Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.69 KB, 103 trang )

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC...............................................................................................................1
..................................................................................................................................2
MỞ ĐÀU.................................................................................................................2


2

MỞ ĐÀU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, mảng văn học viết về đề

tải Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống đóng góp một phần quan
trọng. Quan sát quá trình sáng tác của một số cây bút trưởng thành trong
lực lượng công an thì không thể không nhắc đến Nguyễn Hồng Thái với
những đóng góp đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà.
Bằng tài năng và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, ông đã cho ra đời
những đứa con tinh thần rất đa dạng về thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch bản phim, ký sự, thơ... Song trong số đó, truyện ngắn là thể loại được
coi là thế mạnh của nhà văn, đã giúp ông khẳng định được vị trí của mình
trên văn đàn.
Qua những trang viết của Nguyễn Hồng Thái hiện thực cuộc sống
hiện lên và được khám khá dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Những trang
viết ấy hấp dẫn bạn đọc không chỉ bởi cái tài của một người cầm bút mà
còn bởi trái tim ấm nóng, giàu tình thương và luôn trắc ẩn với cuộc đời.
1.2. Nguyễn Hồng Thái là một nhà văn có những đóng góp đáng ghi


nhận trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở mảng đề tài Vì an
ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, nhưng qua khảo sát, chúng tôi nhận
thấy cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống về Nguyễn Hồng Thái và sáng tác của anh.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.


3

Hy vọng với kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho bạn đọc có thêm một
cái nhìn và sự hiểu biết sâu hơn về các tác giả và những sáng tác văn học
trong lực lượng công an.
2. Lịch sử vấn đề

Là cây bút bước vào đời văn với quan niệm “Bất hồ tinh bất quý hồ
đa” (coi trọng chất lượng hơn số lượng). Không quá đa dạng về thể loại,
không đạt ấn tượng về số lượng nhưng đủ để lại dấu ấn về nội dung tác
phẩm. Trong hành trình sáng tác của mình, Nguyễn Hồng Thái có những
đóng góp đáng ghi nhận đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Đã có rất
nhiều kiến bàn luận về những sáng tác của Nguyễn Hồng Thái của các nhà
văn, các nhà nghiên cứu, phê bình của bạn đọc. Ở đây xin tập điểm lại các
ý kiến bàn luận về truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
Tiêu biểu là bài viết của nhà văn Xuân Thiều khi viết về Nguyễn
Hồng Thái và tập truyện đầu tay của anh với nhan đề: “Một cuốn sách đầu
tay đáng đọc”. Bài viết đã giới thiệu khá chi tiết, đầy đủ về chức danh, nơi
công tác và hoạt động của nhà văn Nguyễn Hồng Thái. Đặc biệt, tập truyện
ngắn Đổi mặt được trao giải Nhất - giải thưởng Cây bút vàng của Bộ Công
an. Cả tập truyện có sức lôi cuốn độc giả mạnh mẽ bởi tính hấp dẫn “truyện
Nguyễn Hồng Thái viết rất có hồn, câu văn chọn lọc, tạo được hình ảnh và

cảm xúc cao” [28]. Trong bài viết nhìn từ góc độ tiếp cận tính đặc thù của
loại truyện vụ án, truyện hình sự, Xuân Thiều đã phát hiện, khẳng định tài
năng và những đặc sắc trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái. Trong 14
truyện chúng ta sẽ không thấy những pha ly kỳ, những vụ án phức tạp gợi
trí tò mò, những cuộc săn đuổi thủ phạm gay cấn mà nhà văn Nguyễn Hồng
Thái tỏ ra cao tay hơn, anh nói về tình đời tình người. Đồng thời, Xuân
Thiều cũng khẳng định thành công trong nội dung cốt truyện của Nguyễn
Hồng Thái luôn có sự đan cài tinh tế giữa nhân vật với các địa danh cụ thể,
thân quen có thật. Chính vì vậy mà bối cảnh truyện sổng động, khiến người


