở từng
quốc gia, dƣới con mắt của các tác giả khác nhau vẫn chƣa đi đến thống nhất, đƣa ra
một định nghĩa chung và những đặc điểm chung cũng nhƣ quy luật phát triển của
công nghiệp hỗ trợ. Các tác phẩm đề cập đến những ngành công nghiệp hỗ trợ
tƣơng ứng của từng quốc gia trên cơ sở thế mạnh về công nghệ, nguồn nhân lực…
của từng quốc gia nên tính khái quát chƣa cao, chƣa có đánh giá tổng quát về công
nghiệp hỗ trợ.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tháng 3 năm 2004, báo cáo nghiên cứu điều tra “Xây dựng và đẩy mạnh Công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam” do JETRO thực hiện đƣợc coi là tài liệu đầu tiên đánh giá
về các ngành Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Báo cáo đã khẳng định Công nghiệp hỗ
trợ ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù nhận thức của các cơ quan chính phủ và
doanh nghiệp thời điểm đó còn rất thấp, các doanh nghiệp tƣ nhân và khối doanh
nghiệp FDI đang vƣơn lên và khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội.
Nguyễn Kế Tuấn (2004) với “Phát triển công nghiệp phụ trợ trong chiến lược
phát triển công nghiệp Việt Nam” (tạp chí Kinh tế và Phát triển) đã đề cập tổng quát:
quan niệm, vai trò, các nhân tố tác động đến phát triển Công nghiệp hỗ trợ, đề xuất một
số chính sách chủ yếu về phát triển Công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là quan điểm để lựa
chọn xây dựng chính sách phát triển Công nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam.
K. Ohno và Nguyễn Văn Thƣờng (2005) trong sách “Cải thiện hoạch định
chính sách công nghiệp ở Việt Nam” cũng đề cập khá nhiều về tận dụng lợi thế
cạnh tranh quốc gia trong đó có phát triển Công nghiệp hỗ trợ.

5


Phan Đăng Tuất (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật
Bản – Con đƣờng nào cho các doanh nghiệp Việt Nam” đã có những phân tích, đề
xuất rất cụ thể về khả năng hợp tác, hội nhập trở thành đối tác của những tên tuổi
lớn của ngành công nghiệp thế giới. Tiếp theo sau này, tác giả có hàng loạt nghiên

cứu, tham luận khẳng định vai trò quan trọng của công nghiệp hỗ trợ và sự hợp tác
tích cực của Nhật Bản trong vấn đề này.
Trần Văn Thọ (2006), “Biến động kinh tế Đông Á và con đƣờng công
nghiệp hoá ở Việt Nam” đã dành một chƣơng phân tích tổng quát về con đƣờng
phát triển công nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hoá dựa vào công
nghiệp hỗ trợ. Ông coi phát triển công nghiệp hỗ trợ nhƣ là mũi đột phá chiến lƣợc
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp nói riêng và hàng hoá của
Việt Nam nói chung.
Tại Hội thảo về Công nghiệp hỗ trợ của JETRO năm 2005, Phan Đăng Tuất,
“Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho
Việt Nam”, trong “Kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”
tại Diễn đàn Liên kết hội nhập cùng phát triển năm 2008 và trong “Công nghiệp hỗ
trợ, vấn đề trọng đại” đăng trên Báo Công Thƣơng số Tết 2009, đã khẳng định các vai
trò quan trọng của công nghiệp hỗ trợ đối với nền kinh tế, yêu cầu về hệ thống doanh
nghiệp nhỏ và vừa và sự hợp tác với Nhật Bản trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam.
Năm 2007, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020, do Bộ Công nghiệp (cũ) soạn thảo và
Quy hoạch này đƣợc xây dựng cho 5 nhóm ngành: Điện tử Tin học; Dệt May; Da
Giày; Sản xuất lắp ráp ô tô; Cơ khí chế tạo. Trong quy hoạch này, lần đầu tiên quan
niệm công nghiệp hỗ trợ đƣợc chính thức hoá ở Việt Nam. Theo quy hoạch này, kế
hoạch và các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ gồm có tạo dựng môi trƣờng
đầu tƣ, phát triển khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân
lực, liên kết doanh nghiệp đã đƣợc đề xuất cho 5 ngành công nghiệp ƣu tiên, đó là:
Dệt - May, Da - Giày, Điện tử - Tin học, Sản xuất và lắp ráp ô tô và Cơ khí chế tạo.

