Lời mở đầu
Bộ Quốc triều hình luật là bộ luật hình chính thống và quan trọng nhất của triều đại
Nhà Lê (1428-1788);là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong trong lịch sử pháp
luật Việt Nam .Nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật trước đó
mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn vào thế kỉ XIX : Hoàng Việt Luật lệ do
Gia Long ban hành và cả những bộ luật của các nước phong kiến cùng thời trên thế
giới .Có thể nói rằng đặc sắc và nổi bật nhất trong Bộ Quốc triều hình luật là chế
định về hôn nhân và gia đình .Chế định hôn nhân và gia đình trong Bộ Quốc triều
hình luật là một đề tài rộng lớn và đã được rất nhiều nhà khoa học trong nước và
ngoài nước chọn làm đề tài nghiên cứu .
Trong khuôn khổ của một bài tập tuần ,với lượng kiến thức và khoảng thời gian có
hạn em chỉ xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ của nó đó là vấn đề “ Chế định hôn
nhân trong Bộ Quốc triều hình luật”.
Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn có được kiến thức đầy đủ,vững vàng
hơn về các quy định hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật,để tìm ra những điểm
hạn chế cũng như những điểm tiến bộ,đặc sắc của chế định hôn nhân trong Bộ
Quốc triều hình luật từ đó làm sáng tỏ nguyên nhân có được những điểm tiến bộ ,
đặc sắc như vậy ,góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam
Bài tập này là sự tìm tòi ,nghiên cứu ,là sự cố gắng của em trong suốt thời gian vừa
qua ,nhưng do kiến thức và thời gian có hạn nên chắc chắn còn có nhiều sai sót .Vì
vậy ,em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp xác thực của các thầy cô
Em xin chân thành cảm ơn !
A_Các điều luật quy định về hôn nhân:
Điều 2: (tội thứ 7 trong thập ác) Bất hiếu là…có tang cha mẹ mà lấy vợ ,lấy chồng
…
Điều 314 : Người kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha mẹ người con gái
( Nếu cha mẹ chết cả ,thì đem đến nhà trưởng họ hay nhà người làng để xin ) ,mà
thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn ,bắt
phải nộp tiền tạ cho cha mẹ ( nếu cha mẹ chết cả thì nộp cho trưởng họ hoặc
trưởng làng ),người con gái phải phạt 50 roi
Điều 315 : Gả con gái đã nhận đồ sính lễ ( như tiền ,lụa ,vàng ,bạc ,lợn , rượu ) mà
thôi không gả nữa thì bị phạt 80 trượng .Nếu đem gả cho người khác mà đã thành
hôn rồi thì sẽ bị xử tội đồ làm khao đinh .Người lấy sau biết thế mà vẫn lấy thì bị
xử tội đồ ,không biết thì không có tội .Còn người con gái thì phải gả cho người hỏi
trước ,nếu người hỏi trước không lấy nữa thì phải bồi thường gấp hai ; người con
gái được gả cho người hỏi sau .Nhà trai đã có đồ sính lễ rồi mà không lấy nữa thì
phải phạt 80 trượng và mất đồ sính lễ .
Điều 316 : Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt mình thì xử
phạt 70 trượng ,biếm ba tư và bãi chức
Điều 317 : Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc
cưới vợ thì bị xử tội đồ ,người nkhacs biết mà vẫn kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi
vợ chồng mới cưới phải chia lìa
Điều 318 : Trong khi ông bà cha mẹ đang bị xử tù tội mà lấy vợ lấy chồng thì đều
xử biếm ba tư và đôi vợ chồng phải li dị .Nếu ông bà cha mẹ cho phép thì chỉ được
làm lễ thành hôn mà không được bày ra cỗ bàn ăn uống ,trái luật thì xử biếm một
tư
Điều 319 : Người vô lại lấy cô dì,chị em gái ,kế nữ ( con gái riêng của vợ) ,lấy
người thân thích đều phỏn theo luật gian dâm mà trị tội
Theo “Thiên nam dư hạ tập “ ,chương điều lệ , có điều “Lệ giá thú phi loại” nói
rằng : Cùng họ trong vòng 5 bậc tang phục và cùng họ mà đã xa không có tang
phục ,là đồng tính ,cùng là con cô con cậu , đôi con gì ,con thấp không ngang , đều
cấm ,nếu là cháu cậu cháu cô thì không cấm ,kẻ vô loại lấy cô,gì ,chị em gái ,kế
nữ ,cùng người thân thích đều xử theo tội gian dâm
Điều 320: Tang chồng đã hết mà người vợ muốn thủ tiết ,nếu ai không phải là ông
bà cha mẹ mà ép gả cho người khác thì xử biếm ba tư và bắt phải li dị ,người đàn
bà phải trả về nhà chồng cũ ;người đàn ông lấy người đàn bà ấy thì không phải tội
Điều 321 :Vợ cả ,vợ lẽ tự tiện bỏ nhà chồng đi ,thì xử tội đồ làm xuy thất tỳ , đi rồi
lấy chồng khác thì phải xử tội đồ làm thung thất tỳ ,người và gia sản phải trả về
