Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử nam bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 182 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………................1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………………..2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………………....8
4. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………………….............8
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………..8
6. Đóng góp của luận án……………………………………………………………….10
7. Kết cấu của luận án…………………………………………………………………11

CHƯƠNG 1: Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ
cuối thế kỷ XIX trở về trước từ góc nhìn thể loại và từ đặc điểm tư liệu,
hệ thống truyện………………………………………………………………….12
1.1. Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX
trở về trước từ góc nhìn thể loại………………………………………………...12
1.1.1. Thể loại truyền thuyết…………………………………………………………..12
1.1.1.1. Khái niệm……………………………………………………………………..12
1.1.1.2. Phân loại truyền thuyết………………………………………………………..18
1.1.2. Thể loại giai thoại……………………………………………………………….19
1.1.2.1. Việc nghiên cứu về giai thoại…………………………………………………19
1.1.2.2. Về thuật ngữ giai thoại ……………………………………………………….21
1.1.2.3. Giai thoại là một thể loại văn học dân gian.......................................................21
1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử..27
1.1.3.1. Những điểm tương đồng……………………………………………………...27
1.1.3.2. Những điểm khác biệt………………………………………………………...28
1.2. Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX
trở về trước từ đặc điểm tư liệu. hệ thống truyện…………………………………31
1.2.1. Khái niệm Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ


từ cuối thế kỷ XIX trở về trước………………………………...............................31
1.2.2. Tình hình tư liệu………………………………………………………………...33
1.2.2.1. Nhóm tư liệu sử biên niên, địa chí thời kỳ nhà Nguyễn thế kỷ XVIII, XIX….34
1.2.2.2. Nhóm tư liệu biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa… thời kỳ trước 1975 đến nay.36
1.2.2.3. Nhóm tư liệu sưu tập truyện dân gian thời kỳ trước 1975 đến nay...................37
1.2.2.4. Những tư liệu không thuộc phạm vi đề tài........................................................39
1.2.3. Hệ thống truyện………………………………………………………………....41
1.2.3.1. Xác định nguồn tư liệu và tiêu chí sưu tầm, biên soạn……………………….41
1.2.3.2. Hệ thống hóa truyện kể…………………………………………………….....42
CHƯƠNG 2: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử là những nhân vật tiền hiền
khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước………………………………..45
2.1. Khái quát hệ thống truyện………………………………………………………...45
2.2. Đặc điểm cấu tạo.....................................................................................................47
2.2.1. Mô hình cốt truyện...............................................................................................47
2.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện.........................................................48
2.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện……………………….......49
2.2.3.1. Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chiến đấu chống động vật gây hại
và chống thiên tai, dịch bệnh.............................................................................49


2.2.3.2. Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng......63
2.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………………………...............66
2.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với những nhân vật
người anh hùng khai phá………………………………………………...............66
2.3.2. Ý nghĩa phản ánh đặc điểm của văn hóa mở đất..................................................68
CHƯƠNG 3: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh hùng
chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước….............................72
3.1. Khái quát hệ thống truyện………………………………………………………...72
3.2. Đặc điểm cấu tạo.....................................................................................................74
3.2.1. Mô hình cốt truyện...............................................................................................74

3.2.2. Những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện.......................................................75
3.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện...........................................77
3.2.3.1 Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn
trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước....................................................77
3.2.3.2. Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX........82
3.2.4. Nhận xét kết quả miêu tả....................................................................................111
3.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................112
3.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với hình tượng
người anh hùng chống ngoại xâm………………………..................................112
3.3.2. Một hiện tượng văn học dân gian độc đáo gắn với lịch sử................................114
CHƯƠNG 4: Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh.......………………………….116
4.1. Khái quát hệ thống truyện……………………………………………………….116
4.2. Đặc điểm cấu tạo...................................................................................................117
4.2.1. Mô hình cốt truyện.............................................................................................117
4.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện.......................................................118
4.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện..........................................119
4.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................133
4.3.1. Sự thể hiện thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh…...133
4.3.2. Ý nghĩa văn hóa……………………………………………………………….136
4.3.3. Về vấn đề “Gia Long phục quốc” (khôi phục cơ đồ)………………………….137
CHƯƠNG 5: Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX
trở về trước............................................................................................................140
5.1. Khái quát hệ thống truyện……………………………………………………….140
5.2. Đặc điểm cấu tạo...................................................................................................142
5.2.1. Mô hình cốt truyện.............................................................................................142
5.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện………….......................................143
5.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện...........................................144
5.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................163
5.3.1. Sự ngợi ca những con người “dệt gấm thêu hoa”, xây dựng nên những
biểu tượng văn hoá Nam Bộ……........................................................................163

5.3.2. Ý nghĩa sự đối kháng văn hoá............................................................................165
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..167
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………........171
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………….181


1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Nam Bộ là vùng đất mới của Tổ quốc. Tuy mới chỉ được khai phá hơn ba thế
kỷ, chưa có bề dầy thời gian như các vùng đất trung du Bắc Bộ hay vùng đất ven sông
Hồng, sông Mã, nhưng với đặc điểm tự nhiên, con người, lịch sử..., Nam Bộ có truyền
thống lịch sử, văn hóa riêng trên nền thống nhất của lịch sử, văn hóa dân tộc. Những
cái tên như Gia Định, Đồng Nai, Rạch Gầm, Xoài Mút, Nhật Tảo, “Hào khí Đồng
Nai”, “Nam Kỳ lục tỉnh”, v.v... đâu chỉ là địa danh, tên gọi bình thường, đó là mồ hôi,
nước mắt, xương máu của cha ông ta trong hành trình “mang gươm đi mở cõi”, tiến về
phương Nam khai khẩn, mở đất và giữ đất, viết tiếp những trang sử rạng ngời của một
thời “khổ nhục nhưng vĩ đại” (chữ dùng của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) của dân
tộc. Theo đó, trên tiến trình lịch sử Nam Bộ từ buổi đầu hình thành đến cuối thế kỷ
XIX đã nổi lên tên tuổi các nhân vật là những người có những đóng góp lớn lao đối với
cộng đồng xã hội. Để lưu danh họ, bên cạnh những bộ sử biên niên, còn có một dòng
chảy lịch sử khác của nhận thức và tình cảm nhân dân, đó là những truyện kể dân gian
được sáng tác và lưu truyền qua bao thế hệ. Đây là hiện tượng văn học dân gian, văn
hóa dân gian có giá trị, ý nghĩa to lớn, phản ánh sự nhận thức, tình cảm về lịch sử bằng
cảm quan nghệ thuật dân gian của người dân Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung đối
với con người và vùng đất thiêng liêng này. Đã có những công trình sưu tầm, nghiên
cứu về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước. Tuy nhiên,
Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về
trước còn chưa được sưu tầm và nghiên cứu đầy đủ, do đó cần được sưu tầm, hệ thống
hóa và đào sâu nghiên cứu thêm.

2. Tiếp cận với Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ
cuối thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ tiếp tục tìm hiểu đặc trưng của
truyền thuyết và đặc trưng của giai thoại và mối quan hệ, chuyển hóa lẫn nhau của hai
đối tượng này trong thời kỳ cận đại và tại vùng đất Nam Bộ. Đây là thời kỳ tại Nam Bộ
diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử nổi bật, trọng yếu của đất nước, dân tộc. Bên cạnh
những truyền thống chung của cả nước, người dân Nam Bộ với những đặc điểm xã hội
- văn hóa, tính cách riêng, trong hoàn cảnh lịch sử riêng, có cách tiếp cận riêng đối với
những sự kiện, nhân vật lịch sử trên mảnh đất của mình. Và do đó, nghiên cứu đề tài
này cũng góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất thể loại của truyền thuyết và giai thoại,
đồng thời tô đậm thêm đặc điểm địa phương của văn hóa dân gian Nam Bộ trên nền
tảng thống nhất, đa dạng của văn hóa dân gian cả nước. Đề tài cũng cung cấp thêm
minh chứng gián tiếp trả lời các câu hỏi: vì sao ở Việt Nam, thể loại truyền thuyết rất


2
phát triển, vì sao trong các thể loại văn học dân gian, truyền thuyết mang đậm tính địa
phương hơn cả.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại
Thể loại truyền thuyết và giai thoại đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu
ở những phương diện, mức độ khác nhau.
Thuật ngữ truyền thuyết xuất hiện đầu tiên trong bài viết của Đào Duy Anh:
“Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta” (Tạp chí Tri Tân số 30 ra ngày
7/1/1942). Việc nghiên cứu truyền thuyết thể hiện rõ nét hơn với những bước tiến mới
từ những năm 1960 về sau, trong đó, nhiều công trình đặc biệt là các giáo trình đại học
đã đi theo hướng tiếp cận truyền thuyết như là thể loại. Các tác giả của bộ Lịch sử văn
học Việt Nam (xuất bản năm 1963) đã công nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư
cách là một thể loại. Tuy nhiên, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân
gian (1973), tác giả Đinh Gia Khánh không thừa nhận truyền thuyết như là một thể loại
văn học dân gian mà xếp vào sử học. Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Hoàng

Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam của Lê Chí Quế (1999)..., cũng nghiên
cứu truyền thuyết đặt trong hệ thống các thể loại. Chuyên khảo Truyền thuyết anh hùng
trong loại hình tự sự dân gian (1971), trong đó có chuyên khảo Truyền thuyết anh
hùng trong thời kỳ phong kiến của Kiều Thu Hoạch được coi như là cái mốc chuyên
khảo dày dặn đầu tiên cho việc nghiên cứu truyền thuyết như một thể loại văn học dân
gian. Cũng phải kể tới công trình của Đỗ Bình Trị, Lê Trường Phát về thi pháp thể loại
bao gồm truyền thuyết: Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian
(1999), Thi pháp văn học dân gian (2000); hay Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian
đọc bằng Type và Motif (2001), Hồ Quốc Hùng (biên soạn), Truyền thuyết Việt Nam &
vấn đề thể loại (2003)… Ngoài ra có các bài viết tiêu biểu, như: Bùi Quang Thanh, Về
một thể loại văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 4/1979, Tìm hiểu kết cấu dạng
truyền thuyết anh hùng, Tạp chí Văn học, số 3/1981, Bùi Mạnh Nhị, Tiếp cận văn học
dân gian địa phương từ đặc trưng của văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 3/1985;
Trần Thị An: “Nghiên cứu truyền thuyết - những vấn đề đặt ra” Tạp chí Văn học, số
3/1994, “Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền thuyết” Thông báo văn hóa dân
gian, 2000… Tất cả các công trình trên, ở những mức độ khác nhau, đã có những đóng
góp quan trọng trong việc nghiên cứu thể loại truyền thuyết. Nhìn chung, từ những
quan niệm ban đầu chưa có sự nhất trí xem truyền thuyết là một thể loại văn học dân
gian, đến nay giới nghiên cứu đã có những bước phát triển sâu rộng, khẳng định sự tồn


3
tại của thể loại truyền thuyết với những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật, hình thức
tồn tại.
Các nghiên cứu về truyền thuyết ở những khía cạnh cụ thể khác nhau tiếp tục
xuất hiện với hình thức bài báo hoặc luận án. Có thể kể đến các bài viết: Bước đầu tìm
hiểu nguồn truyện kể địa danh Việt Nam, Nguyễn Bích Hà, Tạp chí Văn học, số
2/1986; hay Truyện kể địa danh từ góc nhìn thể loại, Trần Thị An, Tạp chí Văn học, số
3/1999, đưa ra những nhận xét mới trong việc nghiên cứu truyện kể địa danh ở cách
tiếp cận thể loại… Hay các luận án tiến sĩ như: Những đặc trưng cơ bản của truyện

dân gian vùng Thuận Hóa (1999), Hồ Quốc Hùng, Đặc trưng thể loại truyền thuyết và
quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam (2002), Trần Thị An, Khảo sát
truyện kể dân gian Khme Nam Bộ (qua thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích), Phạm
Tiết Khánh (2007), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
Nam Bộ (1858 - 1918), Võ Phúc Châu (2009), Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân
gian vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013)...
Khác với thể loại truyền thuyết, do không thuộc vị trí của khung phân loại
truyền thống nên việc nghiên cứu giai thoại đến nay chưa đầy đủ. Trong bài tiểu luận
đầu sách Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), Vũ Ngọc Khánh nhận định: “Tuy vẫn
luôn luôn được nhắc đến, kể đến với nhiều trân trọng, nhưng phải nói rằng giai thoại
chưa được nghiên cứu bao nhiêu, và thật ra thì cũng chưa xác định vị trí cho rõ rệt
lắm”. Đây cũng là tập tư liệu mở đầu, cùng với một số chuyên khảo khác đã đặt nền
tảng quan trọng cho việc nghiên cứu thể loại giai thoại ở góc độ thể loại. Tiếp theo, cần
kể tới các công trình, như: Khảo luận về giai thoại (trong Tổng tập Văn học dân gian
người Việt, Kiều Thu Hoạch (2004), được bổ sung trong Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại (2006)) hay Giai thoại xứ Nghệ (trong Về văn học dân gian xứ Nghệ,
Ninh Viết Giao (2004). Bên cạnh đó, có các bài viết như: Bước đầu phân biệt truyền
thuyết và giai thoại, Võ Phúc Châu (2005), Giai thoại - một thể loại văn học dân gian,
Nguyễn Bích Hà (2010).
Ngoài ra có thể kể đến các bộ tự điển với những định nghĩa, giới thuyết chung
về thể loại truyền thuyết và giai thoại như: Từ điển văn học (1984), (Nhiều tác giả), Từ
điển văn học (Bộ mới) (2004), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học
(2013), Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), hay chuyên khảo về
type truyện dân gian bao gồm truyền thuyết và giai thoại: Từ điển Type truyện dân gian
Việt Nam (2012), Nguyễn Thị Huế (chủ biên).
Về tư liệu nước ngoài, về các khái niệm, thuật ngữ, đặc trưng thể loại, chúng tôi
tham khảo một số công trình nghiên cứu có tính tổng hợp, dịch thuật và giới thiệu, như:


4
Phônclo và thực tại của V.Ia.Propp, Chu Xuân Diên dịch; Mỹ học folklore, Hoàng

Ngọc Hiến dịch (1998); “Chất dân gian của những người không phải dân chúng và chất
phi dân gian của dân chúng” của Charles Seeger, trong Folklore thế giới - một số công
trình nghiên cứu cơ bản, “Truyền thuyết” của Linda Dégh, trong Folklore một số thuật
ngữ đương đại, Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2005); định nghĩa
về giai thoại của từ điển Larousse trong Nguồn gốc văn minh nhân loại, M.Rohl
(2008), Lê Thành biên dịch... cung cấp nhiều luận điểm có giá trị về lý thuyết thể loại;
hay Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), với
những khái niệm, tri thức văn hóa về biểu tượng mang ý nghĩa là ngữ liệu cho đề tài...
Còn có những quan niệm, nhận định của một số nhà nghiên cứu folklore thể giới
về thể loại được ghi nhận từ các bài nghiên cứu hay giới thiệu sách sưu tầm, biên soạn,
như: định nghĩa về truyền thuyết của nhà ngữ học Linda Dégh & A.Vizonyi trong bài
viết “Nhận diện truyền thuyết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” của Trần Thị An, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 6 / 2006; nhận định liên quan đến giai thoại của P.Roland
Barth: “Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể”, Tạp chí Communications (Giao Lưu,
Paris) trong Giai thoại kẻ sĩ, Thái Doãn Hiểu (1996)...
2.2. Các công trình biên khảo, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân gian Nam Bộ
Nhóm tư liệu về lịch sử, văn hóa dân gian Nam Bộ có thể phân theo hai thời kỳ:
Thời kỳ nhà Nguyễn
Tiêu biểu có sách địa chí, lịch sử, như: Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức, công trình nghiên cứu sâu rộng về vùng đất Gia Định xưa; Đại Nam nhất thống
chí (phần Lục tỉnh Nam kỳ), Đại Nam thực lục (Quốc triều sử toát yếu là hình thức
lược biên, rút gọn), Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn... Các công
trình đã ghi nhận một số mẩu truyện kể về các nhân vật lịch sử Nam Bộ.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay
Giai đoạn trước năm 1975 có các công trình như: Nam Kỳ danh nhân, Đào Văn
Hội (1943), nói đến thành phần võ tướng và văn nhân; Lịch sử khẩn hoang miền Nam
(1970), Đất Long Xuyên và công trình khai phá miền Hậu Giang, Đất Gia Định xưa,
Bến Nghé xưa, Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa (1985)... của Sơn Nam,
biên khảo về lịch sử khẩn hoang và phát triển vùng đất; hay Sài Gòn năm xưa, Vương
Hồng Sển (1960), công trình khảo luận về lịch sử Sài Gòn… Rải rác trong các công

trình, có một số mẩu truyện tương truyền về các nhân vật lịch sử.
Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu liên quan các nhân vật lịch sử Nam Bộ
trong Tập san Sử Địa, gồm: Nén hương hoài cổ Trương Định, Trương Bá Phát, Vài
giai thoại có dính líu tới cụ Lãnh binh Trương Định, Lê Thọ Xuân, số 3, 1966; Phan


5
Thanh Giản dưới mắt người Pháp qua vài tài liệu, Nguyễn Thế Anh, số 7, 1967; hay
chuyên khảo Kỷ niệm 100 Nguyễn Trung Trực số 12, 1968…
Sau năm 1975, về lịch sử, văn hóa, có các công trình nghiên cứu về đặc điểm
vùng đất, con người, tiêu biểu như: Đình miếu và lễ hội dân gian, Sơn Nam (1994),
Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX Huỳnh Lứa, (2000),
Nam Bộ đất và người Hội khoa học lịch sử TP. HCM (2005), Những vấn đề lịch sử
triều Nguyễn Tạp chí Xưa & Nay (2009), Khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Phan
Quang, Lê Hữu Phước (2001), Nguyễn Hữu Cảnh chân dung người mở cõi, Thanh Ba
(2007)..; hay những công trình dưới hình thức hỏi đáp lịch sử như: Lịch sử Gia Định Sài Gòn trước 1802, Cao Tự Thanh (2007), Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung
Trực, Trương Định, Võ Duy Dương, Tủ sách lịch sử Việt Nam (2008); Bên cạnh đó,
các tư liệu lịch sử địa phương như Nguyễn Trung Trực - thân thế và sự nghiệp, Bảo
tàng Kiên Giang (1989), Những trang ghi chép về lịch sử – văn hóa Tiền Giang,
Nguyễn Phúc Nghiệp (1998)... cũng có một số mẩu truyện kể về các nhân vật lịch sử.
Về lĩnh vực ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, có các công trình tiêu biểu như: Văn hóa
dân gian người Việt ở Nam Bộ (1992), Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn
Quang Vinh, nghiên cứu các thiết chế văn hóa dân gian ở Nam Bộ; Tự vị tiếng Việt
miền Nam (1993), Vương Hồng Sển, giải thích địa danh theo phương pháp giải thích
địa lý, ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống dân gian; Sổ tay hành hương đất phương
Nam, Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2003), ghi nhận hệ thống di tích văn hóa - tín
ngưỡng vùng đất phương Nam; Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nguyễn Đăng Duy
(1997), phác họa một mặt thiết yếu của đời sống người Nam Bộ, trong đó có mối quan
hệ giữa truyền thuyết với tín ngưỡng; hay An Giang đôi nét văn hóa đặc trưng vùng
đất bán sơn địa, Nguyễn Hữu Hiệp (2007); Văn hóa dân gian đảo Phú Quốc, Trương