6


Cuốn “Xây dựng các ngành Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam” do K. Ohno chủ biên

năm 2007 đã trình bày các kết quả khảo sát về thực trạng các ngành công nghiệp hỗ trợ
trong chƣơng 1 “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật
Bản”; Nguyễn Thị Xuân Thuý đã tổng kết lịch sử ra đời của quan niệm công nghiệp hỗ
trợ và đề xuất quan niệm cho Việt Nam trong chƣơng 2 “Công nghiệp hỗ trợ, Tổng
quan về quan niệm và sự phát triển”; Mori đã đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu công
nghiệp hỗ trợ ở chƣơng IV “Thiết kế cơ sở dữ liệu cho công nghiệp hỗ trợ”. Năm 2007,
K. Ohno tiếp tục ra cuốn sách “Xây dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam”
trong đó đã trình bày kết quả khảo sát gần đây nhất về thực trạng công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam và đƣa ra những định hƣớng phát triển.
Các nghiên cứu kể trên đã phản ánh đƣợc nhiều mặt bức tranh về công nghiệp
hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Đây đều là các tài liệu có giá trị
tham khảo cao. Tuy nhiên, ở tầm vĩ mô, các nghiên cứu chƣa đề cập đến bản chất
của công nghiệp hỗ trợ, chƣa phân tích thấu đáo các yếu tố tác động đến phát triển
công nghiệp hỗ trợ, từ đó chƣa chỉ ra các căn cứ để xác định cách thức phát triển
công nghiệp hỗ trợ cho quốc gia đang phát triển nhƣ Việt Nam, đặc biệt là trƣớc tác
động ngày càng gia tăng của toàn cầu hoá. Ở quy mô ngành, các nghiên cứu mới chỉ
phân tích công nghiệp hỗ trợ trong nội vi ngành công nghiệp hạ nguồn, mà chƣa đặt
trong tổng thể các ngành cung ứng khác. Vì vậy, các đề xuất chính sách và giải
pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam vẫn chƣa thuyết phục và thiếu tính
khả thi.
Thời gian gần đây, đã có những động thái mới, tích cực từ chính quyền
Trung ƣơng mà điển hình nhất là giao Bộ Công Thƣơng chủ trì xây dựng Nghị định
của Chính phủ riêng về ƣu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, do nhận
thức còn khác nhau của các cơ quan liên quan, cho đến nay, Nghị định này vẫn chƣa
hoàn thiện và đƣa ra trình Chính phủ đƣợc.
Bộ Công Thƣơng, ngày 16 tháng 2 năm 2009, đã quyết định thành lập Trung
tâm Phát triển Doanh nghiệp Công nghiệp Hỗ trợ (SIDEC) trực thuộc Viện Nghiên
cứu Chiến lƣợc, Chính sách Công nghiệp, Bộ Công Thƣơng để xây dựng cơ sở dữ

7



liệu, kết nối các doanh nghiệp và sẽ là bộ phận quan trọng của cơ quan quản lý nhà
nƣớc về phát triển Công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
Hầu hết những nghiên cứu nêu trên đã nêu ra đƣợc một vấn đề công nghiệp
hỗ trợ và còn khá mới mẻ tại Việt Nam, chúng cho thấy sự non yếu của ngành công
nghiệp hỗ trợ trở thành lực cản rất lớn đối với phát triển công nghiệp nói chung và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sự yếu kém của công nghiệp hỗ trợ đã đƣợc đề cập
nhiều, tuy nhiên công nghiệp hỗ trợ dƣờng nhƣ vẫn chƣa nhận đƣợc sự quan tâm
thích đáng của các cấp, các ngành. Đã 3 năm kể từ khi “Quy hoạch phát triển công
nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” đƣợc phê duyệt nhƣng chiến
lƣợc này gần nhƣ vẫn chƣa đƣợc triển khai.
Để khắc phục đƣợc tình trạng manh mún, kém phát triển, không theo kịp với
sự phát triển của các ngành chế tạo, lắp ráp, đặc biệt là đối với các tập đoàn có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài, trên cơ sở phân tích hiện trạng và từ kinh nghiệm của các quốc
gia thành công trong phát triển công nghiệp hỗ trợ, tác giả mong muốn đƣa ra đƣợc
các nhóm giải pháp từ thể chế, chính sách tới các giải pháp cụ thể với mục tiêu phát
triển công nghiệp hỗ trợ để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam
nói riêng và thành công của Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn và cơ sở phát triển công nghiệp hỗ trợ
trong tiến trình công nghiệp hoá ở một nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở phân tích lý luận, thực tiễn của việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
và đánh giá thực trạng cơ sở và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt
Nam, luận án đƣa ra các giải pháp và kiến nghị để phát triển công nghiệp hỗ trợ ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt Nam đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là ngành công nghiệp hỗ trợ
và chính sách của nhà nƣớc đối với công nghiệp hỗ trợ (cơ khí chế tạo, điện tử...) và