4

đọc băn khoăn giữa hư và thực để rồi mỗi khi đọc xong lại trầm ngâm suy
nghĩ về một con người, mẫu người nào đó bước ra từ trang sách của anh.
Bài viết Ấn tượng Nguyễn Hồng Thái của Bùi Việt Thắng cho bạn
đọc nhận thấy một ưu điểm trong nghiệp viết của Nguyễn Hồng Thái là
luôn lôi cuốn và chinh phục độc giả bằng câu chuyện tình cảm. Có thể nói
cái tình là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả 11 truyện ngắn trong tập Ngôi nhà trên
triền sông. Truyện ngăn của anh luôn “chắt chiu cái đẹp, dù có thể nó nhỏ
nhoi, dù nó có thê chăng quan trọng với người đời trong cuộc sống mưu
sinh hiện nay. Vì thê truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái có sức mạnh
thanh lọc tâm hồn con người” [27]. Ấn tượng khi đọc Nguyễn Hồng Thái là
anh rất quan tâm đến việc sáng tạo các tình huống truyện, đó là “tình huống
khó xử” như trong truyện Người không gõ cửa, qua cuộc gặp gỡ bất ngờ
của ông Tịnh (Trưởng thôn vùng đất du lịch nổi tiếng) với Thùy Trang
(một Tổng Giám đốc)... Những tình huống “đối mặt” như thế từng được tác
giả vận dụng sáng tạo khi viết truyện ngắn mà độc giả từng nhận biết từ
thời anh viết Đổi mặt. Đặc biệt, nhân vật truyện ngắn của anh thường gắn
với một miền quê cụ thể nào đó rất đỗi thân thiết, vì thế nên truyện rất gần

gũi với thiên nhiên và thấm đẫm hương quê. Bởi vậy, Ngôi nhà trên triền
sông luôn "vẹn nguyên một ấn tượng tin tưởng vào những mầm thiện tốt
tươi mà Nguyễn Hồng Thái đã gieo mầm trong từng câu chữ, trên từng
trang sách" [27].
Bên cạnh đó còn có một số bài viết được đăng tải trên báo mạng điện
tử của nhà xuất bản Công an nhân dân như bài Nhà văn Nguyễn Hồng Thái
của Nguyễn Trọng Tạo. Bài Thượng tá, Nhà báo Nguyễn Hồng Thái: “Thư
ký tòa soạn như một chiếc... nắp cống” của Hà Vân...
Các bài viết này đã giúp người đọc hình dung ra hình ảnh người chiến
sĩ công an - nhà văn Nguyễn Hồng Thái rất gần gũi, chân phương, rất yêu
nghề cũng như rất tâm huyết với nghiệp văn chương.


5

Điểm qua các bài viết, các kiến, phê bình về văn chương Nguyễn
Hồng Thái chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có tác giả nào đặt vấn đề
nghiên cứu một cách có hệ thống thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái. Bởi vậy, đây là một hướng nghiên cứu còn để ngỏ
chưa được tìm hiểu thích đáng. Thực tế đó gợi cho chúng tôi đi sâu vào đề
tài này. Người viết hy vọng đóng góp một phần nhỏ trong quá trình tìm
hiểu, khám phá như một cách tiêp cận để tìm hiểu về một cây bút tài năng
nhưng khiêm tốn này.
3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái, luận văn
nhằm tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật phong phú trong các truyện
ngắn của ông. Từ đó khẳng định vị trí của nhà văn trong mảng văn học viết
về đề tài An ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sổng nói riêng, chỗ đứng của
nhà văn trong văn đàn văn học Việt Nam nói chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày những vấn đề lý thuyết về nhân vật.
- Xác định và chỉ ra đặc điểm các loại nhân vật.
- Chỉ ra nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1.

Đối tượng nghiên cứu
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái

5.2.

Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, thống kê phân tích toàn bộ truyện ngắn

của Nguyễn Hồng Thái được in trong hai tập Đổi mặt (Nxb Công an nhân
dân, 2000) và Ngôi nhà bên triền sông (Nxb Công an nhân dân, 2010).
Để thấy được những nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật
khắc họa chân dung nhân vật, tính cách nhân vật... trong truyện ngắn của


6

Nguyễn Hồng Thái chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu
biểu của những tác giả đi trước, cùng thời viết về đề tài Vĩ an ninh Tổ quốc
và bình yên cuộc sổng như nhà văn: Lê Tri Kỷ, Hữu Ước, Nguyễn Quang
Thiều... để làm nổi bật thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ông.
6.


Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phối hợp và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu

khoa học sau:
+ Phương pháp thống kể - phân loại: Khảo sát thống kê toàn bộ hệ
thông nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái từ đó tiến hành
phân loại nhân vật theo những tiêu chí riêng.
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp: Tiến hành phân tích cụ thể các
khía cạnh thuộc về vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Hồng Thái.
Từ đó tổng hợp lại rút ra những kết luận cần thiết theo yêu càu của luận
văn.
+ Phương pháp so sánh - đối chiếu: Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa
các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái với nhân vật trong
một số truyện ngắn cùng viết về đề tài an ninh và cuộc sống của một số tác
giả cùng thời để thấy được những sáng tạo của nhà văn.
+ Phương pháp loại hình: Vận dụng những kiến thức lý luận về thể
loại truyện ngắn làm tiền đề cho việc đi vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể
về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
7.

Dự kiến đóng góp của luận văn
- Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Hồng Thái, luận văn mong muốn tìm

ra những đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong truyện ngắn của ông để bước đầu có một cái nhìn tương đối hệ thống,
toàn diện về nhà văn và sáng tác của ông.
- Đánh giá những đóng góp của nhà văn ở mảng đề tài Vĩ an ninh Tỏ
quốc và bình yên cuộc sống, qua đó khẳng định tài năng và vị trí của



7

Nguyễn Hồng Thái trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
8. Dự kiến bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn
dược dự kiến triển khai thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về nhân vật văn học và
hành trình sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
Chương 2: Quan niệm nghệ thuật về con người và các kiểu nhân
vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái.


8

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SÓ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HỒNG THÁI

1.1.

Quan niệm chung về nhân vật văn học

1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Điều cốt yếu đối với truyện ngắn là nhân vật. Nhân vật là “con người
hoặc sự vật được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn

học” [1,tr281]. Nhân vật truyện ngắn có thể là con người có tên, có thể là
những người không có tên hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như
tôi, ta,...). Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một
cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng
hạn, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm “Chiếc quan tài” của Nguyễn
Công Hoan...
Có ý kiến cho rằng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả,
nhưng cũng có ý kiến ngược lại. Theo chúng tôi, quan niệm này cần được
hiểu một cách linh động hơn. Nhân vật là con đẻ của nhà văn nên tất nhiên
phải là hình bóng, là hiện thân tư tưởng của nhà văn. Trong xây dựng nhân
vật, nhà văn muốn nhân vật thành nơi chở tư tưởng của mình, gửi gắm
những ý tưởng của mình về đời người và người đời. Nhưng dù nhân vật có
là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn, thì nhân vật cũng không bao
giờ là hình hài của tác giả, là đồng nhất với tác giả. Bởi lẽ, khi nhà văn tạo
ra nhân vật, nghĩa là đã cho nhân vật một đời sống riêng, một định mệnh
riêng, từ đó nhân vật sẽ định liệu số phận của mình. Võ Phiến cho rằng


9

“Tác giả tạo ra một nhân vật có cá tính hẳn hoi, mở đầu quyển truyện cho
nhân vật khởi sự cuộc đời, rồi kết cục cuộc đời sẽ ra sao là tùy nhân vật tự
định liệu lấy. Nhân vật cứ làm chủ lấy định mệnh của mình và tự do hành
động theo bản tính” [11,tr15].
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có
những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề
nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu
ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật
thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Nhân vật có thể được miêu tả kỹ hay
sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường

xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng
nhiều lắm đối với tác phẩm.
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá
trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà
họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc
sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người
trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh
có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có
nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị
Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần nhớ: nhân vật văn học là một sáng
tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc
nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng:
"Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản
dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù
hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả" [11,tr15].
Nhân vật văn học luôn gắn liền với cốt truyện vì nó được miêu tả qua
các biến cố, mâu thuẫn, xung đột. Đó là những mâu thuẫn nội tâm của nhân