Thanh Hùng (2008); Nghiên cứu Hà Tiên, Trương Minh Đạt, (2008), nói đến lịch sử,
văn hóa của vùng đất, đã ghi nhận một số mẩu truyện kể (như về Nguyễn Ánh, Mạc Tử
Sanh, Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Mẫn Đạt…)...
Nằm trong loại sách danh nhân Nam Bộ, có những tư liệu viết theo hình thức
nhân vật chí, nghiên cứu, giới thiệu về con người, sự nghiệp, tác phẩm thơ văn, như:
Theo dấu Bùi Hữu Nghĩa, Thái Văn Kiểm (1961), Những danh sĩ miền Nam, Hoài
Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần
(1986), Bùi Hữu Nghĩa con người và tác phẩm, Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn
học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Bảo Định Giang (2001)… Các công trình viết về cuộc
đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hoá miền Nam từ lúc hình thành vùng đất
Đàng Trong thế kỷ XVII đến khi thực dân Pháp đặt ách thống trị.


6
2.3. Các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, truyền thuyết và giai
thoại dân gian Nam Bộ
Từ đầu thế kỷ XX đến trước 1975 đã có những công trình sưu tập, nghiên cứu
văn học dân gian Nam Bộ. Bộ phận truyện dân gian Nam Bộ nói chung được nghiên
cứu không nhiều, chủ yếu là sưu tầm, rải rác có một vài bài viết hoặc giới thiệu sơ
lược. Từ sau 1975, trong điều kiện đất nước thống nhất, việc giới thiệu, nghiên cứu văn
học dân gian ở Nam Bộ nói riêng đã có những bước phát triển mới.
Nhóm tư liệu sưu tầm, ghi chép
Đến nay, công tác sưu tầm văn học dân gian Nam Bộ nói chung đã đạt được
những thành tựu khả quan. Tư liệu sưu tầm, ghi chép nguồn truyện dân gian về nhân
vật lịch sử Nam Bộ nói riêng khá phong phú, bao gồm các nhóm: thư tịch sách Quốc
sử quán triều Nguyễn, sách biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nam Bộ, địa
phương chí và sách sưu tầm, biên soạn văn học dân gian Nam Bộ.
Nhóm tư liệu nghiên cứu
Về nghiên cứu lý luận, có các bài viết tiêu biểu như: Tiếp cận văn học dân gian
địa phương từ đặc trưng của văn học dân gian, Bùi Mạnh Nhị, Tạp chí Văn học, số

3/1985: nêu những định hướng trong nghiên cứu văn học dân gian địa phương, nhấn
mạnh sự phát triển mạnh của thể loại truyền thuyết ở giai đoạn cận đại gắn với những
nét đặc thù của tiến trình lịch sử Nam Bộ; hay Đặc trưng truyện dân gian người Việt ở
Nam Bộ trong Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nguyễn Phương Thảo
(1997), đề cập nét đặc trưng của truyện dân gian Nam Bộ, bao gồm truyện về các nhân
vật lịch sử và văn hóa.
Bên cạnh đó, trong lời dẫn ở một số sách sưu tập, có phần giới thiệu hoặc tiểu
luận tổng quan về truyện dân gian bao gồm truyền thuyết và giai thoại Nam Bộ, như:
Truyện dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ
(1994), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh của Huỳnh Ngọc Trảng (1998)...
Ngoài ra, có nhóm bài viết Kỷ yếu hội thảo về nhân vật lịch sử Nam Bộ, như Kỷ
yếu Hội thảo khoa học về nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1985), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học về Nhà thơ - Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1987), Kỷ yếu Hội thảo Thân thế và
sự nghiệp của Chưởng cơ - Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1993), Kỷ yếu Hội thảo
Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX (2008)...
Về nghiên cứu chuyên sâu, có hai luận án đi trước có liên hệ về phạm vi đề tài.
Ở Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 1918) của Võ Phúc Châu (2009), tác giả đã hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về


7
những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ; khảo sát các nhóm truyền thuyết;
những motif, nhóm motif phổ biến; nêu những chứng tích văn hóa liên quan tới các
truyện kể... Công trình dày dặn này đã thống kê, miêu tả khá hệ thống các tình tiết,
môtíp, là cơ sở để chúng tôi tham khảo, tiếp tục hệ thóng hóa và miêu tả các tình tiết,
môtíp của nhóm truyền thuyết về người anh hùng chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX
trở về trước, bên cạnh đó, ghi nhận phần phụ lục truyện kể của công trình như một tư
liệu sưu tầm, biên soạn. Ở Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013), tác giả đã xác lập cơ sở hình thành đặc
trưng và một số tiêu chí để nhận diện, phân loại thể loại truyện kể; khảo sát đặc điểm tư

liệu, trình bày đặc trưng cấu tạo truyền thuyết địa danh; đặc trưng cấu tạo truyền thuyết
về một số nhân vật. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu luận án của chúng tôi có phần
khác và rộng hơn so với hai luận án đã kể trên, cách tiếp cận và nhiệm vụ nghiên cứu
của chúng tôi cũng có những điểm khác (sẽ trình bày ở các chương sau).
Liên quan tới lịch sử vấn đề, tới các mảng tư liệu dùng để so sánh, có thể kể đến
các bài viết như: Về mấy khuynh hướng sai lầm ở các đô thị miền Nam trước ngày 30
tháng 4 năm 1975 về nghiên cứu văn học dân gian, Nguyễn Quang Vinh, Tạp chí Văn
học, số 4 / 1977, Các hình thức tương tác cơ bản giữa văn học dân gian và văn học
viết, Trần Đức Ngôn, Tạp chí Văn học, 2004, Các mảng truyện kể dân gian về cuộc
khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám lưu truyền trên đất Yên Thế, Nguyễn Đình Bưu, Tạp chí
Văn học số 1 / 1975, Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất mới, Hồ Quốc
Hùng, Tạp chí Văn học, số 4 / 1998, hay sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca,
Nguyễn Liên Phong (1909)...
Điểm qua các tư liệu, có thể thấy các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu
những vấn đề chung về lịch sử, văn hóa Nam Bộ và cung cấp những tư liệu sưu tầm về
văn học dân gian. Với các công trình có liên hệ về phạm vi đề tài đã nêu, đây là những
thành quả đáng trân trọng, giúp ích cho việc đào sâu, phát triển thêm vấn đề nghiên
cứu. Tuy nhiên, trong việc tập hợp, hệ thống mảng truyền thuyết Nam Bộ nói chung,
chúng tôi sẽ chú trọng nhiều hơn việc phân biệt văn bản ghi chép lịch sử và truyện kể
dân gian, đồng thời bổ sung thêm nguồn tư liệu truyện kể. Luận án của chúng tôi cũng
sẽ tập trung vào những vấn đề cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu, như mối quan hệ
giữa truyền thuyết và giai thoại hay việc xác lập giai thoại với tư cách là một thể loại
văn học dân gian, diện mạo, những nét đặc thù của truyền thuyết và giai thoại về các
nhân vật lịch sử Nam Bộ, yếu tố truyền thống và sáng tạo, xu hướng xâm nhập lẫn
nhau giữa truyền thuyết và giai thoại thời kỳ cận đại.


8
Đây cũng là yêu cầu đặt ra cho đề tài, nhằm góp phần khẳng định những sắc thái
độc đáo của loại hình tự sự dân gian Nam Bộ.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Truyền thuyết và giai thoại về nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX là
đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Các phương diện lịch sử, đời sống văn hóa, xã
hội của cộng đồng cư dân Nam Bộ trong mối quan hệ với thể loại truyền thuyết và giai
thoại cũng được xem là đối tượng nghiên cứu hữu quan.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các tư liệu văn bản trong các công trình sưu tập,
biên soạn truyện dân gian và mở rộng ở các công trình lịch sử, địa chí triều Nguyễn,
công trình biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nam Bộ... có ghi chép truyện kể đã
được hệ thống hóa. Các truyện kể cùng nội dung, chủ đề trong truyện kể dân gian các
vùng miền khác, tùy theo mục đích từng phần của nội dung luận án, được dùng để so
sánh, liên hệ, để làm nổi bật đối tượng nghiên cứu.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Luận án hướng tới những mục tiêu chính như sau:
Trên cơ sở lý thuyết thể loại, xác lập các tiêu chí chọn lọc tư liệu, luận án đã hệ
thống các văn bản, các nhóm truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam
Bộ đến cuối thế kỷ XIX. Đồng thời, luận án phác họa diện mạo, phân tích đặc trưng
nghệ thuật, ý nghĩa và giá trị các truyền thuyết và giai thoại này trong hệ thống truyện
dân gian Nam Bộ nói riêng, truyện dân gian Việt Nam nói chung; bước đầu xác lập
mối quan hệ tương tác thể loại giữa truyền thuyết và giai thoại, sự vận động của các thể
loại này trong sự phát triển của chúng ở thời cận đại.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện mục tiêu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp hệ thống: Phương pháp này tạo cơ sở cho việc đánh giá, xác lập
tiêu chí chọn lọc văn bản và hệ thống nguồn tư liệu, nguồn truyện, giúp tìm hiểu quy
luật vận động của các thể loại.
Phương pháp thống kê, miêu tả: Thống kê các nhóm truyện, miêu tả kết cấu, nội
dung, các môtíp trong các nhóm truyện làm cơ sở khái quát các luận điểm theo thể loại
và các tiểu loại, phân tích các giá trị dựa trên những tiêu chí, số liệu cụ thể.
Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích truyện kể theo chủ đề, nội dung, các
môtíp theo đặc trưng thể loại. So sánh, đối chiếu văn bản truyện, phân loại các nhóm tư

liệu, so sánh liên hệ với các nhóm truyện ở các vùng miền.
Phương pháp liên ngành: Luận án sử dụng phương pháp này để tìm hiểu một số
phương diện văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo... làm cơ sở để phân tích các nhóm


