Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐỀ TÀI THUYẾT MINH NINH KIỀU – CHỢ NỔI CÁI RĂNG – VƯỜN MỸ KHÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.12 KB, 36 trang )

BÙI VĂN CHIỀU

ĐỀ TÀI THUYẾT MINH
NINH KIỀU – CHỢ NỔI CÁI RĂNG – VƯỜN MỸ KHÁNH
1. Khái quát về Cần Thơ
1.1.Lịch sử
Vùng đất Cần Thơ về mặt địa chất được hình thành cách nay khoảng 2000 – 2500
năm cùng với sự hình thành của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Sau giai đoạn phát
triển rực rỡ của vương quốc Phù Nam và văn hóa Óc Eo kéo dài 6 thế kỷ đầu Công
nguyên, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và những biến động địa lý khắc nghiệt thời đó,
vùng đồng bằng này trở nên hoang vu, dân cư thưa thớt trong một thời gian dài.
Đến thế kỷ XVI, XVII, khi các tập đoàn lưu dân kéo đến khai khẩn, vùng đất
phương Nam mới thực sự bước sang một tiến trình lịch sử mới với một mô thức văn hóa
khác. Trong tiến trình đó, Cần Thơ xưa là “lõm” đất chẳng những được khai phá có phần
muộn màng so với miệt trên Đồng Nai - Sài Gòn mà cả với miệt dưới (Hà Tiên).
Cuối thế kỷ XVIII, Mạc Cửu vốn là người Trung Quốc không thần phục nhà
Thanh, cùng tùy tùng và dân cư theo đường biển kéo vào miệt Hà Tiên khai khẩn, lập
nghiệp dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn, được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, từ đó
cư dân qui tụ ngày càng đông.
Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được Chúa Nguyễn chia làm 3 Dinh và 1
Trấn gồm : Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hòa ngày nay), Phiên Trấn Dinh (Gia Định),
Long Hồ Dinh (Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích nối
nghiệp cha, đẩy mạnh công cuộc khai khẩn ra vùng hữu ngạn sông Hậu, đến năm 1739 thì
hoàn tất với 4 vùng đất mới : Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang
(Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) được sáp nhập vào đất Hà Tiên. Đây là điểm mốc đánh
dấu sự xuất hiện của Cần Thơ trên dư đồ Việt Nam.
Nhận thấy Trấn Giang có một vị trí chiến lược để làm hậu cứ vững chắc cho Hà
Tiên chống lại quân Xiêm và Chân Lạp thường xuyên xâm lấn, Mạc Thiên Tích tập trung

1



BÙI VĂN CHIỀU

xây dựng về mọi mặt: quân sự, kinh tế, thương mại và văn hóa. Từ 1753, được sự đồng
tình của Chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tích cùng với đại thần Nguyễn Cư Trinh đã đưa Trấn
Giang phát triển thành một “thủ sở” mạnh ở miền Hậu Giang.
Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang.
Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó
kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm Xoài Mút (1/1785), năm 1787,
quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của
nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan
trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động.
Sau khi Gia Long lên ngôi, qua hai lần điều chỉnh lại dư đồ hành chính, Trấn
Giang thuộc địa giới của trấn Vĩnh Thanh. Năm 1813, vua Gia Long cắt một vùng đất phì
nhiêu ở bờ phải sông Hậu (gồm Trấn Giang - Cần thơ xưa) lập huyện Vĩnh Định, thuộc
phủ Đình Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, vua Minh Mạng ban chiếu đổi “Trấn” thành
“Tỉnh” và chuyển huyện Vĩnh Định sang phủ Tân Thành, tỉnh An Giang; năm 1839, đổi
tên huyện Vĩnh Định thành Phong Phú, trực thuộc phủ Tịnh Biên, tỉnh An Giang và lấy
làng Tân An làm huyện lị của huyện Phong Phú. Huyện Phong Phú tiếp tục phát triển và
nổi tiếng là một vùng đất thịnh trị và an ninh khác hẳn mọi vùng ở miền Tây lúc bấy giờ.
Năm 1858, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, buộc triều đình Nguyễn
phải ký hòa ước 1862 nhượng 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp, Tháng 6/1867, thực
dân Pháp vi phạm hòa ước chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây gồm : Vĩnh Long, An Giang và
Hà Tiên. Ngày 1/1/1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong
Phú với Bãi Sào (Sóc Trăng) thành một quận. Ngày 30/4/1872, ra nghị định sáp nhập
Phong Phú với Bắc Tràng là một vùng thuộc phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long lập thành một
hạt. Ngày 23/2/1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một
phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ.
Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi lại là quận.
Từ đó đến khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2 năm 1945 và cho đến

ngày Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, ký kết hiệp định Genève năm 1954, thì địa giới
2


BÙI VĂN CHIỀU

hành chính tỉnh Cần Thơ trong thời Pháp thuộc vẫn không thay đổi. Tỉnh Cần Thơ gồm
có thị xã Cần Thơ và các huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Tuy
nhiên, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào hai năm 1948 - 1949 chính quyền
kháng chiến có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của các tỉnh. Cần Thơ nhận thêm
huyện Thốt Nốt (Long Xuyên), các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch
Giá (Rạch Giá) và huyện Kế Sách (tỉnh Sóc Trăng). Tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn
và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh).
Khi đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, phá hoại hiệp định Genève, dựng lên
chính quyền Ngô Đình Diệm, địa giới hành chính cũ ở miền Nam nói chung và tỉnh Cần
Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi
tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh.
Về phía chính quyền cách mạng, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tên tỉnh
Cần Thơ vẫn được duy trì. Tháng 11/1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ trở lại như
trước khi được điều chỉnh năm 1948 - 1949. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè
được đưa về Vĩnh Long. Năm 1957 huyện Long Mỹ trở về tỉnh Cần Thơ, năm 1958,
huyện Kế Sách (thuộc tỉnh Sóc Trăng) và năm 1963, huyện Thốt Nốt (Long Xuyên) cũng
nhập vào Cần Thơ. Năm 1966, hình thành thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm
1969, tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam bộ, đến 1971 thì
trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành là thành phố Cần Thơ,
trực thuộc khu Tây Nam bộ.
Sau ngày thống nhất Tổ quốc, Chính phủ ta công bố Nghị định số 03/ND-76 ngày
24/3/1976 sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh
mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ.
Đến tháng 12/1991, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 8,

kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.
Ngày 1/1/2004, tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc
Trung ương và tỉnh Hậu Giang. Thành phố Cần Thơ hiện nay được chia thành 8 đơn vị