10

vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này và nhân vật kia,… Nhờ được miêu tả qua
xung đột, mâu thuẫn nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân
vật văn học là một chỉnh thể vận động có tính cách được bộc lộ dần trong
không gian, thời gian và mang tính quá trình.
Nhân vật không chỉ là một hằng số minh họa cho tư tưởng của tác giả
theo luận đề có sẵn mà còn là “một biến số tương hợp với tầm đón đợi của
người đọc” [11,tr16]. Do đó sẽ không bao giờ có nhân vật nào là mẫu số
chung cho mọi thời mà nó luôn chuyển hóa theo sự tiếp nhận của người

đọc ở mỗi thời. Nhân vật phải là một biến số, nghĩa là tự nó phải luôn có sự
chuyển hóa để thích nghi với những biến sinh của đời sống thì mới tạo
được sức sống trong lòng người.
Nhân vật trong truyện ngắn không giống với các nhân vật thuộc các
thể loại văn học khác. Ngoài việc được thể hiện bằng chất liệu riêng là
ngôn từ thì loại nhân vật này còn được xây dựng với đặc thù riêng. Nó
không thiên về cảm xúc như trong thơ trữ tình, không chủ yếu là hành
động, ngôn ngữ như trong kịch. Nhân vật truyện ngắn là tổng hòa của các
yếu tố trên. Tuy vậy, tác giả được quyền nhấn mạnh một vài yếu tố hơn
những cái khác. Tuy vậy, dù thế nào, nhân vật truyện ngắn cũng phải thấm
đẫm chất vị chân thực và nóng bỏng của đời thực. Nhà văn chỉ có thể xây
dựng nhân vật bằng chính vốn sống và sự hiểu biết về nhân vật, để nhân vật
luôn có mối liên hệ với cuộc đời. Nó là hình bóng của con người, có tác
động đến lối sống của con người. Trong phương thức xây dựng nhân vật,
dù theo quan niệm nào, phương thức nào thì nhân vật cũng bắt nguồn từ
cuộc đời thực và phải độc lập với tác giả. Nhân vật phải có đời sống riêng,
số phận riêng phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật và logíc của
đời sống. Có như thế nhân vật mới có sức sống lâu dài trong lòng người
người đọc. Nếu đem nhân vật kiểm chứng ở ngoài đời sẽ thấy lối sống của
nhân vật đã thấm vào người đời, lối sống ấy càng bền bao nhiêu, truyện


11

càng sống lâu bấy nhiêu, và nhân vật hiện hình ở rất nhiều người ngoài đời.
Nhà văn sống với cuộc đời và mỗi nhịp sống như thế là một căn bản sáng
tạo. Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giới nhân vật
phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. Cuộc sống vẫn
luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn. Nhà văn luôn tìm thấy ở cuộc
đời những chất liệu để xây dựng tác phẩm, xây dựng nhân vật. Cho nên