9
truyện, mối quan hệ của truyền thuyết và giai thoại lịch sử với lịch sử vùng đất và với
văn hóa, văn học dân gian Nam Bộ.
Những khái niệm công cụ
Chúng tôi xin giới thuyết một số khái niệm công cụ được sử dụng trong luận án,
bao gồm: đề tài, cốt truyện, đề tài - cốt truyện, tình tiết, môtíp (motif) và típ (type).
Đề tài là phạm vi hiện thực của đời sống khách quan mà tác phẩm đề cập.
Cốt truyện theo Từ điển thuật ngữ văn học là “Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ
chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan
trọng nhất trong hình thái động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch”
[52,99].
Khái niệm đề tài - cốt truyện dùng chỉ đề tài gắn liền với cốt truyện, tức một
phạm vi giới hạn của đời sống khách quan được hướng đến, được xây dựng trong một
hình thức tổ chức hệ thống sự kiện nhất định. Tùy theo sự đa dạng, phong phú của tác
phẩm, quy mô nhóm đề tài - cốt truyện sẽ mở rộng.
Sự hiện thực hoá đề tài, cốt truyện được biểu hiện ở hệ thống tình tiết, môtíp,
đóng vai trò kiến tạo cốt truyện.
Tình tiết của truyền thuyết được rút ra, xây dựng từ những sự kiện thực tế,
mang ý nghĩa thể hiện diễn tiến của cốt truyện. Sự xuất hiện lặp lại, có tính ổn định,
tiêu biểu về mặt ý nghĩa nhất định của một hoặc một số tình tiết có thể tạo lập nên các
môtíp. Đây là những đơn vị, thành tố nghệ thuật nhỏ nhất hàm chứa những quan niệm
cụ thể về sự kiện hiện thực đã được “mã hóa”.
S.Thompson đã định nghĩa: “Mô típ là yếu tố nhỏ nhất của truyện kể dân gian,
có khả năng lưu truyền một cách bền vững. Để có được khả năng này mô típ phải là
một cái gì đó khác thường và gây ấn tượng” [60,13]. Định nghĩa này giới thuyết về cấu

tạo, sự vận động và dấu hiệu đặc trưng của môtíp với vai trò là một đơn vị cấu trúc của
truyện dân gian.
Nguyễn Tấn Đắc tóm lược và nhấn mạnh đặc trưng đơn vị môtíp của tác phẩm
văn học dân gian: “Motif là những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng vừa mang
tính bền vững của tác phẩm văn học dân gian” [37,11]. Chu Xuân Diên nói đến vai trò
cốt yếu cụ thể của môtíp: thuật ngữ môtíp dùng chỉ “những yếu tố đơn giản nhất có ý
nghĩa trong cấu tạo đề tài, cốt truyện của tác phẩm nghệ thuật” [143,465]. Đối với các
thể loại tự sự của văn học dân gian, thuật ngữ này đươc hiểu theo nghĩa là “hạt nhân
của cốt truyện”, là “công thức truyền thống” từ đó cốt truyện được triển khai hoặc như
“yếu tố hợp thành” của cốt truyện. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: mô típ là
“những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và


10
được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ
thuật dân gian” [52,197].
Nhóm tác giả Từ điển type truyện dân gian Việt Nam đã diễn giải về môtíp trong
mối liên hệ với cấu trúc cốt truyện và típ (kiểu) truyện như sau: “Motif truyện kể thực
chất là một khái niệm đơn giản, hay gặp trong truyện kể truyền thống, nó có thể là một
đoạn kể ngắn, lặp đi lặp lại và có thể có tính chất khác thường, làm cho người ta nhớ
hoặc nó có dấu hiệu đặc biệt... Sự lắp ghép của các motif một cách logíc sẽ tạo nên các
cốt truyện, nhiều cốt truyện có những motif tương tự nhau sẽ tạo nên những type”
[79,21].
Các định nghĩa, diễn giải nêu trên về môtíp là những cách hiểu mà chúng tôi
thấy đúng và phù hợp. Chúng tôi thống nhất với quan niệm của tác giả Chu Xuân Diên
về môtíp: là những yếu tố đơn giản nhất có ý nghĩa trong cấu tạo đề tài, cốt truyện, là
hạt nhân của cốt truyện, là công thức truyền thống cho sự triển khai cốt truyện hoặc
như yếu tố hợp thành của cốt truyện. Đồng thời, khi vận dụng khái niệm này, chúng tôi
cũng chú ý những nội dung khác của khái niệm môtíp như: tính lặp lại, tính chất độc
đáo của các chi tiết trong các văn bản tác phẩm hay sự hàm chứa một quan niệm về

nhân sinh.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án đã có những đóng góp sau:
- Trên cơ sở tiếp cận cơ sở lý thuyết về thể loại, luận án đã khái quát những đặc
điểm của truyền thuyết và giai thoại, tiếp tục so sánh truyền thuyết và giai thoại
folklore, đồng thời chỉ ra sự gần gũi, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của các thể loại
này.
- Luận án trình bày tổng quan được bức tranh vừa khái quát, vừa cụ thể tình
hình sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử
Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước; tiếp cận những khía cạnh cụ thể của vấn đề
văn bản hóa truyện dân gian, bổ sung một số tư liệu sưu tầm mới về văn bản và mối
quan hệ của văn bản với các chứng tích văn hóa có liên quan.
- Luận án đã tập hợp, sưu tầm, thống kê, phân loại, hệ thống hóa 220 truyền
thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước,
thời kỳ mà tại Nam Bộ diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử nổi bật, trọng yếu của đất nước,
dân tộc.
- Theo hướng tiếp cận thể loại, luận án đã khảo sát, miêu tả và xác định đặc
trưng nghệ thuật và đặc trưng giá trị của hệ thống truyền thuyết và giai thoại về các
nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, chỉ ra đặc trưng mối quan hệ


11
của các yếu tố điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội và sự hình thành, phát triển
của hệ thống truyện dân gian Nam Bộ.
- Kết quả nghiên cứu và nguồn truyện sưu tầm của luận án góp phần vào việc
nghiên cứu văn hóa, lịch sử địa phương, đồng thời, góp phần lưu giữ, bảo tồn những
giá trị văn hóa phi vật thể của Nam Bộ.
7. KẾT CẤU LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, luận án có 5 chương:
Chương 1: Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối

thế kỷ XIX trở về trước từ góc nhìn thể loại và từ đặc điểm tư liệu, hệ thống truyện
Chương 2: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những nhân vật
tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước
Chương 3: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh
hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước
Chương 4: Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh
Chương 5: Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX
trở về trước.


12
CHƯƠNG 1
TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI VÀ TỪ
ĐẶC ĐIỂM TƯ LIỆU, HỆ THỐNG TRUYỆN
1.1. TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM
BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI
Nghiên cứu văn học dân gian trên bình diện thể loại là nhiệm vụ rất cần thiết, vì
như nhà nghiên cứu Bùi Mạnh Nhị đã nhận xét, “Trên thực tế không có văn học dân
gian như là một lĩnh vực đơn nhất mà chỉ có văn học dân gian tồn tại trong những thể
loại, với những tác phẩm cụ thể” [136,120]. Việc nghiên cứu, miêu tả đặc trưng thể
loại đóng vai trò thiết yếu cho việc tìm hiểu những sáng tác thuộc thể loại.
1.1.1. Thể loại truyền thuyết
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm và đặc trưng của truyền thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc
đến. Do đó, chúng tôi chỉ khái quát, hệ thống lại những điểm cơ bản, làm cơ sở cho
việc khảo sát đối tượng nghiên cứu của luận án.
Theo lối định nghĩa duy danh, truyền thuyết được hiểu là những điều được
truyền lại từ đời trước bằng miệng qua các thế hệ, vì vậy, những “lời truyền thuyết”
này bao hàm ý nghĩa là những sự việc thực hư chưa rõ, chưa có chứng cứ tin cậy. Hay

truyền thuyết là thuyết, giả thuyết được truyền, theo đó, truyền thuyết là những lời
truyền tụng trong dân gian về sự việc, sự kiện nào đó nhưng chưa bảo đảm là thực.
Ở Trung Quốc, danh từ truyền thuyết thường được dùng cùng “truyền văn” hay
“truyền ngoa” (có cụm từ dĩ ngoa truyền ngoa), chỉ sự việc không phải là điều tai nghe,
mắt thấy hay chuyện hoang đường, nó bao hàm ý nghĩa là điều không có thật, được lưu
truyền lan rộng.
Ở một số nước phương Tây như Anh, Mỹ hay Pháp, khái niệm truyền thuyết
được thể hiện trong từ legend (hay la légende) (xuất hiện trong ngôn ngữ Anh năm
1340), có gốc từ từ La tinh lagère (đọc) để chỉ một đoạn tài liệu đọc, về sau có nghĩa
liên quan thông tin không chính xác, hay một câu chuyện không chắc có thực. Các nhà
nghiên cứu cũng nói đến cách hiểu về giới hạn cụ thể của thuật ngữ. Tiếng Nga có hai
thuật ngữ chỉ thể loại truyền thuyết: predanhie để chỉ truyền thuyết về các sự kiện và
nhân vật có thật; legenda thì chỉ nhóm truyền thuyết huyền thoại, trong đó bao hàm cả
truyền thuyết hoặc được dùng chỉ một bộ phận huyền thoại, tức là những truyện có yếu
tố hoang đường, quái đản. Ở một số nước châu Âu, có sự phân biệt giữa thuật ngữ