8


ngành công nghiệp hạ nguồn (các ngành công nghiệp lắp ráp ô tô, điện tử, da - giày,
dệt - may..) trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .
- Phạm vi: Luận án tập trung nghiên cứu sự phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
của Việt Nam và các chính sách đối với công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010. Luận án chủ
yếu tập trung phân tích, đánh giá kết quả hoạt động, sự đóng góp, của các ngành công
nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, cụ thể là 5 ngành: Dệt May, Da Giày, Điện tử - Tin học, Sản
xuất và lắp ráp ô tô và Cơ khí chế tạo.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chung
Phƣơng pháp luận thực hiện đề tài nghiên cứu là: Phƣơng pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học nghiên cứu và tổng
hợp cơ sở lý thuyết và thực tiễn phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp mô hình kinh tế: Tổng hợp các lý thuyết kinh tế học, mô tả một
cách đơn giản và hợp lý các hiện tƣợng thực tế đang đƣợc nghiên cứu; đồng thời dự
đoán xu hƣớng phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ trong mối tƣơng quan với
sự phát triển của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phương pháp thống kê kinh tế: Thu thập và tổng hợp các số liệu kinh tế qua
niên giám thống kê, các báo cáo tổng hợp về công nghiệp hỗ trợ, hệ thống số liệu theo
chuỗi thời gian về Công nghiệp hỗ trợ trong các giai đoạn và so sánh với các quốc gia
khác.
- Phương pháp thống kê mô tả: Mô tả và phân tích các số liệu kinh tế trên biểu đồ
thị và đồ thị qua các thông tin nghiên cứu đƣợc thu thập qua điều tra thăm dò.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Kết hợp phân tích định tính với định
lƣợng để xử lý các dữ liệu; phân tích và đánh giá hệ thống số liệu theo chuỗi thời
gian về công nghiệp hỗ trợ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế..

6. Những đóng góp mới của luận án

9


6.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa và làm rõ hơn các quan điểm lý thuyết về phát triển công
nghiệp hỗ trợ và làm rõ kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong tiến trình
công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế của một số nƣớc trên thế giới và rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam. Đồng thời làm rõ quan niệm về công nghiệp hỗ trợ phù
hợp với Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
6.2. Về mặt thực tiễn
Làm rõ vai trò của công nghiệp hỗ trợ đối với phát triển kinh tế, chủ yếu là
gắn với việc tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu của Việt Nam và
để Việt Nam thực sự trở thành một thành viên của nền kinh tế thế giới.
Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức cả về chính sách và
quyết tâm của doanh nghiệp cũng nhƣ Nhà nƣớc đối với phát triển Công nghiệp hỗ
trợ. Trên cơ sở đó đƣa ra các giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm phát triển công
nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, hình vẽ, bảng biểu minh hoạ, nội
dung luận án chia làm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn công nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

10



CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ
TRỢ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Các quan niệm về công nghiệp hỗ trợ