nhân vật vừa là sản phẩm lại vừa là chủ thể tác động đến cuộc sống. Trong
cuộc đời không hiếm những con người lấy nhân vật làm khuôn mẫu, làm lẽ
sống. Những nhân vật lý tưởng nhiều khi có sức ám ảnh rất lớn đối với con
người ngoài cuộc đời. Nhưng không vì thế mà đồng nhất nhân vật với con
người ngoài cuộc đời. Bởi đó là nhân vật của hư cấu và tưởng tượng, là
nhân vật có tính chất điển hình được xây dựng theo quan niệm nghệ thuật
của nhà văn.
Đồng thời, vì truyện ngắn ít nhân vật, nhà văn không thể miêu tả quá
trình phát triển tính cách của nhân vật từ trưởng thành, biến đổi, đấu tranh
hay dằn vặt như trong tiểu thuyết nên chỉ đi sâu vào một vài khía cạnh, một
thời điểm trong cuộc đời nhân vật. Vì vậy, nhân vật trong truyện ngắn đòi
hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một
con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó và thường ghi
nhớ nhân vật với một vài điểm nổi bật nhất mà thôi.
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học
Dù dưới góc nhìn nào thì các nhà nghiên cứu đều có chung điểm
nhìn về nhân vật văn học, đó là sự khẳng định vị trí, vai trò của nhân vật
văn học trong mỗi một tác phấm nghệ thuật. Các nhà phê bình, nghiên cứu
văn học đều tập trung làm sáng tỏ tầm quan trọng của nhân vật văn học đối
với một tác phẩm văn chương. “Nhân vật là nơi thử thách nhà văn nhiều
nhất. Nhà văn phải bồi da đắp thịt thổi sức sống cho nó, bắt nó phục vụ tư
tưởng của mình” [14,tr105].


12

Những nhà phê bình, nghiên cứu cho rằng nhân vật văn học là thành
tố quan trọng trong tác phẩm văn học, là phương tiện để nhà văn giãi bày,
phản ánh, soi chiếu hiện thực đời sống vào trong từng trang viết thông qua
việc tạo dựng nên những nhân vật văn học. Nhân vật văn học chính là sản

phấm tinh thần của mỗi nhà nghệ sĩ. Nhà văn khi xây dựng nhân vật văn
học đã gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm của mình về con người,
về đời sống, về xã hội. Cho nên, nhân vật văn học chính là nơi để tác giả
giãi bày tâm tư của mình. Nhân vật văn học có vị trí thiết yếu đảm bảo cho
việc miêu tả thế giới của văn học mang tính hình tượng và có chiều sâu.
“Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của đời sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kỳ vọng về con người”
[17,tr25]. Nó dẫn độc giả vào các môi trường khác nhau của đời sống, đồng
thời còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về
con người. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với
những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm
hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách
của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn
mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là
các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân
vật đó. “Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong
xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới
hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng
tự do, công lí...Trong “Chí Phèo” của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể
hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực
dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề
đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp
của con người...Như vậy, có thể hiểu nhân vật văn học có chức năng thể
hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới con người, tạo nên mối


13

liên kết giữa các sự kiện trong tác phấm. Cho nên, nhân vật văn học chính
là một hh ình thức khái quát đời sống” [11,tr19]. Thông qua mỗi nhân vật,

độc giả sẽ thấy được nội dung của đời sống và nội dung tư tưởng thể hiện
trong tác phẩm.
Nhân vật văn học thể hiện quan niệm của nhà văn về con người, cũng
là phương tiện để nhà văn khái quát tính cách số phận con người nên giữa
nhân vật và con người có mối quan hệ thống nhất với nhau. Tuy nhiên,
nhân vật văn học bao giờ cũng mang tính ước lệ, không thể đồng nhất nhân
vật văn học với con người có thật ngoài đời. Hơn nữa: “Nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con
người sống mà là những hình tượng được khắc họa với ý đồ nghệ thuật của
nhà văn” [11,tr16]. Như vậy, nhân vật văn học là đối tượng mà thông qua
đó nhà văn chuyển tải được toàn bộ tư tưởng nghệ thuật của mình. nhân vật
văn học chỉ là phương tiện để nhà văn bày tỏ cảm xúc của mình và là cầu
nối để tác giả đến với độc giả chứ nhân vật văn học không phải là bản chất,
là chính con người nhà văn; “Nó là một hiện tượng, một đơn vị nghệ thuật
được sáng tạo theo những ước lệ văn học. Ngay cả khi nhà văn xây dựng
nhân vật dựa khá sát vào nguyên mẫu, thậm chí giữ lại cả danh tính của
nguyên mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tượng đó với nhau”
[11,tr19].
Khi nhận định, đánh giá về vị trí của nhân vật trong tác phấm, các
nhà phê bình, nghiên cứu, các nhà văn còn làm sáng tỏ vai trò của nhân vật
trong tác phẩm truyện ngắn. “Cũng như tiểu thuyết, truyện ngắn sống bằng
nhân vật. Ở một góc độ nào đó mà xét thì nhân vật sáng tạo nên cốt truyện,
cốt truyện chính là sự phát triển của tính cách...”.[9,tr232]. Nhân vật truyện
ngắn có chức năng khái quát tính cách của con người, miêu tả và khái quát,
các loại tính cách xã hội. Nó có chức năng khái quát những tính cách, hiện
thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Trong quá