3


BÙI VĂN CHIỀU

hành chính gồm 4 quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Cái Răng) và 4 huyện (Phong
Điền, Cờ Đỏ, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh), trong đó có 4 thị trấn, 30 phường và 33 xã.
Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, khí hậu hòa thuận, thành
phố Cần Thơ có đầy đủ điều kiện để phát triển mạnh về mọi mặt : thích hợp cho sản xuất
nông nghiệp, có hệ thống giao thông trọng điểm đường hàng không, đường thủy, đường
bộ của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, các khu công nghiệp lớn hoạt động hiệu quả
nhất trong khu vực, trường Đại học Cần Thơ, và đầy đủ hệ thống ngân hàng, bưu chính
viễn thông và dịch vụ lớn mạnh nhất so với các tỉnh lân cận.
Hiện thành phố Cần Thơ đang trên đà phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng kinh
tế (GDP) vào khoảng 15.5% (2011), trở thành thành phố trọng điểm của khu vực đồng
bằng sông Cửu Long.
Cần Thơ vốn là đất cũ tỉnh An Giang thời Lục tỉnh của nhà Nguyễn. Khi người
Pháp chiếm Miền Tây Nam Kỳ (1867) thì tỉnh An Giang bị cắt thành sáu tỉnh nhỏ: Châu
Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu
Năm 1957, dưới thời Đệ nhất và sau đó sang thời Đệ nhị Cộng hòa tỉnh có tên là
Phong Dinh với tỉnh lỵ là Thị xã Cần Thơ.
Năm 1976, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lập Hậu Giang gồm
ba tỉnh: Phong Dinh, Chương Thiện (có Thị xã Vị Thanh) và tỉnh Ba Xuyên (có thành
phố Sóc Trăng) của Việt Nam Cộng hoà. Cuối năm 1991, tỉnh Hậu Giang lại chia thành
hai tỉnh: Cần Thơ và Sóc Trăng.
Ngày 1 tháng 1 năm 2004 tỉnh Cần Thơ được chia thành thành phố Cần Thơ trực

thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Cần Thơ được biết đến như là "Tây Đô" (thủ đô của miền Tây) của một thời rất xa.
24/6/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định số 889/QĐTTg, công nhận TP Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đạt được 82,39
điểm/100 điểm (quy định từ 70 điểm trở lên).

4


BÙI VĂN CHIỀU

1.2. Điều kiện tự nhiên
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng
lưới sông ngòi kênh rạch. Cần Thơ tiếp giáp với 5 tỉnh: phía bắc giáp An Giang và đông
bắc giáp Đồng Tháp, phía nam giáp Hậu Giang, phía tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp
Vĩnh Long.
Cần Thơ có nhiều hệ thống sông ngòi kênh rạch như sông Hậu, sông Cần Thơ,
kênh Thốt Nốt, rạch Ô Môn... Khí hậu Cần Thơ điều hoà dễ chịu, ít bão. Quanh năm nóng
ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung binh là 27ºC.
1.3. Vị trí địa lý
Không chỉ được thiên nhiên ưu đãi cho điều kiện tự nhiên lý tưởng với những vùng
sinh thái rộng lớn, ruộng đất phì nhiêu, những dòng sông chở nặng phù sa, quanh năm
nước ngọt,... thành phố Cần Thơ còn là nơi hội tụ các điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi.
Đây là những nền tảng quan trọng để Cần Thơ vươn lên trong tiến trình phát triển và hội
nhập.
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự
nhiên 1.390 km2, bên bờ tây sông Hậu, cách biển Đông 75 km, cách thủ đô Hà Nội 1.877
km và cách thành phố Hồ Chí Minh 169 km về phía bắc (theo đường bộ). Phía bắc giáp
tỉnh An Giang và Đồng Tháp, phía nam giáp tỉnh Hậu Giang, phía tây giáp tỉnh Kiên
Giang, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long và Đồng Tháp.

Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số Cần Thơ là 1.187.089 người
với diên tích 1.389,60 km² (536,5 m2) đồng thời Cần Thơ có nhiều nét đặc sắc, độc đáo
của văn hoá đồng bằng Nam Bộ được kết hợp hài hoà các sắc thái văn hoá truyền thống
của người Việt, Khmer, Hoa... .
Địa hình, sông rạch

5


BÙI VĂN CHIỀU

Cần Thơ nằm ở khu vực bồi tụ phù sa nhiều năm của sông Mê Kông, có địa hình
rất đặc trưng cho dạng địa hình đồng bằng. Nơi đây có hệ thống sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt. Trong đó:
Sông Hậu là con sông lớn nhất với tổng chiều dài chảy qua thành phố là 65 km.
Tổng lượng nước sông Hậu đổ ra biển khoảng 200 tỷ m 3/năm (chiếm 41% tổng lượng
nước của sông Mê Kông), lưu lượng nước bình quân tại Cần Thơ là 14.800 m 3/giây. Tổng
lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m 3/năm (chiếm gần 1/2 tổng lượng phù sa sông Mê
Kông).
Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 - 700 m, độ sâu 10 - 12 m nên
có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt.
Sông Cần Thơ dài 16 km, đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có
nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng
trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông.
Bên cạnh đó, Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch nhỏ dày đặc, cho nước ngọt suốt
hai mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thuỷ lợi và cải tạo đất

1.4. Khí hậu
TP Cần Thơ trong vùng thuộc ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Có
hai mùa rõ rệt trong năm là mùa khô và mùa mưa.

Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình
các tháng từ 26 đến 28 dộ. Có số giờ nắng cao nhất trong năm vào các tháng 1,2,3.
Giờ nắng trung bình trong các tháng này từ 190 giờ đến 240 giờ. Thuận lợi cho việc
thu hoạch và bảo quản lúa.
Mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11; gió mùa Tây Nam. Nhiệt độ trung bình các
tháng mùa mưa từ 26 đến 27 độ. Mưa tập trung trong các tháng 9,10.. trung bình

6


BÙI VĂN CHIỀU

lượng mưa phổ biến trong tháng từ 220 mm đến 420 mm. Các tháng cuối mùa gây
ngập úng trên diện rộng do lượng mưa lớn và lũ thượng nguồn đổ về.
2. Bến Ninh Kiều
Đã từ lâu, những con người Cần Thơ luôn tự hào và kiêu hãnh mỗi khi nhắc đến Ninh
Kiều-chỗ bờ sông nhìn ra dòng Hậu Giang hiền hòa, thơ mộng:
" Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân."

