Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đánh giá về nguyên tắc chiếu cố trong bộ Quốc Triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.33 KB, 7 trang )

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................................1
I, Nguyên tắc chiếu cố trong bộ Quốc triều hình luật......................................................2
2. Chiếu cố theo địa vị xã hội......................................................................................2
2. Chiếu cố theo tuổi tác, người tàn tật và phụ nữ......................................................3
KẾT LUẬN..........................................................................................................................5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................6

1


LỜI MỞ ĐẦU
Quốc triều hình luật có thể được coi là một trong những bộ luật hoàn chỉnh nhất
trong lịch sử pháp luật của nhà nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật được xem như là
văn bản pháp luật quan trọng nhất, có vai trò to lớn trong việc cai trị đất nước hơn 300
năm của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ thứ XV. Trong luật pháp phong
kiến nói chung và bộ Quốc Triều hình luật nói riêng, hình luật là nội dung trọng yếu và
có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của bộ luật. Đối với Bộ Quốc Triều
hình luật đã thể hiện những nguyên tắc hình sự chủ yếu như nguyên tắc vô luật bất hình,
nguyên tắc chiếu cố, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền…trong đó nguyên tắc chiếu cố vừa
thể hiện tính giai cấp, vừa thể hiện tính nhân đạo, cho thấy nhiều điểm tiến bộ của bộ
luật so với thời đại. Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “ đánh giá về nguyên tắc
chiếu cố trong bộ Quốc Triều hình luật” để làm bài tập lớn lần này.
Với kiến thức còn hạn hẹp, bài tập của em vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong thầy cô
thông cảm và bổ sung để em có thể có những hiểu biết hơn về vấn đề này. Em xin chân
thành cảm ơn!

NỘI DUNG
Lịch sử dân tộc cùng các điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội khi bộ Quốc Triều
hình luật ra đời đã quy định sự mô phỏng của pháp luật hình sự việt Nam thời nhà Lê
theo pháp luật hình sự Trung Quốc. Theo đó pháp luật hình sự quy định trong bộ Quốc


Triều hình luật cũng tiếp nhận cả hai học thuyết hay tư tưởng pháp luật cổ phương
Đông tri phối pháp luật Trung Quốc. Đó là tư tưởng nhân trị và pháp trị. Triều đại nhà
Lê đã biết kết hợp cao nhất hai hệ tư tưởng này để dựa vào dó xây dựng bộ Quốc Triều
hình luật – Bộ luật tầm cỡ trong nền pháp luật cổ phương Đông, trở thành công cụ hữu
hiệu về chính trị, bảo vệ sự tập trung quyền lực vào nhà vua và về tư tưởng, chính thức
hóa tư tưởng Nho giáo thành hệ tư tưởng thống trị trong quảng đại quần chúng.

1


I, Nguyên tắc chiếu cố trong bộ Quốc triều hình luật
Nguyên tắc này thể hiện ở một số loại người và nội dung chiếu cố:
2. Chiếu cố theo địa vị xã hội

1.1. Cơ sở pháp lý
“Điều 3 bộ Quốc Triều hình luật quy định tám hạng người được nghị xét giảm tội
(bát nghị) gồm:
1. nghị thân, là họ tôn thất từ hàng đản miếu (họ hàng nhà vua trong 5 thế hệ) trở
lên, họ hàng thái hậu từ hàng phải để tang ty ma (hạng để tang 3 tháng), họ hàng thái
hậu từ biểu công (hạng để tang 5 tháng trở lên).
1.
Nghị cố là người cố cựu (chỉ những người cũ, đã theo giúp vua lâu ngày hoặc
những người giúp vua từ triều trước).
2.
Nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn.
3.
nghị năng, là nhũng người có tài năng lớn.
4.
nghị công, là nhũng người có công huân lớn.
5.

Nghị quý, là những quan viên có chức sự từ tam phẩm trở lên, những quan
viên tản chức (chức quan nhàn tản, như chức học quan, hàn lâm) có tước từ nhị phẩm
trở lên.
6.
Nghị cần, là những người cần cù chăm chỉ.
7.
Nghị tân, là con cháu các triều vua trước.”
Nội dung nghị giảm được quy định cụ thể ở các điều 4, 5, 8 và 10, theo đó, Điều 4
quy định: “ Phàm những người thuộc vào tám điều nghị xét giảm tội này mà phạm tử
tội, thì các quan nghị án phải khai rõ nội dung và hình phạt nên xử thế nào, làm thành
bản tâu, dâng lên vua để vua xét định (cơ quan nghị án chỉ xét tình nghị tội cho đúng
với pháp luật mà không được quyết định). Từ tội lưu trở xuống thì được giảm một bậc.
Theo Điều 5: “Những họ hàng bà phi của hoàng thái tử từ đại công trở lên mà phạm tử
tội thì cũng phải làm thành bản tâu, dâng lên vua xét định, từ tội lưu trở xuống giảm
được một bậc, nếu tội thập ác, giết người, giam dâm, trộm cắp, cung cấm, ăn hối lộ, làm
trái phép thì không theo luật này”. Bộ Quốc Triều hình luật cũng quy định một người
phạm tội mà được hưởng nhiều điều luật, Điều 8 nêu rõ: “Một người phạm tội mà được
hưởng nhiều điều luật được giảm thì chỉ được hưởng theo điều luật nào giảm nhiều nhất
2