14


trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà
họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc
sống. Nhân vật thành công là nhân vật có nét riêng, có sự hư cấu, giúp bộc
lộ quan điểm của nhà văn nhưng lại phù hợp với thời đại, không xa lạ với
người đọc.
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Từ những gốc độ khác nhau người ta có thể chia nhân vật văn học
thành nhiều kiểu loại khác nhau:
- Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật, có thể chia
thành các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện
(nhân vật tiêu cực). Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng
chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện
được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho
tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm
mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ở
đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại
nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của
nhà văn. Ở đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện.
Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái
ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án.
Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như
trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân
vật thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết
liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt
đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học hiện
đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật



15

phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói
chung và con người nói riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ
mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối
với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu...Những nhân vật như
Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài Gòn...là những nhân vật có bản chất
tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin cho
rằng: cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện
lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái
nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có
ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải
xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh
hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân
vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều
góc độ, với nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm
chất chính diện hoặc phản diện.
- Xét từ góc độ kết cấu, có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật
chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật giữ vai
trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ơí đây, nhà văn
thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình
phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu
lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải
quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ. Nhân vật
chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn
đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính
thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là
nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật
trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của Cervantes, Anna
Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của



16

Nguyễn Du...Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại
đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật
giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt
truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật phụ phải
góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ
nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả
đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo
nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh.
- Xét từ góc độ thể loại, có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ
tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. Nhân vật trữ nói lên những cảm xúc,
ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và con người được thể hiện
trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất
hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình
tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc
sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn,
nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm
trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp
nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu,
khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân
vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa
trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập
vai. nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt nhất; có thể
được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú.
Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều
giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm

tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và
trong xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt,


17

toàn diện và sinh động, nhiều màu sắc thẩm mĩ. Do tính chất phản ánh rộng
lớn và bao quát, hệ thống chi tiết trong tác phẩm tự sự cũng phong phú và
đa dạng, mang chất "văn xuôi". Ở đây, có thể bắt gặp những chi tiết về
chân dung, ngoại hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật, dời sống
lao động sản xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực,
tưởng tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác. Nhân vật
kịch là nhân vật thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động. Nó được
hình thành là do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi
nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải
bằng ngôn ngữ miêu tả. Do đó, tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi
bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển
nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay
quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương
măt của nhân vật sinh động và đa dạng. Nhân vật của kịch thường chứa
đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên
khi đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và
vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn,
dằn vặt...Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học
khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch.
Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa
nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
- Xét từ góc độ chất lượng miêu tả, có thể phân thành các loại: nhân
vật, tính cách, điển hình. Nhân vật là những con người nói chung được
miêu tả trong tác phẩm. Ơí đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu lên một vài chi

tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm nét.
Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như
một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện muôn màu,
muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật. Ðiển hình là tính cách đã đạt


