Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Đánh giá về chế độ thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và các con trong bộ Quốc triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.37 KB, 7 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu
to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc
triều Hình luật, một Bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của Triều Lê . Góp
phần vào những thành tựu trong lập pháp của Quốc triều hình luật chính là những quy
định có nhiều tiến bộ và khá sắc bén trong vấn đề thừa kế. Những quy định rất cụ thể
về vấn đề này đảm bảo việc hưởng thừa kế bình đẳng phù hợp với pháp luật.Trong xã
hội phong kiến việc hưởng di sản thừa kế không chỉ là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài
sản mà còn là việc kế thừa và giữ vững được địa vị xã hội của người thừa kế và gia
đình họ. Với giai cấp địa chủ để lại cho con cháu thừa kế những tài sản và địa vị của
mình để tiếp tục bóc lột sức lao động của giai cấp nông dân. Ngược lại, người nông
dân có ít ruộng đất và tài sản nhưng đây lại là nguồn sống của gia đình họ. Nên sau
khi chết, người nông dân dù ít hay nhiều cũng để lại thừa kế của mình cho con cháu
sinh sống. Qua nghiên cứu em nhận thấy, chế độ thừa kế tài sản mà cụ thể là thừa kế
tài sản giữa cha mẹ và các con trong Quốc triều hình luật có rất nhiều điểm tiến bộ
song cũng vẫn còn có những hạn chế. Vì thế em xin chọn đề tài “Đánh giá về chế độ
thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và các con trong bộ Quốc triều hình luật”
cho bài tập cuối kỳ của mình.
NỘI DUNG
I/ Các điều luật quy định về thừa kế trong Quốc triều hình luật.
Thừa kế được hiểu là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người còn
sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức)
quan hệ thừa kế được quy định ở các phần cuối của chương điền sản, phần điền sản
mới tăng thêm và phần luật hương hỏa. Trong đó quy định về thừa kế thông thường
được quy định cụ thể tại các điều:
1


Điều 374: “Chồng cùng vợ trước có con, vợ sau không có con, hay vợ cùng


chồng trước có con chồng sau không có con mà chồng chết trước không có chúc thư
thì điền sản thuộc về con vợ trước hoặc con chồng trước; nếu vợ sau, chồng sau
không chia đúng phép thì xử phạt 50 roi, biếm một tư. Cha mẹ còn lại xử khác, đúng
phép nghĩa là vợ trước có một con, vợ sau không con thì điền sản chia làm ba, cho
con vợ trước hai phần, vợ sau một phần; nếu vợ trước có hai con trở lên thì phần của
vợ sau chỉ bằng phần của con thôi. Phần của vợ sau thì chỉ để nuôi dưỡng một đời
mình không được nhận làm của riêng; nếu vợ sau chết hoặc cải giá lấy chồng khác
thì phần ấy lại về con chồng. Vợ chết trước thì người chồng cũng theo lệ ấy nhưng
không câu nệ khi lấy vợ khác. Nếu điền sản là của chồng và vợ trước làm ra thì chia
làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi người phần , phần của vợ trước thì để riêng cho
con, còn phần của chồng thì lại chia như trước. Nếu điền sản là của chồng và vợ sau
làm ra thì cũng chia làm hai phần, chồng và vợ sau mỗi người một phần, phần của
chồng thì lại chia như trước; còn phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng, vợ
chết trước thì chồng cũng chia như thế”.
Điều 380: “Con nuôi vẫn có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ
chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư thì điền sản đem chia cho
con đẻ và con nuôi. Nếu người trưởng họ chia điền sản ấy không đúng thì phạt 50 roi,
biếm một tư. Nếu trong giấy nuôi con nuôi không ghi là sẽ cho điền sản thì không
dùng luật này. (Đúng phép, nghĩa là điền sản chia làm 3 con đẻ được hai phần, con
nuôi được một phần, nếu không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ từ thủa bé
thì được cả; thủa bé không ở cùng thì người con nuôi được hai phần người thừa tự
được một phần).
Điều 388: “Cha mẹ mất cả, có ruộng đất chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em
chị em tự phân chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruống đất làm phần hương hỏa,
giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu
thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư thì phải theo đúng, trái thì mất
phần mình”.
Điều 390: “Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư. Người
trưởng họ phải liệu chia nhiều ít cho phải, rồi làm giấy giao lại về phần hương hỏa
thì theo lệ cũ lấy một phần hai mươi [trong số điền sản]. Như người cha làm trưởng