Bến Ninh Kiều là một địa điểm mà du khách thường tìm đến nhất, nằm bên hữu
ngạn sông Hậu, ngay ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, gần trung tâm thành phố Cần
Thơ. Trên bến sông luôn tấp nập tàu bè, thuyền ghe xuôi ngược chở đầy những sản vật
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Gần Bến Ninh Kiều có Chợ Cổ Cần Thơ ( hay còn gọi là
“ Chợ Lục Tỉnh”), trên một trăm tuổi là trung tâm buôn bán lớ Ngược dòng thời gian, Bến
Ninh Kiều xưa được khai sinh là một bến sông ở đầu chợ Cần Thơ. Ninh Kiều ngày ấy
tấp nập thuyền bè qua lại giao thương, hàng cây dương chắn gió ven bờ đã trở thành tên
gọi của bến sông. Việc giao thương mỗi ngày thêm phồn thịnh, bến Hàng Dương do đó
cũng được mở rộng và sửa sang, rồi dần dần trở thành thắng cảnh du lịch của đất Tây Đô.
Con đường Hai Bà Trưng hiện nay trước đây là đường Lê Lợi, chạy dọc bờ sông

Hậu cây cối sầm uất ( thời Pháp cai trị đặt tên "Le quai de Commerce"- tạm dịch là:Cảng
Thương Mại, nhân dân gọi là bến Hàng Dương hay là bến Lê Lợi). Năm 1958 bến sông
và công viên nằm cạnh con đường Lê Lợi được đặt tên bằng một trận đánh của nghĩa
quân Lam Sơn.
Từ câu : "Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm, Tụy Động thây chất
đầy

nội,

nhơ

để

ngàn

năm".(

Bình

Ngô

Đại

Cáo"

của

Nguyễn

Trãi)


Ninh Kiều trong câu thơ trên nói về một chiến công của nghĩa quân Lam Sơn, đây là trận
đánh mang tính bước ngoặt lịch sử, quyết định đến sự thắng lợi cuối cùng của toàn bộ
7


BÙI VĂN CHIỀU

cuộc kháng chiến chống Minh. Địa điểm diễn ra trận đánh là vùng đất lầy lội bên sông
Đáy mang tên Ninh Kiều (còn gọi là Chúc Động, thuộc địa phận thị trấn Chúc Sơn huyện
Chương Mỹ tỉnh Hà Tây-nay đã xác nhập vào Hà Nội). Giao điểm giữa quốc lộ 6 với
sông Đáy.Sau này những cư dân người Việt đi mở cõi đất phương Nam, đã lấy các tên
của trận đánh nổi tiếng trên để đặt cho vùng đất mới bên bờ sông Hậu.
Du khách thập phương đến với Cần Thơ có thể ngắm nhìn vẻ đẹp thơ mộng của
bến Ninh Kiều bất kể lúc nào,mỗi thời khắc có một nét độc đáo riêng. Ban ngày,Ninh
Kiều trầm mặt bên dòng Hậu Giang bỏ mặc những ồn ào huyên náo của một thành phố
trẻ,năng động. Gió từ dòng sông Hậu mát rười rượi làm hàng dương uốn lượn,lòng người
như được trút hết căng thẳng lo âu.
Đêm xuống, Ninh Kiều như khoác lên mình chiếc áo mới.Người người lại
qua,những cô gái thẹn thùng bên người yêu làm nên một bức tranh sinh động hài hòa.
Đứng trên bến Ninh Kiều mắt ta nhìn sang Xóm Chài và hướng Cồn Ấu ở đầu vàm sẽ
thấy một dải cù lao mập mờ cây lá, tạo cho ta niềm rung cảm dạt dào. Ngược lại nếu đứng
từ bên kia Xóm Chài nhìn sang sẽ thấy toàn cảnh Ninh Kiều và phố sá rực rỡ ánh đèn soi
bóng xuống mặt nước phù sa lấp lánh như rắc ánh vàng thật lung linh tuyệt đẹp giữa trời
nước bao la.
Ngày 30/04/2009,UBND TP Cần Thơ tổ chức lễ khởi công trùng tu, nâng cấp
tượng Bác Hồ (xây cách đây đã 33 năm) tại bến Ninh Kiều. Tượng Bác bằng đồng, cao
7,2 m, chân đế cao 3,6 m, trọng lượng tượng hơn 12 tấn với tổng mức đầu tư hơn 13 tỷ
đồng
Bến Ninh Kiều đã trở thành địa danh du lịch nổi tiếng, một thương hiệu của vùng

đất Tây Đô. Mặc dù là một thành phố còn quá trẻ nhưng Cần Thơ hôm nay đã và đang
không ngừng vươn lên thu hút ngày càng nhiều khách phương xa tìm đến
Ơ... Cần Thơ, Cần Thơ gạo trắng nước trong
Đi đâu cũng nhớ cũng mong quay về
Dòng Hậu Giang sóng nước mênh mang

8


BÙI VĂN CHIỀU

Con nước ròng con nước lớn,vẫn đong đầy tình yêu
(Qua Bến Ninh Kiều- Nguyễn Văn Hiên)