nhà chồng cũ .Người biết mà cứ lấy làm vợ thì bị xử tội đồ ,không biết không có
tội
Điều 322 : Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn ,nếu người con trai bị ác tật
hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép ngưòi con gái được kêu quan mà
trả đồ lễ .Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả đồ lễ ,trái luật
thì xử phạt 80 trượng
Điều 323 :Các quan và thuộc hạ lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả ,vợ lẽ ,
đều xử phạt 70 trượng ,biếm ba tư ,con cháu các quan viên mà lấy những người
phụ nữ nói trên thì xử phạt 60 trượng và đều phải li dị
Điều 324 : Là anh,là em ,là học trò mà lấy vợ của em ,của anh ,của thầy đã chết ,
đều xử tội lưu ,người đàn bà bị xử giảm một bậc ; đều phải li dị
Điều 333 : đã gả con gái rồi ,sau vì thấy người chồng nghèo khó mà bắt con gái về
thì xử phạt 60 trượng ,biếm hai tư ,con gái phải bắt trở về nhà chồng .Nếu con rể
lấy chuyện phi lí mà mắng nhiếc cha mẹ vợ , đem việc thưa quan sẽ cho li dị
Điều 334 : Các quan ty mà cùng với những người tù trưởng ở nơi biên trấn kết làm
thông gia thì phải tội đồ hay lưu và phải li dị ,nếu lấy trước rồi thì xử đoán khác
Điều 338 : Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân thì xử
phạt ,biếm hay đồ
Điều 339 : Những người mối lái đem đàn bà con gái có tội đương trốn tránh ,làm
mối cho người ta làm vợ cả ,vợ lẽ thì xử tội nhẹ hơn tội của chính người đàn bà ấy
một bậc ,người không biết thì không phải tội
B_ Phân tích
Từ những điều luật quy định về hôn nhân ở trên ,có thể rút ra những nội dung
chính về chế định hôn nhân trong Bộ Quốc triều hình luật như sau :
I,Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân :
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của bộ luật là :hôn nhân không tự
do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng.
1.nguyên tắc hôn nhân không tự do :Hôn nhân hầu hết xuất phát từ quyền lợi của
gia đình và dòng họ với mục đích duy trì sự giao kết giữa các dòng họ ;thờ phụng
tổ tiên và kế truyền dòng dõi tông tộc .Nội dung của nguyên tắc hôn nhân không tự
do là vấn đề hôn nhân được đặt dưới sự xem xét của người gia trưởng ,loại trừ sự
tự do cá nhân của hai bên tham gia hôn nhân .Việc ly hôn bị coi là bắt buộc khi
quyền lợi của gia đình ,dòng họ bị đe dọa (thất xuất:không có con , ác tật ,ghen
tuông,lắm lời ,dâm đãng ,trôm cắp ,không kính cha mẹ hoặc tam bất khứ : đã để
tang nhà chồng ba năm ,khi lấy nhau nghèo mà sau giàu ,khi lấy nhau có bà con
mà nay bỏ thì không có bà con để trở về )
2,Nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ và chồng :Các quy định trong bộ Quốc triều
hình luật đề cao uy quyền tuyệt đối của người chồng và thừa nhận vị trí lệ thuộc
của người vợ
3, Đề cao quyền của cha mẹ ,chồng ,vợ cả : Khuôn mẫu lí tưởng của trật tự gia
đình là sự phục tùng tuyệt đối của người dưới với người trên
II,Kết hôn
1, Điều kiện kết hôn :Trong quan hệ kết hôn ,luật quy định các điều kiện để có thể
kết hôn là : có sự đồng ý của cha mẹ (Điều 314) và không vi phạm các trường hợp
cấm kết hôn như : Không được kết hôn giữa những người họ hàng thân thích (Điều
319);Cấm kết hôn khi đang có tang cha mẹ hay tang chồng (Điều 317);Cấm kết
hôn khi ông ,bà,cha,mẹ đang bị giam cầm ,tù tội (Điều 318);một số trường hợp khi
cuộc kết hôn đó có thể gây ảnh hưởng đến vương quyền ,trật tự đẳng cấp xã hội
,xâm phạm những nguyên tắc đạo đức chủ yếu và trật tự xã hội (Điều
324,316,323,334,338,339)
Tuy nhiên Bộ Quốc triều hình luật không quy định tuổi kết hôn ,mặc dù trong
Thiên Nam dư hạ tập (phần Lệ Hồng Đức hôn giá )có viết : “Con trai 18 tuổi,con
gái 16 tuổi mới có thể thành hôn”
2,Hình thức và thủ tục kết hôn : Được quy định tại các điều 314, 315, 322 .Hình
thức và thủ tục kết hôn có hai giai đoạn là đính hôn và thành hôn .Các quy định
trong bộ luật cho thấy cuộc hôn nhân chỉ có giá trị pháp lí từ sau lễ đính hôn .Ví dụ
điều 315 quy định : “Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì
phải phạt 80 trượng …còn người con gái phải gả cho người hỏi trước” .Tuy
nhiên ,nếu trong thời gian từ lễ đính hôn đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị
ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn .
Cuộc hôn nhân có giá trị thực tế sau lễ thành hôn .Bộ Quốc triều hình luật không
quy định thủ tục thành hôn ,có lẽ do nhà làm luật dành vấn đề này cho phong tục
tập quán ,hoặc do thủ tục thành hôn cũng đã được quy định tỉ mỉ trong Lệ Hồng
Đức hôn giá
Với việc quy định kết hôn phải qua đính hôn rồi đến thành hôn mà không cần phải
lập văn tự hôn thú ,nhà làm luật triều Lê đã rất chú trọng đến phong tục tập quán
của người Việt
3,Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi kết hôn :Vợ và chồng có nghĩa vụ
chung sống với nhau tại một nơi và phải thực hiện đày đủ quan hệ vợ chồng .Hành
vi “ bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại”của người chồng là vi phạm nghĩa vụ phải
thực hiện đầy đủ quan hệ vợ chồng ,vì vậy người chồng bị “mất vợ”(nếu đã có con
thì hạn 1 năm ) ;người vợ có nghĩa vụ chung thuỷ với chồng ,nghĩa vụ để tang
chồng và có quyền được giảm hình phạt theo quan phẩm của chồng
4,Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng : Quốc triều hình luật,phần chế định hôn nhân
không có một điều khoản cụ thể nào quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
nhưng qua các điều 374,375,376 và một số điều luật khác ta có thể thấy Bộ luật
thừa nhận 3 loại tài sản ruộng đất của vợ chồng cùng song song tồn tại :
_Tài sản ruộng đất của vợ
_Tài sản ruộng đất của chồng
_Tài sản ruộng đất của vợ chồng cùng tạo nên trong thời kỳ hôn nhân
Đồng thời với việc quy định về quyền sở hữu ruộng đất như trên ,Bộ Quốc triều
hình luật còn quy định quyền thừa kế tài sản ruộng đất giữa vợ và chồng .Khi
người vợ hoặc người chồng chết,người còn sống vẫn được giữ nguyên quyền sở
hữu cá nhân đối với tài sản ruộng đất của riêng mình .Còn tài sản ruộng đất của hai
vợ chông cùng làm nên trong thời kỳ hôn nhân được chia làm 2 phần bằng nhau,vợ
và chồng mỗi người một phần.Phần của người chết được chia cho những người
thừa kế cùng với tài sản ruộng đất riêng của người chết .Vấn đề tài sản giữa vợ và
chồng sau khi ly hôn không được Bộ Quốc triều hình luật quy định một cách rõ
ràng
III,Chấm dứt hôn nhân
Bộ Quốc triều hình luật quy định hôn nhân chấm dứt khi một trong hai trường
hợp :do một bên vợ hoặc chồng chết trước ,do ly hôn .
1,Hôn nhân chấm dứt do vợ hoặc chồng chết trước :Hậu quả pháp lí: _Quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt .Cần lưu ý là quan hệ hôn nhân chỉ thực sự
chấm dứt ngay nếu người chết là vợ ,còn nếu người chết là chồng thì nó chỉ chấm
dứt sau khi mãn tang.Quy định này được đặt ra một cách gián tiếp trong các điều 2