1.1.1. Các quan niệm của các nước trên thế giới
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có thể nói đã xuất hiện ở Nhật Bản từ những
năm 50 của thế kỷ 20. Ngay từ khi mới xuất hiện đã có nhiều chính sách đƣợc ban
hành liên quan đến CNHT, cụ thể là: Năm 1952 Nhật Bản ban hành Luật xúc tiến
hiện đại hóa doanh nghiệp sản xuất. Năm 1956 Nhật Bản ban hành Luật về biện pháp
tạm thời đẩy mạnh công nghiệp chế tạo máy móc. Năm 1957 Nhật Bản ban hành
Luật về biện pháp tạm thời khuyến khích công nghiệp điện tử. Những Luật này chỉ
mang tính tạm thời (quy định thời hạn hiệu lực là 5 năm) nhƣng cả 3 Luật này đều
đƣợc kéo dài hiệu lực đến thập niên 80 của thế kỷ 20 và đƣợc nhập lại thành Luật
xúc tiến các ngành (SOKEIZAI).
Mặc dù xuất hiện từ rất sớm, nhƣng cụm từ “Supporting Industry” (CNHT)
với đầy đủ ý nghĩa lại xuất hiện muộn hơn và lần đầu tiên ngƣời ta đề cập đến trong
“Sách trắng về Hợp tác kinh tế năm 1985” của Bộ Công Thƣơng Nhật Bản (MITI),
nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thƣơng mại (METI). Trong tài liệu này, CNHT
đƣợc dùng để chỉ các doanh nghiệp có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng
công nghiệp ở các nƣớc châu Á, hay các công ty sản xuất linh phụ kiện. Hai năm
sau, năm 1987, MITI tiếp tục giới thiệu về thuật ngữ này với định nghĩa chính thức
là các ngành cung cấp những gì cần thiết nhƣ nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và
hàng hoá, cho các ngành công nghiệp lắp ráp.
Nhƣ vậy, quan niệm CNHT ra đời và đƣợc chính phủ Nhật Bản chính thức
sử dụng từ 1985. Sau đó, thuật ngữ CNHT đƣợc phổ biến đến các nƣớc châu Á khác
cùng với các chƣơng trình hỗ trợ của Nhật Bản nhƣ New Aid Plan năm 1987,

chƣơng trình phát triển CNHT châu Á năm 1993.
Hiện nay, ở Nhật Bản, CNHT đƣợc hiểu là “một nhóm các hoạt động công
nghiệp cung ứng các đầu vào trung gian (không phả i nguyên vật liệu thô và các sản

11


phẩm hoàn chỉnh) cho các ngành công nghiệp hạ nguồn ” (nhƣ vậy quan niệm này
đã đƣợc mở rộng hơn so với quan niệm CNHT do MITI đƣa ra năm 1987). Nói
cách khác, CNHT nằm ở phần giữa của quá trình sản xuất, từ thƣợng nguồn x uống
đến hạ nguồn.
Ngoài ra, một số công đoạn sản xuất nhất định, phục vụ một số ngành công
nghiệp nhất định tƣơng đối tƣơng đồng nhau (Hình 1.1) cũng đƣợc xem là CNHT.
Việc tƣơng đồng này làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng dung lƣợng thị trƣờng, gia
tăng nguồn khách hàng và giúp CNHT phát triển nhanh hơn.
Các quốc gia Đông Á khác nhƣ Hàn Quốc, Đài Loan cũng đều xác định
CNHT theo hƣớng này, bằng cách dựa trên các công đoạn sản xuất và bao gồm các
sản phẩm chủ yếu liên quan đến 3 lĩnh vực chính: các linh kiện kim loại, các linh
kiện nhựa và cao su, các linh kiện điện - điện tử.
Ôtô

Xe máy

Đồ gia dụng Đồ điện tử

Các nhà lắp ráp có
yêu cầu về linh phụ
kiện tƣơng tự nhau

Phụ tùng, linh kiện:

Kim loại, nhựa, cao su, điện…

Công nghiệp hỗ
trợ
Dập
Mạ

Đúc
Gia công cơ khí

Rèn
Khuôn mẫu

Hàn
Xử lý nhiệt

Các công đoạn sản xuất cơ bản

Hình 1.1: Phạm vi của công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản
Nguồn: Ohno, K. 2006 [16]
- Ở Đài Loan, CNHT đƣợc gọi là công nghiệp sản xuất linh kiện.
- Ở Hàn Quốc, CNHT đƣợc gọi là công nghiệp vật liệu và phụ tùng.
Các quốc gia khu vực Đông Nam Á cũng định nghĩa CNHT tƣơng tự Nhật
Bản. Cục Phát triển CNHT Thái Lan định nghĩa CNHT là các ngành công nghiệp

12


cung cấp các linh phụ kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng gói cho các
ngành công nghiệp cơ bản.