3. Cầu Cần Thơ
Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh
Long. Đây là cây cầu dây văng có nhịp chính dài nhất tại khu vực Đông Nam Á
Cầu Cần Thơ được khởi công xây dựng ngày 25 tháng 9 năm 2004 và được khánh thành
vào lúc 09h00 sáng ngày 24 tháng 4 năm 2010 Tổng mức đầu tư 4.832 tỷ (thời điểm
2001, tức là khoảng 342,6 triệu USD)
Tổng chiều dài cầu chính là 2,75 km . Nhịp dây văng có chiều dài 550m giữa hai
trụ tháp, có tĩnh không thông thuyền cao 39 m (với chiều rộng tương ứng 200 m, trụ tháp
có chiều cao tính từ mặt nước là 164,80 m và tính từ mặt cầu là 134,70 m
4. Dòng Cầm Thi Giang – Lịch sử tên gọi Cần Thơ
Về tên gọi Cần Thơ, trong sử sách xưa nay, không có ghi chép xuất xứ rõ ràng như
tên gọi một số tỉnh khác, chỉ có những truyền thuyết do các bô lão địa phương đời trước
kể lại cho con cháu đời sau. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong quyển sách sưu
khảo Cần Thơ xưa và nay xuất bản năm 1966 thì có hai truyền thuyết như sau:
Ngày xưa, khi chưa lên ngôi vua, Chúa Nguyễn Ánh vào Nam và đã đi qua nhiều
vùng châu thổ sông Cửu Long. Một hôm, đoàn thuyền của Chúa đi theo sông Hậu vào địa

phận thủ sở Trấn Giang (Cần Thơ xưa). Đêm vừa xuống, thì đoàn thuyền cũng vừa đến
Vàm sông Cần Thơ (bến Ninh Kiều ngày nay). Đoàn thuyền đang lênh đênh trên mặt
nước ở ngã ba sông này, Chúa nhìn vào phía trong thấy nhiều thuyền bè đậu dài theo hai
bờ sông, đèn đóm chiếu sáng lập loè. Giữa đêm trường canh vắng, vọng lại nhiều tiếng
ngâm thơ, hò hát, tiếng đàn, tiếng sáo hoà nhau nhịp nhàng. Chúa thầm khen về một cảnh
quan sông nước hữu tình. Chúa mới có cảm nghĩ ban cho con sông này một cái tên đầy
thơ mộng là Cầm thi giang tức là con sông của thi ca đàn hát. Dần dần 2 tiếng Cầm thi
được lan rộng trong dân chúng và nhiều người nói trại ra là Cần Thơ. Tên Cần Thơ nghe
thấy hay và đẹp nên được người trong vùng chấp nhận và cùng gọi là sông Cần Thơ.
9


BÙI VĂN CHIỀU

Một truyền thuyết khác cho rằng: sông Cần Thơ ngày xưa ở hai bên bờ, dân chúng
trồng rất nhiều rau cần và rau thơm. Ghe thuyền chở nhiều loại rau cần, rau thơm qua lại
rao bán đông vui từ năm này qua năm khác. Vì vậy từ xa xưa, còn truyền lại những câu ca
dao:
- “Rau cần, rau thơm xanh mướt,
mua mau kẻo hết
chậm bước không còn”.

- “Rau cần lại với rau thơm
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”

Cũng có thể từ đó mà người địa phương lại gọi sông này là sông Cần Thơm, nói
trại là Cần Thơ. Hai truyền thuyết Cầm Thi và Cần Thơm chưa biết cái nào là đúng nguồn
gốc. Nhưng dù nói thế nào đi nữa, thì từ xa xưa, người dân địa phương đã gọi dòng sông
quê hương mình là sông Cần Thơ.
5. Văn hóa vùng miền

5.1.Văn hóa ghe thuyền
Có thể nói miền Tây Nam Bộ là nơi hội tụ của những kênh rạch, sông ngòi. Gắn bó
với cảnh sông nước ấy chính là những chiếc ghe, chiếc xuồng đã trở thành một hình ảnh
không thể thiếu trong đời sống của người dân nơi đây. Trải qua hàng bao thế kỷ, cái hình
ảnh thân thương ấy không bị mất đi mà dường như ngày càng được tôn vinh và gìn giữ.
Bởi đó chính là một nét đẹp văn hóa độc đáo mà nơi đây có được.
Ghe xuồng miền Tây Nam Bộ phát triển theo nhiều kiểu, đa dạng, phong phú. Từ
những chiếc ghe, xuồng chèo chống, luồn lách qua các kênh rạch đủ cỡ, đủ hình dạng, đủ
độ nông sâu cho đến những loại ghe thuyền cỡ lớn, vận tải nặng, chuyên chở được nhiều

10


BÙI VĂN CHIỀU

người. Ngày nay, việc di chuyển trên sông nước còn có ghe máy, xuồng máy chạy với
vận tốc nhanh dùng song song với các loại ghe, xuồng cổ điển. Chính vì sự tiến bộ trong
khoa học, kỹ thuật mà nghề đóng ghe cũng đã có sự thay đổi ít nhiều về hình dáng và kỹ
thuật lắp ráp. Ở miền Tây Nam Bộ, người ta phân biệt hai loại ghe và xuồng rất khác biệt.
Xuồng có mấy loại: xuồng ba lá, xuồng máy, xuồng năm lá... Xuồng ba lá dài trung
bình 4m, rộng 1,5m, có sức chở từ 4- 6 người, vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo
Ghe có nhiều loại: ghe tam bản, ghe bầu, ghe chài, ghe lườn...
Nghề đi ghe, đi xuồng từ lâu trở nên quen thuộc với cư dân miền Tây Nam bộ, tồn tại
song song với nghề làm ruộng, làm vườn. Hiện nay, tại một số địa phương ở miền Tây,
việc đi lại bằng đường bộ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại cho nên sông ngòi vẫn là
thủy đạo quan trọng trong công tác vận tải, thương mại và đi lại. Hơn nữa, ghe xuồng
cũng là phương tiện để truyền tải văn hóa dân gian đi khắp nơi. Chính hình ảnh những
chiếc ghe, chiếc xuồng trên sông rạch gắn bó suốt đời với cư dân miền Tây Nam bộ, cho
nên đã xuất hiện những điệu hò, câu hát như hò chèo ghe, hò mái dài, mái cụt, hò sông
Hậu, hò Đồng Tháp... và đã tạo nên sắc thái văn hóa riêng của văn minh miệt vườn.