13
légende và tradition, đều có nghĩa là lời truyền tụng, lời tục truyền nhưng có sự phân
biệt giữa nhân vật lịch sử linh thiêng (thuộc tôn giáo) và lịch sử trần thế.
Ở góc độ thể loại, với ý nghĩa là một thuật ngữ khoa học, truyền thuyết có nội
hàm rộng hơn. Giai đoạn thế kỷ XIX đến những thập niên đầu XX, trên thế giới đã có
những công trình nghiên cứu chuyên về truyền thuyết trên bình diện thể loại. Thuật
ngữ khoa học truyền thuyết học được hình thành cho thấy tính chất quan trọng và rộng
lớn của khoa học nghiên cứu truyền thuyết. Đây được coi là thể loại có tính đặc thù
trong loại hình văn xuôi tự sự dân gian. Trong những quan niệm có tính bao quát về
truyền thuyết, niềm tin vào những điều được kể, về tính có lý của nó là dấu hiệu quan
trọng bản chất của thể loại truyền thuyết, khác với truyện cổ tích, nói theo Propp là
“thế giới của những điều tưởng tượng, không thể xảy ra được” [158,36].
M.Rohl, nhà nghiên cứu khoa học xã hội Anh khi định nghĩa về truyền thuyết,

đã chú trọng diễn giải vấn đề niềm tin: “Trong cốt lõi của nó có một niềm tin cơ bản ở
phía người kể chuyện, cho rằng các sự việc được mô tả là điều có thật” [170,7].
L.Dégh, nhà folklore Hungary, cũng nói về niềm tin đặt vào truyền thuyết: “Cốt
lõi của truyền thuyết thực tế là một đức tin” [26,322].
L.Dégh & A.Vizonyi thống nhất quan điểm về vấn đề niềm tin có tính cốt yếu
trong truyền thuyết: “Niềm tin là một vấn đề có tính nguyên tắc của truyền thuyết (…).
Những khía cạnh phong phú của niềm tin về những điều có thực hay tưởng tượng được
trình bày trong truyền thuyết là chiếc chìa khóa để các nhà nghiên cứu hiểu được thể
loại này” [4,54].
F.Ranke, nhà nghiên cứu folklore Đức, nhấn mạnh tinh thần của niềm tin được
tạo lập trong truyền thuyết: “Truyền thuyết trong bản chất của nó đòi hỏi một niềm tin
ở người kể cũng như người nghe, rằng nó liên quan tới sự thực, rằng nó đã từng xảy
ra” [4,54].
Ở Việt Nam, nhiều nhà chính trị, văn hóa, nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan
niệm về truyền thuyết.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà chính trị, văn hóa lớn, đã nêu một ý kiến rất
xác đáng về truyền thuyết: “Những truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật
lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gấm vào đó tâm tình thiết
tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật
dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích” (Nhân
ngày Giỗ Tổ vua Hùng, báo Nhân dân, 29.4.1969).
Kiều Thu Hoạch xác định: “Truyền thuyết là một thể loại chuyện kể truyền
miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện


14
tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo
quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại,
đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ…”[72,18].
Lê Chí Quế định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân

gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn
giáo thông qua sự hư cấu thần kỳ” [163,49].
Cùng hướng đến chiều sâu ý nghĩa, giá trị tư tưởng của truyền thuyết, Bùi
Quang Thanh kiến giải về những đặc trưng nghệ thuật thể loại: “Với sự tưởng tượng
“thơ và mộng”, với “tâm tình thiết tha” của mình, nhân dân đã phủ lên những “cái lõi
sự thật lịch sử” ấy những yếu tố hư ảo, thần kỳ, những nét khoa trương, phóng đại
(…). Phải chăng có sử dụng những biệp pháp nghệ thuật như vậy, các tác giả dân gian
mới thỏa mãn được lòng kính trong, được gửi gấm tình yêu thương mãnh liệt đối với
quê hương đất nước, với những vị anh hùng của dân tộc?” [190,126].
Có thể thấy, quan niệm của M.Rohl, L.Dégh, F.Ranke... về truyền thuyết nhấn
mạnh vấn đề niềm tin (về “những điều có thực hay tưởng tượng”), tức yếu tố thái độ
tinh thần được đặt ở bình diện thứ nhất. Quan niệm của các nhà văn hoá, nhà nghiên
cứu khác chú trọng đặc trưng “sự tưởng tượng”, “ thơ và mộng”, “sự hư cấu thần
kỳ”..., là những yếu tố nghệ thuật xây dựng nên giá trị tư tưởng của thể loại, vấn đề
niềm tin nằm trong “mạch ngầm” của tư tưởng, tình cảm.
Tựu trung, có thể rút ra định nghĩa về truyền thuyết xác lập trên các phương
diện loại hình, đặc điểm nội dung, nghệ thuật và thái độ nhận thức như sau: truyền
thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian, phản ánh những sự kiện, nhân vật
lịch sử, gắn với sự tưởng tượng và hư cấu thần kỳ, thể hiện cảm quan, sự đánh giá của
nhân dân về lịch sử.
Về đặc điểm thể loại, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh cái cốt lõi trước hết và
trung tâm nhất của truyền thuyết là tính lịch sử. Sự khác biệt có tính cốt lõi của truyền
thuyết so với các thể loại thần thoại và truyện cổ tích đã được Chu Xuân Diên khái
quát: “Đặc điểm chủ yếu phân biệt truyền thuyết với các thể loại thần thoại và truyện
cổ tích là trong truyền thuyết bao giờ cũng giữ lại được những nét chính yếu của
những sự kiện và con người có thực, làm thành cái lõi cốt hiện thực lịch sử - cụ thể cho
trí tưởng tượng nghệ thuật của nhân dân” [143,78]. Đã là truyền thuyết thì phải mang
yếu tố lịch sử. Trong sự sáng tạo của truyền thuyết, lịch sử là yếu tố làm nên đặc tính
thể loại, từ cảm hứng nghệ thuật, xu hướng lịch sử hóa, nội dung thể hiện. Trên tổng
thể, truyền thuyết dân gian là “một dòng tự sự lịch sử độc đáo” [190,131], đã trình bày

một cách đầy đủ bức tranh sinh động về lịch sử dân tộc hay địa phương. Đây là một


15
dạng thức “nghìn năm bia miệng”, là hình thức nhận thức lịch sử của nhân dân qua các
thời đại như một dòng chảy lịch sử không vơi cạn. Song, yếu tố lịch sử trong truyền
thuyết không phải là lịch sử đơn thuần mà gắn với sự kỳ ảo hóa (đồng thời là xu hướng
khẳng định là sự thật những điều kỳ ảo) và đây chính là con đường của sáng tạo nghệ
thuật. Bùi Mạnh Nhị nhận định: “Cái lõi sự thật lịch sử trong các truyền thuyết chỉ là
cái nền, cái “phông” cho các tác phẩm, vì đã được nhào nặn lại, được kỳ ảo hóa để
khái quát, lý tưởng các sự kiện, nhân vật, nhằm tăng “chất thơ” cho các câu chuyện”
[140] .
Mối liên hệ đặc biệt giữa truyền thuyết và lịch sử cũng đã được đề cập ngay
trong bài Tựa sách Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XV, một trong những tập truyện đầu
tiên được hình thành từ sự “góp nhặt và sàng lọc” các truyện kể dân gian của các học
giả thời phong kiến: “Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng?… Sử là
thực và truyện là hư. Sử nằm trong truyện, truyện xen vào sử” [169,18].
Do tính chất gắn bó chặt chẽ với lịch sử của truyền thuyết, đã có ý kiến coi
truyền thuyết là dã sử hay sử dân gian, tức là một bộ phận của lịch sử thời kỳ cổ sơ và
là lịch sử truyền miệng (bên cạnh loại sử chính thống, tồn tại trên văn tự); vì vậy không
coi truyền thuyết là một khái niệm thuộc phạm trù văn hóa dân gian.
Quan niệm đồng nhất hay nhầm lẫn giữa truyền thuyết và lịch sử không chỉ do
sự gắn bó với lịch sử của truyền thuyết mà còn do điều kiện khách quan là có khoảng
thời gian dài, nhiều cộng đồng, dân tộc chưa có sử thành văn, nên những câu chuyện về
lịch sử của truyền thuyết đã trở thành nguồn sử liệu chính cho đời sau. Đây cũng là
hiện tượng phổ biến mọi nước, khi chưa có chữ viết, lịch sử dân tộc thường được kể
mở đầu bằng truyền thuyết như một sự thay thế, bổ khuyết cho lịch sử. Sau này những
truyền thuyết đó được ghi chép lại.
Về quan hệ giữa lịch sử và văn học dân gian, có thể nhắc đến nhận xét của
M.Gorki: “Từ thời viễn cổ, văn học dân gian luôn luôn là người đồng hành khăng khít

và đặc thù của lịch sử”.
Sự “đặc thù” đó liên quan đến bản chất sáng tạo nghệ thuật của văn học dân
gian, nói cách khác, tính chất sử được phản ánh một cách đặc thù trong văn học dân
gian. Cách truyền thuyết và sử tiếp cận lịch sử khác nhau. Cách tiếp cận của sử chính là
sự chính xác, khách quan về sự kiện, con người, còn truyền thuyết, tiếp cận theo đặc
thù nghệ thuật. Khi phản ánh thực tại, truyền thuyết hướng về những vấn đề của lịch sử
nhưng gắn với những sáng tạo nghệ thuật, theo hướng lý tưởng hóa. Propp đã nhận
định về truyền thuyết: “Nhân dân đã tự do phát huy trí tưởng tượng lịch sử và hư cấu
nghệ thuật” [157]. Theo đó, những sự kiện của đời sống thực được đưa vào tác phẩm