Ở các quốc gia khác:
- Bộ Năng lƣợng Mỹ trong ấn phẩm phát hành năm 2004 với tựa đề: các
ngành CNHT: công nghiệp của tƣơng lai, định nghĩa CNHT bao gồm những ngành
cung cấp các quy trình cần thiết để sản xuất và hình thành sản phẩm trước khi
chúng được đưa đến các ngành công nghiệp cuối cùng . Chƣơng trình phát triển
ngành CNHT hiện nay ở Mỹ bao gồm 7 ngành đó là các thiết bị làm nóng công
nghiệp, xử lý nhiệt, rèn, hàn, luyện kim bột và các vật liệu dạng hạt, sứ cao cấp và
các sản phẩm các-bon.
Tại các quốc gia châu Âu: Ở châu Âu cụm từ “CNHT” ít đƣợc sử dụng. Các
quan niệm liên quan đến nội dung này đƣợc phản ánh ở các thuật ngữ khác, nhƣ:
thầu phụ, thuê ngoài, nhà cung ứng.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng quan niệm về ngành CNHT là một quan niệm
rộng, chỉ mang tính tƣơng đối. Tuy có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau,
nhƣng các quan niệm CNHT đều có các điểm chung nhƣ sau:
Thứ nhất, đó là việc cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích sản xuất sản
phẩm cuối cùng; thứ hai, việc cung ứng này chủ yếu đƣợc đáp ứng bởi hệ thống
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), tuy nhiên, đó là các doanh nghiệp sản xuất
phụ trợ đòi hỏi trình độ sản xuất với mức độ chính xác của sản phẩm rất cao, thực
hiện các cam kết hợp đồng với khách hàng một cách chuẩn mực; thứ ba, khách
hàng của các ngành CNHT là các nhà lắp ráp, do vậy, thị trƣờng của CNHT không
rộng, không dễ dàng tác động nhƣ khi họ sản xuất sản phẩm cho ngƣời tiêu dùng
cuối cùng. Thị trƣờng hàng hoá của họ thu hẹp hơn, có những nhóm sản phẩm nằm
ở phần thị trƣờng rất hẹp và chỉ dành cho một số khách hàng nhất định. Đây chính
là khó khăn lớn nhất của phát triển CNHT. Mặc dù vậy, sản xuất CNHT lại trở nên
hấp dẫn và tƣơng đối ổn định nếu doanh nghiệp phụ trợ đó tìm đƣợc khách hàng dài
hạn, hoặc tìm đƣợc thị trƣờng “ngách” cho mình.

13



1.1.2. Một số quan niệm tương đồ ng vơí công nghiệp hỗ trợ
Trong khi CNHT khá phổ biến ở châu Á, nhất là các nƣớc Đông Á thì ở Hoa
Kỳ hay châu Âu, CNHT lại ít đƣợc đề cập. Mặc dù vậy, việc phân chia và chuyên
môn hoá quá trình sản xuất sản phẩm thành nhiều công đoạn bởi nhiều doanh
nghiệp khác nhau đã thông dụng từ lâu ở các quốc gia phát triển. Dƣới đây, xin
đƣợc đề cập một số quan niệm tƣơng tự CNHT.
1.1.2.1. Chuỗi cung ứng trong chuỗi giá trị
Việc sản xuất bất kỳ loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đều đƣợc thể hiện nhƣ
một chuỗi các chức năng liên kết, trong đó một số liên quan đến sản phẩm hữu hình,
số khác là những dịch vụ vô hình. Chuỗi giá trị [43], theo Michael Porter là hàng
loạt các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng, với yêu cầu phải đƣa sản phẩm đến ngƣời
tiêu dùng cuối cùng thông qua thiết kế, chế biến nguyên vật liệu thô và đầu vào
trung gian, sản xuất, marketing, phân phối và hỗ trợ. Ngày nay, chuỗi giá trị có thể
gồm nhiều doanh nghiệp, trong nhiều ngành kinh tế, ở nhiều địa phƣơng, quốc gia,
nhóm khu vực hoặc khu vực lân cận và kể cả toàn cầu. Không chỉ giới hạn trong
lĩnh vực sản xuất, chuỗi giá trị bao hàm rộng lớn hơn nhiều: các phát minh, ý tƣởng,
bản quyền; các sáng tạo trong thiết kế, mẫu mã; nguyên vật liệu, tài nguyên tự
nhiên; các ứng dụng của tiến bộ khoa học, công nghệ, vật liệu mới; các sáng kiến
quản lý sản xuất; các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, thuế quan, vận tải; phân phối, bán
hàng, tiếp thị và các dịch vụ công nghiệp khác... Bên cạnh chuỗi giá trị, các chuyên
gia kinh tế còn nhắc đến “chuỗi giá trị toàn cầu” khi phân tích cạnh tranh của các
sản phẩm, các ngành công nghiệp trên toàn thế giới. Hiểu một cách đơn giản, chuỗi
giá trị mang tính “toàn cầu” khi các hoạt động của nó vƣợt qua phạm vi một quốc
gia. Nhìn chung, nếu chỉ dừng trong phạm vi một quốc gia, tỷ lệ sản phẩm sản xuất,
tiêu thụ sẽ bị bó hẹp, việc sản xuất kinh doanh loại sản phẩm đó không đạt đƣợc lợi
thế cạnh tranh một cách tối đa mà bối cảnh toàn cầu hoá mang lại. Thực tế hiện nay,
ngay cả các dịch vụ nhƣ tài chính, tƣ vấn và hỗ trợ khách hàng cũng đã vƣợt qua
phạm vi quốc gia.