5.2 văn hóa sống nhà sàn
Do địa hình sông ngòi chằng chịt, ngày ấy, người dân miền Tây có hai thói quen cất nhà:
cặp theo bờ sông hay làm nhà sàn hẳn trên sông. Cửa nhà chính luôn chọn theo hướng
con nước lớn. Người ta tin như vậy thì tài, lộc sẽ chảy vào nhà.
Cạnh cửa nhà, có một cái lu màu da bò vàng óng. Trên nắp lu có một cái gáo dừa theo
thời gian, lên nước đen mun, dùng để múc nước. Mỗi lần súc lu, hay có mấy con cóc đen
xì, từ đít lu nhảy ra ngơ ngác. Nước xách dưới sông, đổ đầy lu, người ta thường đánh
phèn cho nước trong. Bây giờ nước máy chảy vào từng nhà, những cái lu chỉ còn trong ký
ức.
Kiểu nhà sàn là nét độc đáo, làm phong phú thêm nét sinh hoạt vùng sông nước miền Tây.
Kiểu nhà này thuận lợi ở chỗ, nhà có hai mặt tiền: Một mặt day ra sông, một mặt day ra

11


BÙI VĂN CHIỀU

đường cái. Kiểu này vừa ít chiếm đất làm nông nghiệp, vừa gần sông, thuận lợi cho việc
sử dụng nước, lại có thể kinh doanh buon bán được ở cả hai mặt.
Dù có hai mặt tiền, nhưng người ta vẫn chú trọng mặt quay ra đường hơn, và mặt phía sau
vẫn dùng làm một phần cho nhà bếp. Trước đây, phương tiện giao thông chủ yếu là
xuồng, ghe nên mặt mé sông lúc nào cũng tấp nập, có thể dùng để buôn bán xăng lẻ (cho
những nông dân khá giả, có tiền mua máy côle), lá lợp nhà, phân bón, tạp hóa…
5.3 văn hóa ẩm thực
Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm
cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc
đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một vùng/miền
nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có thể nêu được bản sắc văn
hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.
Ở Nam Bộ đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại lắm

lung, hồ, búng, láng..., không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch... đã
vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì
“năm non bảy núi” trập trùng, không biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển
Đông, biển Tây, toàn là “hải vị”!
Lẩu mắm: Nhắc đến xuất xứ của lẩu mắm, người ta thường gắn nó với người
Khmer – vốn là những người bản địa của xứ Nam Bộ trước kia. Tuy nhiên cũng có những
cách giải thích khác về nơi sản sinh ra món lẩu đặc sắc này. Nhà văn Nam Sơn – người
được coi là “ông già Nam Bộ” thì cho rằng lẩu mắm có gốc từ mắm Châu Đốc, là món ăn
của những người dân Việt khai khẩn đất hoang ngày xưa.
Dù có từ đâu thì tới nay, lẩu mắm đã trở thành món ăn gắn liền với dải đất Nam Bộ nói
chung và mảnh đất Cần Thơ nói riêng. Du khách qua Cần Thơ đều bị hấp dẫn bởi món lẩu
mắm nơi đây với mắm cá sặt kho và gần bốn mươi loại rau ăn kèm.

Mắm kho trong lẩu mắm ở Cần Thơ là mắm cá sặt của Châu Đốc được chế biến từ cá
đông của vùng U Minh Thượng nên có vị mặn mòi đặc trưng. Một số nơi chế biến mắm
cá sặt thường cho thêm gia vị khác kèm theo để át bớt mùi mắm. Nhưng làm như thế
mắm sẽ nhạt đi ít nhiều. Người dân vùng chợ nổi Cái Răng có bí quyết riêng khiến vị

12


BÙI VĂN CHIỀU

mắm không quá mặn, nồi lẩu lại ngả màu nâu đặc trưng, nước sanh sánh nhờ tỏi ớt bằm
nhuyễn và thịt cá nhiều, nhìn vừa đủ đầy ngon mắt, lại có mùi thơm quyến rũ.
Mắm cá sặt được nấu rã thịt, lược kỹ xương, nêm nếm bột ngọt và đường vừa ăn rồi trút
vào lẩu. Để cho dậy mùi, người ta còn bổ sung thêm một ít lá sả bằm mịn, phần gốc sả
đập giập rồi nấu chung với nhiều loại thịt hay cá tùy thích, như lươn, cá rô, cá sặt rằn, cá
kèo, cá lóc… cùng “lên lửa” với nước cốt mắm sặt thơm lừng.
Không dễ để có nồi lẩu mắm ngon, vừa lòng thực khách thập phương. Nông dân, công

nhân, trí thức… đến từ nhiều miền, thậm chí là cả khách nước ngoài, khẩu vị rất đa dạng.
Lẩu mắm Cần Thơ được ưa chuộng bởi biết điều chỉnh mùi, vị theo khẩu vị từng dạng
khách. Khách nông dân, khách lao động thì cần mặn mà, đằm thắm; người thành thị,
khách trí thức mắm pha phải nhạt hơn… Chính vị mắm kho với cách chế biến đặc trưng
đã tạo nên ấn tượng vị giác mạnh mẽ cho thực khách.
Đa sắc rau ăn kèm
Du khách ghé Cần Thơ ăn lẩu mắm thường thích thú với mâm rau ăn kèm bởi màu sắc
xanh đỏ vàng vô cùng cuốn hút gợi thèm. Có đến gần bốn mươi loại rau: như bông súng,
đọt nhãn lồng, ngò gai, ngò om, cải xanh, rau muống, rau ngổ, đậu rồng, kèo nèo, rau
đắng, càng cua, bông so đũa, cà phổi, bắp chuối, ớt hiểm, tỏi súng, lá tai tượng, rau má,
rau dừa, chuối chát, cà tím, bông bí, lục bình, rau nhút, nấm rơm…

Từng ấy loại rau vừa gây ấn tượng về thị giác vừa có tác dụng át bớt cái mùi mạnh mẽ
của mắm kho, lại cân bằng âm dương. Người ta càng ăn lẩu mắm càng say những loại rau
này. Nhất là trong những năm gần đây, xu hướng ăn nhiều rau đang được ưa chuộng
khiến lẩu mắm Cần Thơ với sự đủ đầy của mâm rau càng chiếm được lòng yêu mến của
thực khách.
Không chỉ hấp dẫn ở màu sắc và sự phong phú, các loại rau trong món lẩu mắm ở Cần
Thơ còn vô cùng tươi ngon. Quê hương của “người đẹp Tây Đô” nằm bên bờ sông Hậu