chứ không được giảm cả.” Điều 10 quy định: “Những tội nhân phải đưa đến các nơi đồ
lưu, nếu là bậc cựu thần có công huân ( như những người trước sau ở núi Chí Linh mà
chưa từng bỏ trốn) từ ngũ phẩm trở lên thì được miễn đi phục dịch, ngoài ra không cho
ai được như thế.”
1.2. Đánh giá về chiếu cố theo địa vị xã hội
Về chiếu cố theo địa vị xã hội của bộ Quốc Triều hình luật thể hiện bản chất
giai cấp của Bộ luật. Pháp luật thời nhà Lê tồn tại chủ yếu dưới dạng hình luật. Duy trì
và bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế là nhiệm vụ quan trọng của hình luật nhà Lê.
Đặc điểm cơ bản của chế độ quân chủ chuyên chế là sự tập trung quyền lực vào tay vua.

Tuy nhiệm vụ đó không được thể hiện cụ thể trong điều khoản nào của bộ Quốc Triều
hình luật nhưng các quy định về tội phạm và hình phạt đã phản ánh điều đó. Tại điều 3,
Bộ Quốc Triều hình luật đã nêu ở trên quy dịnh chính sách hình sự đặc biệt (giảm nhẹ)
cho 8 hạng người có đặc quyền, đặc lợi của tiều đại nhà Lê. Trong đó kể đến trước tiên
là những người thuộc gia dình hoàng tộc, những người kề cận bên nhà vua giúp việc lâu
ngày và cả những người giúp việc của các triều đại trước.Thuộc về 8 hạng người này
đương nhiên còn được kể đến những quan chức và cả con cháu các triều vua trước.
Theo điều luật này, nếu những người kể trên phạm tội bị xử tử hình thì cơ quan nghị án
không được quyết định xử tử hình mà phải trình lên nhà vua để vua xem xét và quyết
định. Nếu họ phạm vào các tội bị xử hình phạt nhẹ hơn thì đều được giảm tội theo quy
định. Quy định này thể hiện sự tập trung quyền lực cao nhất vào tay vua, không chỉ
quyền lập pháp mà ngay cả quyền tư pháp cao nhất, cũng như sự tập trung đặc quyền,
đặc lợi vào hoàng tộc, những người kề cận nhà vua và các quan chức cao cấp.
2. Chiếu cố theo tuổi tác, người tàn tật và phụ nữ

2.1.

Cơ sở pháp lý
Điều 16 Bộ Quốc Triều hình luật quy định: “Những người từ 70 tuổi trở lên, từ 15
tuổi trở xuống hoặc người bị tàn phế, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng
tiền, trừ khi phạm thập ác. Từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hoặc bị ác tật, nếu phạm
tội phản nghịch, giết người đáng tội chết, thì cũng phải tâu để vua quyết định, nếu ăn
trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc bằng tiền, còn ngoài ra thì không bắt tội.
Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống dầu bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào

3


xui xiểm thì bắt tội kẻ đó, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật ấy phải
bồi thường.