14



Chuỗi cung ứng là một phần của chuỗi giá trị. Đó là chuỗi liên kết các công
đoạn từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thô chƣa qua xử lý đến khâu lắp ráp để sản
xuất ra sản phẩm cuối cùng. Chuỗi cung ứng cũng kết nối nhiều công ty lại với
nhau: nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, nhà cung ứng, khách hàng. Về cơ bản,
chuỗi cung ứng là một tổng thể hàng loạt các nhà cung ứng và khách hàng đƣợc kết
nối với nhau, trong đó, mỗi khách hàng, đến lƣợt mình lại là nhà cung ứng cho tổ
chức tiếp theo, cho đến khi thành phẩm tới tay ngƣời tiêu dùng.
1.1.2.2. Mạng lƣới sản xuất
Một mạng lƣới sản xuất (MLSX) có thể đƣợc hiểu là mối liên kết bên trong
hoặc giữa các nhóm doanh nghiệp trong một chuỗi giá trị nhất định, để sản xuất các
sản phẩm cụ thể, chẳng hạn nhƣ các loại máy tính, điện thoại di động của các hãng
khác nhau. Các tập đoàn toàn cầu thƣờng có MLSX lớn, họ kiểm soát đầu vào các
nguồn tài nguyê n chính, các hoạt động thiết kế sản phẩm, quản lý chi nhánh ở các
quốc gia và tiếp cận khách hàng cuối cùng. Còn khâu sản xuất hầu hết đƣợc thuê
ngoài bởi các nhà cung ứng. Tất cả các nhân tố này làm nên MLSX, trong đó tập
đoàn có vị thế cao hơn, do các hoạt động của họ đem lại lợi nhuận cao hơn các nhà
cung ứng trong MLSX.
Mạng lƣới này sẽ trở thành “mạng lƣới sản xuất quốc tế” khi sự phân bổ và
điều phối của các hoạt động sản xuất của tập đoàn vƣợt ra khỏi phạm vi một quốc
gia. MLSX ngày càng có nhiều liên kết không sở hữu, trong đó có các công ty độc
lập: các nhà cung ứng, nhà sản xuất, bán lẻ... Họ liên kết với nhau thông qua các
mối quan hệ đa dạng nhƣ hoạt động thầu phụ, cấp phép đăng ký sản xuất, các tiêu
chuẩn kỹ thuật, hợp đồng marketing, chia sẻ các sản phẩm và các tiêu chuẩn liên
quan đến quy trình... Các ngành trong mạng lƣới cũng không ngừng tăng lên. Một
công ty có thể tham gia nhiều mạng lƣới. Ví dụ, một công ty chuyên về kim loại
hoặc nhựa có thể đồng thời là nhà cung cấp trong MLSX của Sony, Misubishi,
Honda. Tƣơng tự nhƣ vậy, nhà cung cấp phụ tùng ôtô nổi tiếng thế giới Lear là
thành viên MLSX của nhiều nhà lắp ráp ôtô nhƣ tập đoàn General Motors, Ford,

Toyota và Volkswagen A.G. Về cơ bản, có 2 loại MLSX:

15


Mạng lưới do nhà sản xuất điều khiển. Đây là loại đầu tiên trong chuỗi giá trị
toàn cầu, đƣợc xem nhƣ là động lực chính để tổ chức lại sản xuất quốc tế. Trong đó,
các hãng lớn đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát tuyệt đối về điều phối các
mạng lƣới phân phối của các công ty con, các chi nhánh và nhà cung cấp. Các hãng
này cũng kiểm soát việc nghiên cứu và phát triển, thiết kế sản phẩm cơ bản và đổi
mới. Loại mạng lƣới này có xu hƣớng mang đặc điểm của các ngành công nghiệp
thâm dụng vốn và công nghệ, nhƣ ô tô, viễn thông, điện tử, CNTT. Theo đó, chuyển
giao công nghệ và kiến thức là những lợi ích quan trọng khi các nhà cung ứng đƣợc
tham gia vào MLSX. Một ví dụ tiêu biểu là trƣờng hợp của tập đoàn Sony. Khi sản
xuất tại nƣớc ngoài, Sony đã đề ra các tiêu chuẩn khắt khe cho các nhà cung cấp,
đòi hỏi khả năng công nghệ cao, linh hoạt trong đáp ứng, hƣớng dẫn dịch vụ khách
hàng tốt và khả năng làm việc với hệ thống điện tử CNTT.
Mạng lưới do người mua kiểm soát. Đây là xu hƣớng phát triển gần đây, ở đó
các hãng bán lẻ lớn giữ vai trò dẫn đầu, ví dụ Carrefour, Metro về thực phẩm, Ikea
về đồ gỗ và gia dụng… Chuỗi này bắt nguồn từ mạng lƣới phi tập trung của các nhà
cung cấp độc lập, đƣợc các hãng bán lẻ xác định sản phẩm, các thông số và tiêu
chuẩn quy trình tham gia. Loại chuỗi này có xu hƣớng nghiêng về các ngành thâm
dụng lao động, hàng hoá tiêu dùng nhƣ may mặc, da giày, chế biến sản phẩm nông
nghiệp... Các yêu cầu tham gia không cao lắm, tạo ra cơ hội cho nhà sản xuất tại các
nƣớc đang phát triển, bao gồm chủ yếu là các DNNVV.
1.1.2.3. Thầu phụ, thuê ngoài, nhà cung ứng
Liên quan đến các vấn đề nói trên, còn có hoạt động thầu phụ hay vệ tinh,
thuê ngoài và nhà cung ứng.
Thầu phụ. Mặc dù không có định nghĩa cụ thể, nhƣng “thầu phụ” là một
thuật ngữ thông dụng đƣợc sử dụng ở nhiều quốc gia. UNIDO cho rằng, thầu phụ

công nghiệp là sự thỏa thuận giữa nhà thầu chính về việc giao cho một hoặc vài
doanh nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh kiện hay cung cấp dịch vụ công nghiệp
cho việc sản xuất sản phẩm cuối cùng của mình. Các nhà thầu phụ tuân thủ theo
thoả thuận với nhà thầu chính. Nhƣ vậy, thầu phụ nhấn mạnh vào các cam kết và

16


quan hệ giữa nhà thầu chính với nhà thầu phụ. Điều này tƣơng đối khác khi so sánh
với các nhà cung ứng trong CNHT, vì sự lệ thuộc và bị động của các nhà thầu phụ
lớn hơn các nhà cung ứng.
Liên quan đến lĩnh vực này có thuật ngữ là “outsourcing” nghĩa là đi thuê
ngoài. Quan niệm thuê ngoài trở thành một thuật ngữ kinh doanh từ những năm
1980, dùng để chỉ một công đoạn nào đó trong sản xuất, đƣợc thuê công ty khác
thực hiện, để tiết kiệm chi phí và nguồn lực cho doanh nghiệp. Công ty thuê ngoài
chuyên vào những công việc nhƣ vậy, nên họ có chuyên môn và lợi thế hơn.
Quan điểm về thầu phụ và thuê ngoài đã thay đổi theo thời gian. Trƣớc đây,
thầu phụ đƣợc coi là hoạt động áp đặt giữa nhà thầu chính đối với thầu phụ. Đến
những năm 70-80 của thế kỷ trƣớc, đây là hoạt động đƣợc nhắc đến nhƣ một bộ
phận cấu thành quan trọng của nhiều nền kinh tế Đông Á nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc.
Hoạt động thầu phụ và gia công giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lƣợng,
tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro hiệu quả. Các nhà thầu phụ có khả năng ổn định lâu dài,
phản ứng nhanh đối với những thay đổi của thầu chính. Tuy nhiên, hoạt động thầu
phụ ngày càng bộc lộ những điểm yếu, khi so sánh với các nhà cung ứng độc lập.
Thầu phụ phải chịu áp lực và phụ thuộc quá cao vào thầu chính, khả năng đàm phán
khó khăn hơn và lợi nhuận thu đƣợc thấp hơn. Do vậy, các nhà thầu phụ ngày càng
có xu hƣớng trở thành các nhà cung ứng độc lập, tƣơng tự nhƣ các doanh nghiệp
hoạt động trong CNHT.
Nhà cung ứng. Không có quan niệm rõ rệt nào dành cho các nhà cung ứng.
Thuật ngữ đƣợc hiểu chung là ngƣời bán, cung cấp các dịch vụ và hàng hoá cho các