16
không phải là mục đích cuối cùng mà là chất liệu thực tế để tạo nên tư tưởng hình ảnh,
chi tiết nghệ thuật, từ đó nhằm nêu lên những vấn đề có ý nghĩa của đời sống văn hóa
tinh thần cộng đồng. Ví dụ, từ những mũi tên đồng tìm thấy ở di tích Cổ Loa đến hình
tượng nỏ thần, có một khoảng cách vừa thực vừa rất mơ hồ của sự khái quát hoá, kỳ ảo
hóa, để hướng đến sự thể hiện giá trị tinh thần lớn lao về sức mạnh, trí tuệ, trình độ sản
xuất, sự vun bồi khí lực trong bài học giữ nước của dân tộc. Đây chính là lối kỳ ảo hóa
lịch sử của truyền thuyết. Ở đây thực tại đã được thiêng hóa để gửi gấm vào đó những
giá trị tư tưởng, thẩm mỹ và qua đó đã nâng tầm vóc của sự kiện, nhân vật lịch sử ở
mức độ cao nhất.
Do đó, trong nghiên cứu truyền thuyết, nếu chỉ đi tìm những chi tiết lịch sử có
thực thì chưa bao quát đầy đủ đặc trưng thể loại. Trần Thị An nhận định: “Hướng
nghiên cứu này đã làm nghèo nàn truyền thuyết dân gian, chỉ đơn giản tìm trong
truyền thuyết dân gian những chi tiết chính xác của lịch sử” [3,66].
Ở một góc nhìn khác, như Hồ Quốc Hùng nhận xét, truyền thuyết là “ký ức cộng
đồng về quá khứ” [83,10]. Truyền thuyết nói về quá khứ, lịch sử được phản ánh trong
truyền thuyết không phải là lịch sử chính xác ở những thời điểm cụ thể mà thông qua
sự cảm nhận, nhận thức về lịch sử (bởi tính cố định, cụ thể trong sự hư cấu lịch sử sẽ
không đồng nghĩa với tính xác thực mà “chủ yếu ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử”

[72,17]. Đó là lịch sử trong chiều sâu, cái tồn lưu trong ký ức như một “mạch ngầm”
của tinh thần, tình cảm, gắn liền với cảm hứng ngợi ca, tôn vinh. Đây là nét đặc thù của
thể loại. Chính cảm hứng ngợi ca, tự hào về lịch sử mà qua những truyền thuyết dân
gian về thời Bắc thuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng…, các nhân vật đã
trở thành những biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc như những
ký ức lịch sử sâu đậm về quá khứ. Đây là dòng chảy lịch sử ở chiều sâu, thể hiện chất
nhân văn của con người hướng về dân tộc, đất nước. Đỗ Bình Trị nhận định về ý nghĩa
sâu sắc của truyền thuyết cổ xưa: “Những truyền thuyết thời cổ như những truyền
thuyết về thời các vua Hùng, thường có nghịch lý: “lịch sử” trong đó thường lung linh,
mờ ảo trong bao lớp sương mù của thời gian và nhiều điều huyễn hoặc của tư duy thần
thoại, nhưng niềm tin vào “sự thật lịch sử” có lẽ còn mãnh liệt hơn so với những
truyền thuyết đời sau” [209,88].
Mặt khác, truyền thuyết phản ánh lịch sử theo những cách thức riêng, có sự
chọn lựa và sáng tạo. Truyền thuyết có sự chọn lựa những yếu tố lịch sử, nhằm thể hiện
trong chiều sâu cái cốt lõi tinh thần những giá trị liên quan các quá trình lịch sử. Cho
nên không phải bất kỳ sự kiện, nhân vật nào cũng có truyện kể nhưng tinh thần, xu thế
của từng thời kỳ lịch sử lại được thể hiện sâu sắc trong truyền thuyết dân gian: “Nhân


17
dân đã thể hiện trong đó thái độ của mình đối với các biến cố, các nhân vật lịch sử và
các tình huống lịch sử, đã thể hiện trong đó ý thức lịch sử của mình” [157].
Tính chất chắt lọc tinh thần các thời đại lịch sử của truyền thuyết đưa đến đặc
điểm có tính đặc thù về thể loại. Hồ Quốc Hùng nhận định:“mỗi truyền thuyết dường
như trở thành biểu tượng cho một giai đoạn, thời đại lịch sử nhất định” [83,22]. Như
một mạch nguồn tự nhiên, từ thời Hùng Vương buổi bình minh của công cuộc dựng và
giữ nước đến thời kỳ chống Pháp đau thương mà hào hùng, lịch sử dân tộc như chưa
bao giờ gián đoạn trong những ký ức của cộng đồng về quá khứ. Những sự kiện và tinh
thần đó không chờ ghi chép từ những bộ sử biên niên mới có mà vốn đã sống trong ký
ức nhân dân như những giá trị tinh thần quý báu không mất đi theo thời gian. Sự chọn

lựa còn thể hiện ở cái cụ thể, là chiều sâu tâm lý, tình cảm, gắn với “chất tâm tình”.
Những sự kiện, nhân vật đi vào truyền thuyết phải là những tâm điểm được đánh giá
cao, tập trung sự chú ý của nhân dân. Nhân vật là những đối tượng gần gũi, trải nhiều
thế hệ luôn được ghi nhớ trong niềm cảm phục, sự tri ân, lại được lưu dấu trên những
chứng tích địa danh, văn hóa như những vết khắc không phai mờ qua năm tháng.
Đặc điểm tiếp theo là tính kết chuỗi của các tác phẩm thành hệ thống truyện
xoay quanh các nhân vật hay sự kiện. Đặc điểm này có nét đặc thù ở truyền thuyết.
Không tác phẩm truyền thuyết nào tồn tại đơn lẻ. Tính kết chuỗi thể hiện trước hết ở
hiện tượng các nhân vật gắn với những hệ thống truyện kể nhất định. Mức độ hệ thống
ấy tồn tại ở một vùng miền, địa phương hoặc ở những phạm vi liên vùng. Trong đó, các
truyện kể được phát sinh và lưu truyền ở nơi có dấu tích hoạt động của nhân vật hoặc
lan xa theo tầm vóc sự kiện, tầm vóc công tích của nhân vật. Tính kết chuỗi ấy, xét về
mặt tư tưởng, như các nhà nghiên cứu nhận định, thường “có chung những tính chất cụ
thể lịch sử nhất định, tạo thành nếp cảm nghĩ truyền thống nhất định” [40,228] trong
kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Những khảo sát thực tiễn cho thấy có khoảng 200 truyền thuyết (với các dị bản)
xoay quanh các vua Hùng, được sản sinh và lưu truyền ở khắp các tỉnh trung du và
đồng bằng Bắc Bộ [231,14]; hệ thống truyền thuyết Hai Bà Trưng và các nữ tướng với
số lượng không nhỏ phổ biến rộng rãi ở các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Hà Nội
[198,129]; truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi “trải
ra mênh mông suốt từ Hà Tĩnh đến Lạng Sơn” [129,360]; và gần đây, theo số liệu tập
hợp được, có đến hơn 80 truyền thuyết về những anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ...
Một đặc điểm khác là mối quan hệ gắn bó của truyền thuyết với các di tích văn
hóa, nghi lễ, tập tục. Các di tích, nghi lễ, phong tục liên quan là hình thức văn hóa vật
thể, môi trường “diễn xướng” và lưu giũ đặc biệt của truyền thuyết. Bùi Mạnh Nhị


18
nhận xét: “Truyền thuyết thường gắn với các di tích lịch sử, văn hóa (đền thờ, miếu
mạo, lễ hội), danh lam thắng cảnh và phong tục thờ cúng ở địa phương” [140].