họ lấy mấy nơi làm phần hương hỏa, đến khi con làm trưởng họ, thì lại đem những
ruộng đất hương hỏa của cha nhập cả vào phần các con, chia ra xem mỗi phần được
bao nhiêu mới lấy một phần hai mươi làm hương hỏa. Cháu làm trưởng họ thì cũng
thế. Nhưng khi có nhiều người mà ruộng ít, thì phần hương hỏa và phần các con
2


cháu, cho được tùy tiện mà chia; miễn là thuận tình cả không có sự tranh giành nhau,
thì cho tùy nghi”.
II/ Khái quát về chế độ thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và con cái
trong bộ Quốc triều hình luật:
Quốc triều hình luật có những quy định rất rõ ràng về chế định thừa kế (khác
Pháp luật Trung Hoa). Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê
khá gần gũi với các quan điểm hiện đại về thừa kế. Quốc triều hình luật quy định hai
hình thức thừa kế như sau:
1. Thừa kế theo di chúc:
Pháp luật tôn trọng việc người cha, mẹ lập chúc thư để để lại tài sản của mình
cho các con. Pháp luật khuyến khích việc định đoạt tài sản bằng chúc thư để tránh
việc tranh chấp giữa các con với tài sản của cha mẹ quá cố.
Về hình thức di chúc: có di chúc miệng và di chúc viết (chúc thư). Theo tinh thần
và nội dung của Điều 366, người làm chúc thư (cha, mẹ) phải tự viết lấy (nếu không
biết chữ thì nhờ quan viên nào đó trong làng xã viết hộ) và phải có sự chứng kiến
cũng của quan viên trong làng xã thì chúc thư mới hợp pháp. Nguyên tắc tự do lập di
chúc của người tôn trưởng được tôn trọng. Những người con nào được hưởng quyền
thừa kế bao nhiêu là tùy thuộc vào người lập di chúc quy định. Ngoài hình thức viết,
pháp luật còn cho phép lập di chúc miệng, đó là “lệnh” của cha mẹ. Điều 388 quy
định: “Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải làm theo đúng, trái thì mất
phần mình”.
Điều kiện để được hưởng thừa kế theo di chúc: con của người lập di chúc đều
được hưởng thừa kế trừ ba trường hợp sau: bị cha mẹ từ bỏ, bị cha mẹ truất quyền

thừa kế trong di chúc, bị tước quyền thừa kế trong di chúc theo luật. Pháp luật tôn
trọng và đề cao ý chí nguyện vọng của cha mẹ khi còn sống để đảm bảo tôn ti trật tự
trong gia đình, con cháu phải tuyệt đối nghe lời ông bà cha mẹ và phụng dưỡng bề
trên, nếu trái lời cha mẹ, có hành vi vi phạm mệnh lệnh và chúc thư của cha mẹ thì sẽ
bị truất quyền thừa kế.
2. Thừa kế theo pháp luật:
Bộ luật quy định khi cha mẹ chết mà không có chúc thư hoặc chúc thư vô hiệu
thì di sản được chia theo pháp luật. Các điều 374, 375, 376, 380, 388 và một số điều
khoản khác cho biết có hai hàng thừa kế: hàng thừa kế thứ nhất là các con; hàng thừa
kế thứ hai là cha mẹ hoặc người thừa tự.
Quan hệ ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ phát sinh khi cha mẹ đều chết. Các con
trong hàng này bao gồm: con vợ cả, con vợ lẽ, con nàng hầu (không phân biệt con
trai, con gái, con trưởng, con thứ) (Điều 388), con nuôi cũng được thừa kế khi trong
3