Điều 17 Bộ Quốc Triều hình luật quy định: “ Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến
khi già cả tàn tật việc mới được phát giác thì xử theo luật già cả, tàn tật. Khi ở nơi bị đồ
mà già cả, tàn tật thì cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử
tội theo luật lúc bé nhỏ.”
Trong lượng hình hoặc thi hành hình phạt đối với nữ phạm nhân, nhà làm luật đã
dành một số ưu đãi. Chẳng hạn: Theo điều 1, khi phạm tội đồ hoặc lưu, nam phạm nhân
bao giờ cũng bị đánh thêm trượng, còn nữ phạm nhân chỉ phải chịu tội roi. Theo điều
680, nữ phạm nhân tội tử tội xuy mà đang có thai thì phải đủ 100 ngày sau khi sinh con
mới được đem ro hành hình hoặc đánh roi.
2.2. Đánh giá về chiếu cố theo tuổi tác, người tàn tật và phụ nữ
Về chiếu cố theo tuổi tác, người tàn tật và phụ nữ của “Bộ Quốc Triều hình luật” đã
thể hiện tính nhân đạo của nhà làm luật. Tính nhân đạo được thể hiện trước tiên ở các
quy định phản ánh chính sách hình sự khoan hồng đối với người già, trẻ nhỏ và người
tàn tật. Như trên ta thấy, điều 16 Bộ Quốc Triều hình luật không quy định một mức độ
khoan hồng chung cho những người già từ 70 tuổi trở lên, trẻ em từ 15 tuổi trở xuống
và những người bị tàn tật, mà quy định các mức độ khoan hồng khác nhau tùy theo độ
tuổi và mức độ tàn tật của họ. Sự giảm nhẹ được tính tỷ lệ thuận với độ tuổi của người
già và tỉ lệ nghịch với độ tuổi của trẻ em. Tương tự như vậy, người phạm tội bị ác tật
được giảm nhẹ hơn người bị phế tật, cụ thể, đối với người từ 70 tuổi trở lên, từ 15 tuổi
trở xuống cùng người bị phế tật phạm tội ( trừ tội thập ác) từ lưu trở xuống đều cho
chuộc tội bằng tiền. Trong đó nếu người từ 80 tuổi trở lên, trẻ em từ 10 tuổi trở xuống
hoặc người bị ác tật phạm tội phản nghịch, giết người đáng tội chết thì phải tâu vua để
xét định, nếu ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm các
tội khác thì được tha. Còn đối với người từ 90 tuổi trở lên và 7 tuổi trở xuống nếu phạm
tội chết cũng được tha không bị hành hình.
Ngoài ra, tại điều 17 ta thấy “Bộ Quốc Triều hình luật” không căn cứ vào độ tuổi lúc
phạm tội, mà căn cứ vào độ tuổi khi bị phát giác phạm tội, mà có các quy định phù hợp
với độ tuổi bị phát giá. Qua các quy định trên cho thấy “Bộ Quốc Triều hình luật” đã
thể hiện chính sách hình sự đặc biệt nhân dạo đối với người phạm tội là người già, trẻ
4



em và người bị tàn tật, miễn cho họ phải chịu hình phạt tàn ác bằng cách cho họ được
chuộc tội bằng tiền hoặc tha tội nếu họ không phạm tội thập ác, tội phản nghịch hay tội
giết người với hình phạt được quy định là tử hình.
Ở một số điều luật quy định về loại, mức hình phạt áp dụng cho người phạm tội là
phụ nữ và điều kiện thi hành hình phạt đối với phụ nữ có thai cũng phản ánh tính nhân
đạo rõ nét. Chẳng hạn như điều 1 nêu ở trên, hình phạt đánh gậy chỉ áp dụng đối với
đàn ông phạm tội, còn đối với đàn bà phạm tội chỉ chịu tội roi hoặc quy định trong cùng
một bậc hình phạt khổ sai đàn bà phải chịu hình phạt kèm theo nhẹ hơn. Nếu đặt quy
định này của “Bộ Quốc Triều hình luật” trong mối liên hệ với quan niệm về địa vị thấp
kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia đình, người đàn bà so với người
đàn ông trong xã hội phong kiến thời bấy giờ, quy định này đã thể hiện sự tiến bộ một
cách vượt bậc. Tính nhân đạo được đặt biệt thể hiện ở quy định của điều 680 cho phép
hoãn thi hành hình phạt đối với phụ nữ có thai và trong thời gian 100 ngày sau khi sinh.
Tất cả những biểu hiện nêu trên đều được thể hiện dưới sắc thái khác trong luật hình
sự Việt Nam hiện đại. Tương ứng với tinh thần nhân đạo được nêu trong các quy định
trên, Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay đã có các quy định về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên, về tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với người
phạm tội là người già, người bị bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi của mình…Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay cũng quy định không áp
dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử…

KẾT LUẬN
Quốc Triều hình luật là thành tựu nổi bật về mặt lập pháp của Việt Nam trong thế kỷ
XV. Với cả bộ luật nói chung và nguyên tắc chiếu cố nói riêng cho thấy, tuy chịu ảnh
hưởng của luật nhà Đường Trung Quốc nhưng Quốc Triều hình luật vẫn có nhiều điểm
đặc sắc và tiến bộ cả về nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp. Quốc Triều hình luật – Bộ luật
đã góp phần đáng kể cho việc ổn định tình hình xã hội và củng cố nhà nước phong kiến

trung ương tập quyền, thật đáng để chúng ta , các thế hệ con cháu nâng niu, học tập.

5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
2. Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lí, Hà Nội, 1991
3. TS. Lê Thị Sơn, Quốc Triều hình luật – Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi 2004
4. Tạp chí nghiên cứu lịch sử

6



×