ngành công nghiệp. Thuật ngữ này đã đƣợc sử dụng rộng rãi ở các nƣớc Nam Á, để
chỉ các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho các nhà thầu chính, các nhà
lắp ráp, giống nhƣ các nhà thầu phụ trƣớc đây. Tuy nhiên hoạt động cung ứng này
mở rộng hơn, các nhà cung ứng có quyền lựa chọn cũng nhƣ có thể cung ứng cho
nhiều các nhà thầu chính khác nhau, trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Các
nhà cung ứng càng ngày càng phát triển và có quan hệ khá bình đẳng với các nhà
thầu chính. Quy mô vốn, lao động, công nghệ... cũng khác hẳn thầu phụ trƣớc đây.

17


Về cơ bản, đây là một bộ phận quan trọng và là bƣớc đầu tiên của quan niệm
CNHT hiện nay.
1.1.2.4. Công nghiệp phụ thuộc
Thuật ngữ “công nghiệp phụ thuộc” đang sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ từ những
năm 1950. Thuật ngữ này đƣợc định nghĩa trong Luật Phát triển và Điều chỉnh
Công nghiệp năm 1951 là “hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có liên quan đến
hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc sản xuất linh kiện, phụ tùng, cụm
linh kiện, công cụ hoặc hàng hóa trung gian, hoặc cung cấp dịch vụ…”. Thuật ngữ
chỉ đƣợc biết đến ở Ấn Độ, có thể vì ki nh tế Ấn Độ khi đó chƣa mở cửa với kinh tế
toàn cầu. Một số nhà hoạch định chính sách Ấn Độ đã từng cố gắng giới thiệu thuật
ngữ này ra thế giới bên ngoài, ví dụ nhƣ trong bài báo “Phát triển công nghiệp phụ
thuộc ở Ấn Độ” xuất bản trong bản tin công nghiệp nhỏ của Châu Á và Viễn Đông
số 5, Nanjappa (1997) có viết rằng “để thúc đẩy doanh nghiệp quy mô nhỏ, chính
phủ Ấn Độ đã thành lập một ủy ban xúc tiến công nghiệp phụ thuộc hoạt động nhƣ
là nhà cung cấp các linh kiện, phụ tùng và bán thành phẩm cho các doanh nghiệp
lớn (trích lại từ Fuminori, 2004)”. Mặc dù vậy, thuật ngữ này đã không đƣợc sử
dụng rộng rãi bên ngoài lãnh thổ Ấn Độ. Nguyên nhân có thể là công nghiệp phụ
thuộc đƣợc xếp là một phần của công nghiêp quy mô nhỏ, do đó hầu nhƣ không tìm
thấy sự quan tâm, chính sách hoặc chiến lƣợc riêng cho sự phát triển của ngành

công nghiệp này, kể cả ở Ấn Độ.
1.1.2.5. Công nghiệp linh phụ kiện
Không có định nghĩa riêng biệt cho thuật ngữ “công nghiệp linh phụ kiện”,
nhƣng thuật ngữ thƣờng đƣợc hiểu là ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh
kiện. Thuật ngữ đƣợc dùng rộng rãi trong ngành công nghiệp lắp ráp nhƣ xe máy, ô
tô, điện, điện tử. Đây là thuật ngữ có phạm vi hẹp nhất, vì nó không bao gồm các
đầu vào khác có thể có trong quan niệm về công nghiệp hỗ trợ nhƣ dịch vụ, công
cụ, máy móc và nguyên liệu. Công nghiệp linh phụ kiện có thể đƣợc xem là trung
tâm của công nghiệp hỗ trợ, là yếu tố quan trọng cho việc đánh giá nội địa hóa.

18


×