Khắp nơi trên đất nước, các địa danh, di tích lịch sử, văn hóa đi cùng nghi thức,
tập tục thờ cúng đều gắn với truyền thuyết (có khi đã được thần tích hóa). Cơ sở lịch sử
của câu chuyện đã đi vào đời sống tinh thần, tâm linh của nhân dân. Với cảm hứng tôn
vinh lịch sử, những nơi tương truyền người anh hùng đặt chân đến hay lập nên công
tích cần phải được lưu giữ, nhắc nhở muôn đời, nhân dân đã gửi vào truyền thuyết tâm
niệm, ước vọng đó. Ký ức, tình cảm của nhân dân về quá khứ dân tộc có nhu cầu gắn
kết với chứng tích văn hóa (hình thức di tích, lễ hội, tập tục thờ cúng…), lấy đó làm
chỗ dựa bền chắc cho niềm tin và sự tôn vinh. Chính điều này đã tạo cho truyền thuyết
ý nghĩa sâu sắc, bởi “hương khói” của sự thờ phụng chứa đựng giá trị thiêng, nó là
“tiếng núi sông”, “hồn linh”, “tiếng rì rầm trong đất”, là niềm tin, niềm tự hào về
truyền thống, sự trường tồn của dân tộc, bờ cõi đất nước.
Những chứng tích địa danh, lịch sử, văn hóa trong truyền thuyết thường mang ý
nghĩa là những biểu tượng thiêng, như núi Nghĩa Lĩnh, núi Sóc Sơn, sông Tô Lịch...
(Truyền thuyết về Vua Hùng, Tản Viên đón vợ, Thánh Gióng, Sông Tô Lịch...); hoặc là
những dấu tích thực tế dùng cho việc tưởng niệm như đền, miếu, lễ hội… gắn với nhu
cầu về tâm linh. Những chứng tích được gắn kết vào câu chuyện nhằm khẳng định
thêm niềm tin vào điều được kể. Đặc biệt, yếu tố địa danh của nhiều truyền thuyết thể
hiện rất sâu xa ký ức về lịch sử, có thể đối chiếu với các nguồn tư liệu khác nhau để
tìm ra ý nghĩa bề sâu đó. Truyền thuyết ở những vùng đất có bề dầy lịch sử thể hiện rõ
nét hơn đặc điểm này khi đặt trong mối liên hệ đối chiếu với giai thoại (bởi truyền
thuyết ở những vùng đất mới chưa có sự bồi lắng nhiều lớp lịch sử, văn hóa, yếu tố nội
dung liên quan với thực tại được thể hiện trực tiếp của nó dễ có khả năng đi gần với
hình thức giai thoại).
1.1.1.2. Phân loại truyền thuyết
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách phân loại truyền thuyết. Kiều Thu
Hoạch phân chia truyền thuyết thành truyền thuyết nhân vật (bao gồm các tiểu loại:
truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết phản diện, truyền thuyết tôn giáo), truyền thuyết
địa danh, truyền thuyết phong vật. Lê Chí Quế chia thành truyền thuyết lịch sử, truyền
thuyết anh hùng, truyền thuyết về các danh nhân văn hóa. Đỗ Bình Trị phân thành
truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết lịch sử... Tuy có những

khác biệt về quan điểm phân loại nhưng nhìn chung truyền thuyết lịch sử đều được
xem là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại, là “truyền thuyết lịch sử đích thực”; hay nói
như Kiều Thu Hoạch về truyền thuyết nhân vật (có nội hàm tương ứng): “Nói tóm lại,


19
dù phân loại theo cách nào, dù có những quan điểm phân loại khác nhau giữa mặt này
mặt khác, nhưng chung quy thì loại truyền thuyết nhân vật mà trong đó có loại truyền
thuyết anh hùng chống ngoại xâm vẫn là biến thể nổi bật nhất và cũng chiếm số lượng
nhiều nhất trong kho tàng truyền thuyết người Việt” [72,146]...
Tựu trung, theo tiêu chí đề tài, nội dung, có thể chia truyền thuyết dân gian Việt
Nam thành các tiểu loại (biến thể) sau:
Truyền thuyết địa danh: những truyện kể dân gian nhằm giải thích nguồn gốc
những tên gọi địa danh ở các địa phương gắn với các sự kiện, nhân vật lịch sử (bao
gồm tên gọi những địa điểm, địa vật, cảnh quan địa lý… ít nhiều có quan hệ đến hiện
thực lịch sử - cụ thể). Ví dụ: Sự tích Hồ Gươm, Sự tích thành Lồi, Sự tích Chùa Phật
Bốn Tay…
Truyền thuyết phong - vật: những truyện kể dân gian giải thích về nguồn gốc
phong tục, sản vật trong quá trình lịch sử của nó hoặc có gắn với các nhân vật, sự kiện
lịch sử, bao gồm sự hình thành tín ngưỡng, phong tục. Ví dụ: Sự tích tục đánh cá thờ,
Sự tích đua ghe ngo, Tục vẽ mắt ghe ở Kiên Giang…
Truyền thuyết lịch sử: những truyện kể dân gian mang đậm yếu tố lịch sử, kể về
nhân vật, sự kiện lịch sử, chủ yếu là nhân vật lịch sử gắn với tiến trình lịch sử địa
phương, dân tộc, bao gồm những truyền thuyết về danh nhân lịch sử, văn hóa, tổ tiên
nòi giống, truyền thuyết về những người có công đánh giặc, khẩn hoang, tạo lập làng
xã, nghề nghiệp… Ví dụ: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Hoàng Hoa Thám,
Ông Không Lộ đúc chuông…
Việc phân loại trên đây cũng chỉ tương đối, bởi giữa các tiểu loại có sự đan xen
vào nhau và sụ đan xen này có xu hướng đậm nét hơn trong hệ thống truyền thuyết ở
những vùng đất mới, do hệ thống này vẫn đang còn trong quá trình vận động, biến đổi

mạnh hơn so với truyền thuyết ở các vùng đất cổ. Mặt khác, theo nghĩa rộng, truyền
thuyết địa danh và truyền thuyết phong vật cũng chính là các dạng khác của truyền
thuyết lịch sử mà thôi. Luận án nêu vấn đề phân loại nói trên để tiện sử dụng quy ước
khi chỉ tên các tác phẩm hay nhóm tác phẩm cụ thể trong quá trình khảo sát, phân tích.
1.1.2. Thể loại giai thoại
1.1.2.1. Việc nghiên cứu về giai thoại
Theo tư liệu, ngay ở Trung Quốc, thuật ngữ giai thoại xuất hiện sớm từ thời
Đường - Tống, về sau có nhiều loại sách ghi chép giai thoại nhưng lý thuyết về thể loại
không thấy đặt ra. Ở Phương Tây, đến những năm 60 của thế kỷ XX mới có một số
công trình về lý thuyết giai thoại, như ở Nga với công trình của những tên tuổi như
F.Xumtxốc, M.Xiđelnicốp, V.Guxép hay ở Pháp như P.Roland Barthes…


20
Nhà phê bình hiện đại P.Roland Barthes viết: “Truyện kể hiện diện trong huyền
thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện hoang tưởng, truyện ngắn, anh hùng ca, bi kịch,
chính kịch, hài kịch, kịch câm, tranh vẽ, kính ghép màu, điện ảnh, truyện tranh, việc
văt, trò chuyện, giai thoại…” (Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể, Tạp chí
Communications (Giao Lưu, Paris, 8-1968) [14,3]. Nhận định này cho thấy quan niệm
về sự tồn tại của thể loại giai thoại: các truyện kể (récit) bao gồm giai thoại (anecdote),
trong đó, giai thoại là một dưới - thể loại (“sous-genre”) của thể loại (“genre”) truyện
kể.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “giai thoại” được chính thức sử dụng với hình thức ghi
thành tiểu mục hoặc thành lời chú loại dưới các đề tài trên các báo quốc ngữ nổi tiếng
giai đoạn 1865 - 1965 như Khuyến học, Nước Nam, Tiếng dân, Tri Tân… Truyện đời
xưa (1866), Chuyện khôi hài (1882) của Trương Vĩnh Ký đã ghi một số mẩu chuyện kể
có tính chất giai thoại (như Răng cắn lưỡi, Học trò sửa liễn của ông Hoàng, Câu đối có
chí khí, Người can đảm...). Những mẩu chuyện kể có tính chất giai thoại cũng đã xuất
hiện ở một số sách báo khoảng thời gian từ năm 1930 - 1945 và rải rác trong sách Hán
Nôm từ thời Lê đến thời Nguyễn (tiêu biểu như bộ Văn đàn bảo giám, Trần Trung

Viên sưu tập, xuất bản năm 1926 - 1938, ghi chép những mẩu chuyện lý thú trong đối
đáp văn chương). Đến năm 1965 mới xuất hiện quyển sưu tập đầu tiên mang tên giai
thoại: Giai thoại văn học Việt Nam, soạn giả Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch ở
miền Bắc (bản thảo được thông báo hoàn thành năm 1963, Trần Thanh Mại viết Giới
thiệu) và Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân ở miền Nam (thực tế được xuất bản lần
đầu vào năm 1963, lời tựa sách của Đoàn Thêm với chủ ý: “phần chính cuốn sách này,
phải chăng là sự tích kể lại, hay đúng hơn là những tài liệu thi văn mà Lãng Nhân đã
cố gắng thâu lượm?” [132,3], mở đầu cho những tập sách kể chuyện giai thoại về sau.
Ngoài những văn bản sưu tập, việc nghiên cứu về thể loại đến nay còn khá ít ỏi.
Giới nghiên cứu đến nay vẫn chưa có sự thống nhất ý kiến về thể loại “giai
thoại”. Trong các sách chuyên ngành văn học dân gian trước nay, hệ thống thể loại văn
học dân gian truyền thống không có giai thoại nhưng thực tế giai thoại tồn tại từ lâu với
quy mô tác phẩm không nhỏ và có bộ phận nằm lẫn vào những thể loại khác. Những
thập niên gần đây, trong phân loại truyện kể dân gian, một số nhà nghiên cứu hoặc biên
soạn đã chính thức đưa vào thể loại giai thoại, đồng thời cũng đã có một số công trình
nghiên cứu về giai thoại như là một thể loại văn học dân gian độc lập. Trong sách Tìm
hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974) [40,53], Cao Huy Đỉnh đã nói đến
giai thoại song mới chỉ là những nhận xét ngắn. Qua tổng quan tư liệu nghiên cứu về
giai thoại, Nguyễn Bích Hà đưa ra ý kiến: “giai thoại với số lượng văn bản phong phú,