13


BÙI VĂN CHIỀU

trù phú với nhiều vựa rau xanh. Thêm vào đó, chợ nổi Cái Răng cũng là trung tâm mua
bán các loại trái cây rau củ của đồng bằng sông Cửu Long.
Thực khách tới đây sẽ được thưởng thức đủ đầy các hương vị: ngọt, bùi, chua, chát, đắng,
cay của nhiều, rất nhiều loại rau từ quen thuộc tới hoang dã. Mỗi mâm rau cho nồi lẩu
mắm ở Cần Thơ giống như một bản hòa ca của các loại rau miệt vườn sông nước tụ lại,

khiến người ta không khỏi say mê, thèm thuồng. Thật không ngoa khi nói rằng không có
món ăn nào trên thế giới lại được ăn kèm với nhiều loại rau như lẩu mắm.
Lẩu mắm – món ăn dân dã của xứ miền Tây giờ đã trở thành món không thể thiếu của
nhiều nhà hàng sang trọng. Song có lẽ chỉ ở Cần Thơ người ta mới cảm nhận được thấu
đáo cái dư vị mặn mòi, dung dị và đậm đà không thể nào quên bởi những ấn tượng mạnh
mẽ mà nó đem lại cho thực khách.
6. Cần Thơ gạo trắng nước trong
Hò ơ, hò ơ ớ ơ…
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó…đến đó, lòng không muốn về
….Nước phù sa là nước dòng sông Hậu,
Đất lành chim đậu là đất Cần Thơ…
Nhắc đến Cần Thơ là nhắc đến vùng “gạo trắng nước trong” vì đây là một vựa lúa
lớn không chỉ của vùng mà còn của cả nước. Đến Cần Thơ du khách có cơ hội hòa mình
vào khung cảnh thiên nhiên sông nước hữu tình, với hệ thống sông ngòi chằng chịt người
dân vùng châu thổ Sông Cửu Long tận dụng lợi thế mà tạo hóa ban tặng với lượng phù sa
dồi dào đã tự mình biến đổi vùng đất trước đây là rừng rậm thành những vườn ăn trái sum
suê trĩu quả, bên cạnh đó là những đồng ruộng mênh mông xanh mướt như tấm thảm trải
dài và rộng khắp vùng đồng bằng.
Cần Thơ là vùng trung tâm lúa gạo với nhiều nông trường chuyên cung cấp lương
thực cho cả nước và xuất khẩu.Có nhiều người hỏi rằng đến Cần Thơ, đi trên sông Cần

14


BÙI VĂN CHIỀU

Thơ không thấy “nước trong” như câu ca dao nhắc đến? Nước sông Cần Thơ là nước
ngọt, lại có lượng phù sa dồi dào thì làm sao trong như nước mưa, nước giếng được, sở dĩ
câu ca dao nói vậy bởi vì vùng này là vùng sông nước nên muốn nói cho vần điệu tác giả

dân gian đã mượn hình ảnh nước trong để câu ca dao dễ nghe và đi vào lòng người.

7. Lịch sử khẩn hoang Nam Bộ và cuộc di cư vào Nam của người Miền Tây
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên
xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có
nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là
‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam
châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể
khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương
quốc được thành lập.
Lịch sử bắt đầu từ khoảng năm thứ nhứt sau Công nguyên khi tại châu Âu, Ðại Ðế
Claudius ra sức chinh phục đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là nhà Tây Hán. Theo
truyền thuyết thì ngày xưa có một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên
là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc
hành trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông
Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn
thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười
đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên
Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới
nhau sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương
quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura. Hầu hết
những dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất Ðông Nam Á này đều đến từ sử
liệu Trung Hoa và di vật khai quật được ở Óc-Eo. Chính vì thế tên các vương triều thường
là do phiên âm ra tiếng Hán. Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ
giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã
biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh,
15



BÙI VĂN CHIỀU

có hệ thống kinh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ. K’ang T’ai cũng nói rằng
vương quốc Phù Nam có thư viện với nhiều sách vở chữ Phạn, có luật lệ, hệ thống thâu
thuế và nông nghiệp, thương mãi đều phát triển. Thường thì người Hoa có tục lệ khinh
khi những dân tộc không phải là Hán tộc. K’ang T’ai đã kết luận rằng người Phù Nam là
một dân tộc man di, nước da đen đúa xấu xí, tóc quăn và đa số ở truồng, đi chân không.
Ông sứ giả có than phiền điều này với quốc vương Phù Nam là vuaHun Fan Huang. Nhà
vua sau đó ra lệnh cho tất cả thần dân của Ngài về sau phải quấn vải vào phần dưới thân
thể, tiền thân của chiếc sà-rong mà người Thái, Miên và Mã Lai thường mặc ngày nay.
Những lời kể lại của thương nhân các nơi khác lại tỏ ra thán phục nền văn minh và sự
hùng cường của Phù Nam. Họ kể rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc diêm dúa, ở cung
điện nguy nga bật nhất và nước Phù Nam có rất nhiều đồ châu bảo vàng bạc quí giá.
Vương quốc sử dụng chữ Phạn cổ Sanscrit của Ấn Ðộ trong công việc hành chánh và
thương mãi. Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến
thuyền và quân lực hùng mạnh. Vương quốc Phù Nam đã chinh phục được hầu như toàn
thể những khu dân cư của vùng Mã Lai -Thái lan - Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát
đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ. Hào quang cường
thịnh và cách tổ chức hành chánh của Phù Nam đã làm gương mẫu cho những nền văn
minh sau này như là tiểu vương quốc Sri Vijaya (Palembang), Sailendra ở Java Indonesia,
và Malacca góp phần truyền bá văn minh Ấn Ðộ đến những thành phố, bộ lạc phiên thuộc
dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Óc-Eo ngày xưa là một thương cảng trù phú có nhiều
thương thuyền ghé lại. Vào thời điểm này thương gia đến Óc-Eo tấp nập từ đông sang tây:
Ðế quốc La Mã qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Người ta đã tìm được những đồng tiền cổ
của La Mã tại đây. Con của Hun Fan Huang là Fan-Shih-Man lên nối ngôi khoảng đầu
thế kỷ thứ 3. Tiếp theo là các vua Hun Tien và Hun Phan Fan cha truyền con nối. Vua
Hun Phan Fan là một vị minh quân trị vì từ cuối thế kỷ thứ 3 qua thế kỷ thứ 4. Ông nới
rộng lãnh thổ, làm hùng mạnh quốc gia và thọ 90 tuổi, không rõ năm nào. Con của vua
Hun Phan Fan là Hun Phan Phan không thích làm vua nên bỏ đi tu, nhường ngôi cho
một viên tướng là Seray Mara sử Tàu gọi là Fan Che Man. Vua Fan Che Man nới rộng

lãnh thổ Phù Nam ra gấp đôi diện tích cũ. Ông đã băng hà vào khoảng năm 204-210. Sau
16