văn tự nhận nuôi con có ghi rõ cho thừa kế điền sản (Điều 380) và không thất hiếu với
cha mẹ nuôi. Theo tinh thần điều 374, 388 thì phần của con vợ cả đều bằng nhau,
phần của con vợ lẽ, con nàng hầu thì phải kém hơn so với con vợ cả. Con nuôi được
thừa kế bằng nửa phần của con đẻ, nếu không có con đẻ mà con nuôi ở cũng cha mẹ
nuôi từ bé thì được hưởng cả, không ở cùng từ bé thì được hưởng gấp hai lần người
thừa tự của cha mẹ nuôi (Điều 380). Người đã làm con nuôi họ khác và đã được
hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi vẫn được hưởng bằng một nửa người ăn thừa tự của
người tuyệt tự trong họ cha mẹ đẻ (Điều 381).
III/ Đánh giá về chế độ thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và các con
trong bộ Quốc triều hình luật:
1. Những mặt tích cực của chế độ thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và
các con.
1.1.Ở mức độ nhất định, nhà làm luật triều Lê đã bênh vực quyền lợi của người phụ
nữ

Trong xã hội thời Lê, đạo đức xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề bởi lễ nghĩa Nho
giáo. Tuy nhiên, pháp luật triều Lê lại thể hiện tư tưởng tiến bộ của xã hội phong kiến
Việt Nam, đó là sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Người vợ người mẹ được có tài sản riêng, có quyền định đoạt đối với tài sản ấy, người mẹ có
toàn quyền quyết định ai được thừa kế tài sản. Đặc biệt hơn, người con gái trong gia
đình cũng có quyền thừa kế như con trai và được hưởng kỷ phần bằng với con trai.
Điều này cho ta thấy sự bình đẳng giới trong Quốc triều hình luật (một trong những
tiêu chuẩn về nhân quyền quốc tế ngày nay). Bộ luật đã có những quy định tương đối
tiến bộ, công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến một số quyền lợi và
phần nào bảo vệ họ trước thái độ "trọng nam khinh nữ" trong xã hội. Như vậy, việc để
người con gái được thừa kế là một điểm hết sức đặc sắc và tiến bộ không thể thấy ở
các bộ luật phong kiến khác. Mặc dù Bộ luật ra đời vào khoảng thế kỷ XV nhưng nó
đã thể hiện những quan điểm và tư tưởng vượt trội hơn hẳn so với thời đại của mình,
điều này cho thấy kỹ thuật lập pháp của pháp luật thời kỳ nhà Lê đã tương đối cao.
Thậm chí thể hiện sự phát triển của pháp luật đi trước sự phát triển của xã hội.
1.2. Chế định thừa kế trong Quốc triều hình luật có những quy định không chỉ mang
tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý:
Cổ luật quy định những người không nghe lệnh ông bà, cha mẹ thì mất quyền
thừa kế. Đây là quy định không chỉ mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo lý, giáo
dục con cháu phải biết vâng lời ông bà, cha mẹ, không được vì tranh giành của cải mà
dẫn đến tình cảm anh chị em sứt mẻ, mất đoàn kết trong gia đình. Xuất phát từ tinh
thần đoàn kết đó, pháp luật sẽ điều chỉnh việc nhường quyền thừa kế giữa những
4


người thừa kế với nhau. Việc nhường quyền thừa kế thể hiện tinh thần nhường cơm sẻ
áo cho nhau, “Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”. Đây là
truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những người có quan hệ gia đình.
Điều này cũng thể hiện được một trong những đặc điểm nổi bật chung của pháp luật
phong kiến Việt Nam, đó là sự hòa đồng giữa pháp luật và đạo đức.
1.3. Quy định của pháp luật mềm dẻo, linh hoạt.