21
với vẻ đẹp về cả ngôn ngữ nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm rất xứng đáng được dành
một khoảng không gian nhất định trong hệ thống các thể loại VHDG” [50]. Điều này là
cần thiết, vì nói như V.Guxép, nhà nghiên cứu folklore Nga: giai thoại “có một số đặc
điểm cho phép xem nó như một thể loại độc lập”, và vì “Nhìn từ quá trình phát triển
của việc sưu tầm, biên soạn giai thoại, thì dường như tự nó đã hình thành một thể loại
độc lập” [45].
1.1.2.2. Về thuật ngữ giai thoại
Các nhà nghiên cứu thống nhất thuật ngữ giai thoại tương đương với thuật ngữ

anecdote của phương Tây (mẩu chuyện ngắn, vui, lạ) là điều có tính chất vui, hay, thú
vị. Kiều Thu Hoạch giới thuyết: “Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán, giai có
nghĩa là hay, thoại là câu chuyện kể. Như vậy, giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà
lâu nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này là tương đương với thuật ngữ anecdote
của phương Tây” [72,422].
Vũ Ngọc Khánh nói rõ, giai thoại (anecdote) có tính cách hài hước, dí dỏm, gây
được những nụ cười “ý nhị, ít nhiều mang ý nghĩa triết học”; “thoại” được quan niệm
là chuyện, nên có ngắn, có dài, do đó có tình tiết hoặc sự kiện [95,164].
Khái niệm giai thoại cũng được dẫn từ định nghĩa của Guxép: “Chúng tôi gọi
giai thoại là tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước (satirique ou humoristique), được
xây dựng trên một tình tiết có một sức tăng tiến, tới điểm cao (culmination), biểu hiện
rõ rệt và hết sức bất ngờ. Những giai thoại có thể kết chuỗi xung quanh một nhân vật
quen thuộc với đại chúng (populaire), có thể là nhân vật lịch sử hoặc tưởng
tượng…”[45,233]. Quan niệm này có nhiều điểm gần với khái niệm truyện cười hoặc
truyện trạng. Theo Ninh Viết Giao, đây là lý do tác giả Kho tàng giai thoại Việt Nam
đã đưa vào tập sách những truyện “thường được các nhà nghiên cứu văn học dân gian
xếp vào loại “truyện cười kết chuỗi”.
Coi giai thoại là anecdote (theo cách hiểu của phương Tây) là chưa đủ, giữa
chúng vẫn có sự khác nhau, chính thực tiễn sáng tác đã đưa đến những nội hàm rộng
hơn cho khái niệm giai thoại như một thể loại.
1.1.2.3. Giai thoại là một thể loại văn học dân gian
Theo Lại Nguyên Ân, giai thoại là một thể loại độc lập, về bản chất thuộc văn
học viết: “Giai thoại thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành
văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các chuyện
kể dân gian” [69,519]. Nhận định này phù hợp với giai thoại văn học, có thể bao gồm
nhóm giai thoại đi sứ, bởi phần lớn các giai thoại cũng gắn với thơ văn, song chưa bao


22
quát đầy đủ các tiểu loại giai thoại khác. Thực tế, không ít giai thoại được sáng tác và

lưu truyền không “gắn với sinh hoạt văn học thành văn”.
Một số nhà nghiên cứu đã xác định giai thoại với tính chất là một thể loại văn
học dân gian. Trong công trình của Cao Huy Đỉnh, giai thoại đã được nhắc đến như
một thể loại thuộc lĩnh vực văn học dân gian: “Chung quanh Tô Hiến Thành, Chu Văn
An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu… và sau này có Nguyễn Trãi nữa, nhân dân có
những lời ngợi khen, mến phục hoặc tin tưởng tự hào. Tiểu sử của những ông quan
như thế thường lẫn lộn với tình tiết hư cấu trùng lặp về “các nhân tài nước Nam” và
trở thành giai thoại” [40,53].
Kiều Thu Hoạch xác định rõ “giai thoại là sáng tác folkore, là văn học dân
gian”, chứng minh giai thoại là văn học dân gian dựa trên tính tập thể, tính vô danh,
vốn là các đặc trưng của thể loại văn học dân gian. Về quan niệm giai thoại văn học
chủ yếu là do “những người có chữ sáng tạo nên” thì đây là những sáng tạo của “các
nho sĩ trong những cuộc đàm tiếu nhân lúc “trà dư tửu hậu”, của những ông đồ quê
luôn tắm mình trong cội nguồn văn hóa trào tiếu dân dã”, cũng là những người đã từng
sáng tác văn học dân gian. Xét về mặt lịch sử sưu tầm, biên soạn, ở giai đoạn trước,
hầu hết giai thoại đều là những mẩu chuyện hay được ghi lại vào lúc rảnh việc công
(như “công hạ ký văn”, “công dư tiệp ký”) hoặc sau lúc ăn uống (“thoái thực ký văn”),
tức giai thoại đều “nghe được và ghi chép lại từ miệng người khác”, là “dấu hiệu của
folklore, của văn học dân gian” [72,427].
Vũ Ngọc Khánh khẳng định tính chất dân gian ở giai thoại: câu thơ, câu đối
được vận dụng theo phong cách dân gian, nhân vật lịch sử và tác gia thành nhân vật
dân gian, tác phẩm có đời sống dân gian như thể loại văn học dân gian khác [95,170].
Ninh Viết Giao qua phần tổng thuật tư liệu về giai thoại trong “Giai thoại xứ
Nghệ” cũng xác nhận sự tồn tại của giai thoại như là thể loại văn học dân gian. Tác giả
định nghĩa: “Giai thoại là những mẩu chuyện đẹp, hay, ngắn, gọn, vui, thú vị, có khả
năng gây cho người nghe, người đọc một cảm giác thoải mái, sảng khoái, nhẹ nhàng,
trong đó ẩn giấu một suy nghĩ, một tính cách, một thái độ… của nhân vật nào đó”
[48,307].
Lê Văn Chưởng cũng nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của giai thoại trong mối
tương quan với một số thể loại văn học dân gian: “Kho tàng truyện dân gian Việt Nam

có một mảng truyện kể khá gần gũi với truyện cười và cũng tương quan với truyền
thuyết, được tồn tại độc lập và có một đời sống riêng được gọi là giai thoại” [25,71].


23
Tuy nhiên, nhận xét giữa giai thoại và truyện cười “có cái gì giống nhau, có cái
gì liên quan mật thiết với nhau” (Trần Thanh Mại) [147,3] mới là một dự cảm, cần nói
rõ “có cái gì”, phân biệt giữa hai thể loại.
Những đặc trưng của giai thoại và phân loại
Theo từ điển Larousse, “Giai thoại là một truyện rất ngắn gọn về một sự việc
hấp dẫn, lý thú của một nhân vật nào đó, truyện mà người ta còn ít biết đến” [70,14].
Định nghĩa trên thể hiện những nét đặc trưng có tính bao quát về giai thoại.
Chính đặc điểm “rất ngắn gọn” đã đưa đến quan niệm xem giai thoại là một dưới - thể
loại (“sous-genre”) của thể loại truyện kể (“récit”). Những khía cạnh riêng tư, đặc biệt,
chưa phổ biến về nhân vật là những nét đặc thù tạo nên sức sống của giai thoại. Người
nghe chờ đợi một thông tin mới về nhân vật, thường được tạo ra trong những tình
huống đặc biệt, bất ngờ, đưa đến những ấn tượng sâu sắc.
Về tính chất ngắn gọn của giai thoại, như Ninh Viết Giao đã đề cập, có “một số
giai thoại chưa dựng thành chuyện, sự việc rất đơn giản” [48,291], nhưng xưa nay vẫn
được kể và lưu truyền.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “giai thoại”: “Một thể loại truyện kể ngắn
gọn về một tình tiết có thực hoặc được thêu dệt của những nhân vật được nhiều người
biết đến” (ví dụ: giai thoại về các nhà chính trị, các tướng, các nhà văn, nhà khoa học,
các nhân vật có biệt tài như Mạc Đĩnh Chi, Trạng Quỳnh...) [52,132]. Chúng tôi cũng
thống nhất với quan niệm này về giai thoại, tuy nhiên, “nhân vật được nhiều người biết
đến” được định vị là những con người thật, không phải là nhân vật hư cấu.
Với tư cách là một thể loại văn học dân gian, giai thoại, trước hết, là những câu
chuyện hay, đẹp, lý thú. Nói theo Kiều Thu Hoạch, một tác phẩm sở dĩ được gọi là giai
thoại chính là do tính lý thú (“intéressant, plaisant”) tạo nên, nó phân biệt với truyện
cười với tính gây cười (“risible”). Đồng thời, thông thường đã gọi là giai thoại phải có

đối thoại, đối đáp (“dialogue”) giữa hai nhân vật, có những tình tiết dẫn tới kịch tính từ
lời kể chuyện, tức lời thoại. Điều này thể hiện trước hết ở giai thoại văn học, bởi mục
đích, chức năng của giai thoại văn học là đưa đến cảm giác sảng khoái, thú vị, một sự
giải trí trí tuệ, dí dỏm bằng thơ văn. Ở đây tính lý thú mang ý nghĩa toàn diện, thể hiện
ở bản thân thơ văn và còn ở chính tình huống của giai thoại.
Nhân vật giai thoại là những nhân vật có thật. Đó là các nhân vật lịch sử, danh
nhân văn hóa, các nhà nho, tổ sư của các nghề nghiệp… và là những người nổi tiếng.
Theo Ninh Viết Giao, “Nhân vật càng nổi tiếng thì các giai thoại nói về họ càng hấp
dẫn, lôi cuốn dễ đạt được tính chất mỹ cảm của nó” [48,290]. Đây là những mẩu
chuyện về “người thật, việc thật” với những khía cạnh riêng tư, cụ thể về nhân vật.


×