BÙI VĂN CHIỀU

cái chết của vua Fan Che Man triều đình Phù Nam rơi vào cảnh rối loạn liên tiếp. Người
cháu của vua là Fan Chan giết chết thái tử con của vua trước để chiếm ngôi. Hai mươi
năm sau một người con của vua Fan Che Man là Asachi lại giết được Fan Chan để lấy lại
ngai vàng. Sau đó không lâu Asachi lại bị tướng Siun giết để lên làm vua. Hoàn cảnh nào
đưa vua Chandana lên ngôi vương không được sử liệu Trung Hoa nhắc đến. Có những
chổ trống trong lịch sử những nước lân bang mà có lẽ vì trùng họp với những biến động
chính trị tại triều đình Trung Quốc nên sử gia Trung Hoa đã không thể điều nghiên ghi
chép.
Năm 357 Phù Nam dưới triều vua Chandana sang cầu phong Trung Hoa và xin triều
cống. Một điều đáng nói là mặc dù những dân tộc tại Ðông Nam châu Á bị ảnh hưởng sâu
đậm của văn minh Ấn Ðộ, nhưng người Ấn Ðộ và lịch sử Ấn Ðộ hoàn toàn không quan
tâm đến thế giới phía đông này cho đến mãi thế kỷ 20 chính phủ và nhân dân Ấn Ðộ mới
tìm hiểu thêm về một vùng văn minh Ấn Ðộ đã có mặt tại đây từ lâu. Lịch sử Ấn Ðộ
không đếm xỉa gì đến vùng Ðông Nam châu Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn trong quá khứ.
Ngược lại người Trung Hoa từ hơn 2000 năm nay luôn xem vùng biển phương nam thuộc
ảnh hưởng của Thiên triều. Họ cho sứ giả đi điều tra và ghi chép cẩn thận những điều mắt
thấy tai nghe. Từ lúc ban đầu ấy các nước đông nam Á đều đã có liên hệ ngoại giao
với Trung Hoa qua hình thức cống sứ và xin phong. Trong thâm tâm tầng lớp lãnh
đạo Trung Hoa, Thiên triều có thẩm quyền và nhiệm vụ can thiệp tại vùng nam châu Á
nếu cần. Lịch sử đã chứng minh điều đó và gần đây nhất là Trung quốc đã đánh vào miền
Bắc Việt nam năm 1979 vì bất đồng về chủ quyền và ảnh hưởng tại vương quốc
Kampuchia. Nhưng cũng nhờ thế mà ta có những sử liệu quí giá từ thời thượng cổ để tìm
hiểu lịch sử của những quốc gia phương nam của Trung Quốc trong đó có Việt Nam ngày
nay và Phù Nam xưa.

Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer,
Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với
nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương. Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật
giáo. Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya
Jajavarman (478-514). Vua Rudravaman (514-539) có sai sứ sangTrung Hoa triều cống
17


BÙI VĂN CHIỀU

và cho biết Ngài có một lọn tóc xá lợi của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Trong thời gian này
các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã dịch cuốn Phật Kinh Vimutti Magga sang
chữ Hán. Ngày nay cuốn kinh này chỉ tồn tại bằng chữ Hán vì bản chánh chữ Phạn đã bị
thất lạc. Thế rồi sau đó vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của
dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào
bây giờ. Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc
gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm
này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung Quốc.
Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó
là Vương quốc Chân Lạp. Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân
Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập
vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java
của Nam Dương (Indonesia). Họ sống âm thầm mãi đến gần 200 năm sau, hậu duệ của
nhóm người này phát lên để dựng nên triều đại huy hoàng Sailendra. Các ông hoàng bà
chúa của dòng họ này lại kết hôn với các lãnh chúa của các tiểu vương lân bang như Mã
Lai và nhiều đảo quốc trong vùng. Cho đến ngày nay giới quí tộc, hoàng gia các nước đa
đảo như Mã Lai, Nam Dương (Indonesia) đều có liên hệ huyết thống với hoàng tộc nước
Phù Nam của miền nam Việt Nam.
Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền nam,
người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Từ khi bị mất nước về

tay Chân Lạp người dân Phù Nam trở thành một dân tộc lục địa, mất đi khả năng hàng
hải. Ngày nay người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của dân tộc
Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta biết đến qua
nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia. Vào lúc người Việt di cư
đến vùng đất miền Nam vào năm 1800 người ta tìm thấy một pho tượng nữ vương bằng
cẩm thạch bị chôn vùi từ thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công nguyên. Có thuyết cho rằng đó
là tượng quốc mẫu vương quốc Phù Nam là Soma. Người Việt kính cẩn lập đền thờ bà tại
núi Sam tỉnh An Giang gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ. Hàng năm cư dân Hoa, Việt, Miên lui

18


BÙI VĂN CHIỀU

tới cúng bái, hương khói vô cùng linh thiêng. Sự việc đó cho thấy lòng biết ơn của những
người đến sau đối với những đợt người đã khai phá vùng đất này trước dân tộc Việt Nam.
Vương quốc Chân Lạp làm chủ khu vực miền nam Việt Nam (thế kỷ thứ 7-thế
kỷ 17 sau Công Nguyên)
Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng đô
tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm đền đài. Ngài
cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông Cửu Long xuống tới
miền Tây Việt Nam ngày nay. Khoảng năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ
thành Vương Triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh
lực ép buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc. Từ năm
800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và
Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương
quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có
khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (vùng đồng
bằng miền nam tức Phù Nam xưa). Jayavaman II còn có tên là Puskarak đã từng bị bắt
trong trận chiến, và bị đày qua đảo Java. Sau ông trốn thoát về tổ chức nghĩa quân giải

phóng đất nước chống lại quân chiếm đóng Java và quân người Chăm nước Champa
(Trung Việt ngày nay). Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương lấy hiệu là Jayavaman II rồi
tuyên bố độc lập. Tuy nhiên quyền lực của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương
quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến
tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà con họ mẹ
đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).
Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn
thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng
thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mãi. Indravaman I cũng
khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo
Ðông Dương bằng những võ công nổi bật. Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha
xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara
19