Bộ Quốc triều hình luật có quy định phần của con vợ lẽ và con nàng hầu phải
kém phần con vợ cả nhưng không quy định rõ kém bao nhiêu mà để cho phong tục tập
quán ở từng địa phương điều chỉnh để việc thi hành được thuận tiện.
Điều 390 có quy định: “Nhưng khi có nhiều người mà ruộng ít, thì phần hương
hỏa và phần các con cháu, cho được tùy tiện mà chia; miễn là thuận tình cả không có
sự tranh giành nhau, thì cho tùy nghi”. Như vậy, pháp luật không hề quá cứng nhắc
trong việc chia tài sản thừa kế, vẫn tạo điều kiện cho con cái trong những gia đình còn
khó khăn được đảm bảo số tài sản để tiếp tục cuộc sống bình thường của họ. Đây rõ
ràng thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo của pháp luật và là một quy phạm tùy nghi để
áp dụng phù hợp với từng điều kiện cụ thể trong thực tế. Chính yếu tố này đảm bảo
cho việc thực thi pháp luật được hiệu quả và thiết thực hơn.
2. Những mặt hạn chế của chế độ thừa kế thông thường giữa cha mẹ và các con
2.1. Bộ luật không quy định cụ thể về di chúc miệng:
Pháp luật quy định mệnh lệnh của cha mẹ là chúc ngôn trước khi chết. Tuy
nhiên, pháp luật lại không quy định mệnh lệnh này được phát ra trong tình trạng sức
khỏe và hoàn cảnh như thế nào. Như vậy, trong thực tế sẽ dễ xảy ra trường hợp con
cháu lợi dụng lúc cha mẹ không minh mẫn mà lừa dối nhằm chiếm lợi cho mình, gây
nên tình trạng không công bằng trong việc phân chia tài sản cho các con. Trong khi
đó, nhà làm luật mới chỉ đưa ra thế nào là chúc thư viết vô hiệu chứ không quy định di
chúc miệng vô hiệu trong trường hợp như thế nào. Những lỗ hổng trong quy định của
luật này sẽ rất dễ gây ra tranh chấp tài sản thừa kế trong gia đình, nhất là ở những gia
đình giàu có.
2. 2. Việc chia tài sản không giữa các con trong gia đình của bộ luật chưa thật sự
công bằng:
Người con trai được chia kỷ phần là bao nhiêu phải phụ thuộc vào địa vị của
người mẹ. Dù cùng là trong gia đình, nhưng nếu là con vợ cả thì người con sẽ được
phần nhiều hơn con của vợ lẽ và con của nàng hầu. Như vậy, vô hình đã tạo sự phân
biệt ngay trong một gia đình. Làm cho con của người vợ lẽ và con nàng hầu phải chịu
thiệt thòi. Điều này cũng đã phần nào thể hiện sự phân biệt tầng lớp, giai cấp và địa vị
5



không chỉ trong xã hội mà ngay trong một gia đình. Những tư tưởng và quan niệm
phân biệt đó đã có ảnh hưởng nhất định đến những quy định của pháp luật.
Có thể thấy mặc dù ra đời cách đây đã mấy thế kỷ nhưng bộ Quốc triều Hình
luật vần còn mãi như một di sản quý báu của cha ông trong kinh nghiệm, kỹ thuật lập
pháp. Có nhiều điểm cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị trong vấn đề thừa kế
như phân biệt thừa kế theo luật và thừa kế theo di chúc, thừa nhận sự tồn tại của di
chúc miệng, phân biệt thừa kế giữa những người trong diện thừa kế với nhau.
KẾT LUẬN
Trên đây, em đã trình bày những đánh giá của mình về những quy định liên quan
đến thừa kế tài sản thông thường giữa cha mẹ và con cái trong Bộ Quốc triều hình
luật. Dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng vào thời điểm ra đời của Bộ luật vẫn còn
nhiều tư tưởng lạc hậu của thời kỳ phong kiến nhưng những quy định trong Bộ luật là
hết sức tiến bộ, là một thành tựu lớn trong nền lập pháp Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam, NXB. CAND, Hà Nội, 2007.
2. Lê Thị Sơn (chủ biên), Quốc triều hình luật – Lịch sử hình thành, nội dung
và giá trị, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2004.
3. Bộ Quốc triều hình luật, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2005.
4. “Quốc triều hình luật – đỉnh cao của thành tựu luật pháp Việt Nam thời
phong kiến” – Lê Thị Khánh Ly, tạp chí Nghiên cứu văn hóa, ĐH Văn hóa.
5.
6.

6



7



×