BÙI VĂN CHIỀU

Ley đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này sự phú
cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc
vĩ đại trong đó có Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích), đền đài Lo Ley, đền đài Phnom
Bok. Angkor Wat đã là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á.
Nhà vua còn cho đào hồ Ðông Baray dài 7 km, ngang 1800 km. Một công trình vĩ đại vào
thời đó. Những công trình to tát này đa phần nhờ vào hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được
từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào. Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp
có 6 triều vương đó là Hashavaman I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman
IV (928-941),Harshavaman II (941-944), Rajendravaman II (944-968), và Jayavaman
V (968-1001). Rajendravaman II vốn là một vị tướng của vương quốc sau khi gôm quyền
lực vào tay đã lên ngôi vương tại Angkor Wat(Ðế Thiên Ðế Thích). Trong 24 năm cầm
quyền ông cho xây thêm nhiều đền tháp lâu đài và đánh bại quân Chăm của Vương quốc
Chiêm Thành (Champa, Trung Việt). Khi nhà vua băng hà con là Jayavaman Vlên thay.

Sau cái chết của Jayavaman V năm 1001 toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn
kéo dài 9 năm. Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế lực khác
và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat. Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp
tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía
tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành. Trong thời gian này hùng cường nhất
là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà vua xông pha trận mạc để lại nhiều võ công oai
hùng. Ngài đã đụng trận với Trung Hoa, Ðại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường.
Ngài đã chết tại sa trường một cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc
Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadityavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13. Trên thế
giới lúc đó là thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Ðộ phía Tây, xâm
chiếm Trung Hoa phía Bắc và phía Ðông hai vương quốc Ðại Việt và Chiêm Thành đang
nắm tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi
dậy giành độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không còn nô lệ nữa. Quân đội
người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng
20


BÙI VĂN CHIỀU

mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp
đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại
nơi chốn này. Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm
mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới
tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401? vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu
một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không còn
được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể
những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hoá Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã
bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích).

Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các
vua chúa Khmer.
Chúa Nguyễn bành trướng thế lực của người Việt tại Thủy Chân Lạp (thế kỷ 1718 sau Công Nguyên)
Một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi
tình thế lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc,
Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm
để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to tát cho hai lân quốc
Champa và Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã
bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang
đến Phan Thiết. Không dừng lại ở Champa, chúa Nguyễn bắt đầu dòm ngó đến Chân Lạp.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương
năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang lòng không không phục người Xiêm.
Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ
chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống,
Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II
đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey
Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương
21


BÙI VĂN CHIỀU

Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Quốc sử Cao Miên đã chép như sau về giai đoạn này:
‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên đất Cao Miên, nên xua binh tấn công. Năm 1623,
một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập lãnh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh
đánh tan rã ở Bâribaur cách biển Hồ lối 50 km. Ðạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị
Hoàng đệ Prah Outey đẩy lui. Năm sau, 1624 quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền
duyên hải, bị phản công dữ dội phải rút về. Ðể đề phòng quân Xiêm quấy nhiễu,
quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa xứ Ðàng Trong hầu dựa vào thế lực của
nhà Nguyễn ở Huế.’

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao
Miên năm 1620. Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô
Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương người Nhật Bổn.Vua Cao
Miên mặt khác lại nghe truyền rằng Sãi Vương là người mộ đạo Phật, trong người có
nhiều Phật tính nên muốn kết tình gia đình. Ði theo hộ tống đám cưới bà Hoàng Ngọc
Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Sãi Vương trang bị khí giới, tàu
thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng lẫy hình chim phượng mạ vàng. Tham
dự lễ cưới có nhiều người ngoại quốc từ Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ý Ðại
Lợi, Trung Hoa. Bà Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng
anh tuấn. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea
Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả này, bà Hoàng Ngọc Vạn đã xin với Hoàng
phu cho nhiều người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đình Chân Lạp. Dưới sự
bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển
vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp,
đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân
Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey
Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại đây.
Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa
giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas
22


BÙI VĂN CHIỀU

Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế. Từ sau khi vua Chey
Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm
vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua
Ponhea Nu năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình

là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II
liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng
hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân. Các hoàng
thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện
chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu
cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to
tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương
Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh Quảng Bình. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây.
Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu
là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp hợp thức hóa
chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát chết.
Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm
mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn
lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng
Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong
hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của
Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp. Chúa Hiền lại đồng thời
cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm
Thứ Vương vùng Ðồng Nai –Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey
Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với
chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn
quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.
Các di thần nhà Minh xin định cư tại Thủy Chân-Lạp vùng Biên Hòa-Mỹ Tho.

23


BÙI VĂN CHIỀU

Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh có di thần của nhà cựu Minh

bên Tàu vì không cự lại quân Thanh triều đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần
nhà Minh gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và
Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình
mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà
Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên
binh hàm chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ
Ðồng Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ. Nhờ đợt di cư này
mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà
Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở
rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần
Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt
nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập.
Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất
vô cùng. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu
nhập.
Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương
Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú
Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến
giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng
Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả
quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc
làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết
định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch
Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh
thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi,
150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan

24



BÙI VĂN CHIỀU

quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng
hà năm 1691 thọ 43 tuổi.
Năm 1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu
chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp.
Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành quả
này đạt được trong vòng 70 năm. Sự trù phú của miền nam nhờ một phần vào sự tiếp sức
của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền núi về làm nô lệ.
Theo lời kể của người phương Tây thì việc buôn bán nô lệ để giúp người Việt canh tác có
cả thuế nông nô của triều đình.
Căn Khẩu Quốc - Hà Tiên
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông mang gia
quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ
biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và
ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren,
ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mặc
Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà
Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot),
Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc
(Koh Tral). Ngoài ra còn có người Ấn Ðộ, người Nam Ðảo, người Kinh, người Thái,
người Cao Miên đến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cử đặt tên
vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân
Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của
Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất
này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang
Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến

thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần
25


×