18

đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái
khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được
áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau.
Ngoài những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái
niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. chẳng hạn, khái
niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân
vật-con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi nhân vật trong các
trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây..
1.1.4. Vài nét về đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Tiến trình lịch sử văn học viết Việt Nam cho thấy; văn học trung đại
ưa xây dựng con người vô ngã. Văn học 1930 – 1945 thích con người bản
ngã. Văn học 1945-1975 do chiến tranh nên văn học quan tâm đến con
người quần chúng, sử thi và anh hùng ca. Văn học đương đại quay trở lại
con người bản ngã, con người đời tư, con người với vô số bi kịch, nó tiếp
nối văn học 1930-1945. Sau 1975, đất nước chuyển đổi trên nhiều phương
diện trong đó có đời sống văn hoá, tư tưởng. Chiến tranh kết thúc, văn học
cựa mình thay đổi, nhất sau Nghị quyết của Đại hội VI của Đảng và tiếp
theo nghị quyết 05 của Bộ chính trị, cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó
đã thổi một luồng gió mới ào ạt vào đời sống văn học nước nhà.
Bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch…truyện ngắn trở thành một thể

loại rực rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó được xem là một “cú hích”
mạnh mẽ và khả quan, tạo nên một phản ứng dây chuyền, có tác dụng
“kích nổ” sự phát triển truyện ngắn với rất nhiều gương mặt tiêu biểu như:
Vũ Thị Thường, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị Hảo, Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Thị Ấm, Lê Minh Khuê, Thái Bá Tân, Phạm Thị Thu Huệ, Phan


19

Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thế Hùng, Phùng Văn Khai, Đỗ
Bích Thủy, Đỗ Hoàng Diệu, Bích Ngân, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Thị
Diệp Mai, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Ngọc
Tư…Ngòi bút của các nhà văn thay đổi trên nhiều phương diện, trong đó
đặc biệt chú ý nhất là thay đổi về con người và cách xây dựng nhân vật.
Đây là một bước chuyển quan trọng cho truyện ngắn.
Ứng với mỗi giai đoạn văn học có một cách cách xây dựng nhân vật
khác nhau. Văn học chống Pháp và chống Mỹ gắn với cảm hứng ngợi ca,
con người xã thân vì quê hương đất nước, ý nghĩa cuộc đời gắn bó với cộng
đồng, con người sống với cái “Ta” to lớn, không hoặc ít đối diện với cái
“Tôi” nhỏ bé của chính mình, không gian cộng đồng chiếm ưu việt hơn hết
cả. Sau 1975, con người bắt đầu có ý thức nhìn ngắm lại chính mình. Văn
học không còn hô hào, nói về cái lớn lao mà đào sâu vào cái “Tôi”, cái lẫn
khuất bên trong được khui mở. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các
nhà văn đã hướng vào thế giới nội cảm, khám phá chiều sâu tâm linh, thấy
được ở mỗi cá nhân những cung bậc tình cảm. Chính vì vậy, truyện ngắn
đã nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống con người dưới
cái nhìn đa chiều kích. Milan Kundra nói rằng; “con người là hiền minh
của lưỡng lự…con người qủa là đa dạng, phong phú” [2,tr311]. Vì thế, nhà
văn thể hiện con người ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà văn chuyển

hướng cách nhìn nhận, cách cảm và cách đánh giá con người đựơc coi tự
làm mới mình về mặt nhận thức, tư duy bản thể con người. Con người luôn
phải tự đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngã rẽ của xã hội hiện đại,
hậu hiện đại. Nhà văn là người đau đời nhất, vì thiên chức của nhà văn làm
cho con người trở nên người hơn, bởi trong mỗi con người bao giờ cũng
tồn tại hai mặt: đẹp – xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, yêu – ghét, vui –
buồn, trong sáng – tối tăm, hạnh phúc – khổ đau, tự nhiên – xã hội. Ở đó,
con người đứng trên ranh giới nhỏ nhoi nếu không khéo sẽ bị ngã về phía


20

con người tự nhiên, ngược lại con người sẽ hướng về phía con người xã
hội. “Đò ơi” của Nguyễn Quang Lập, “Biển cứu rỗi” của Võ Thị Hảo,
“Cánh đồng bất tận”của Nguyễn Ngọc Tư…
Nguyễn Minh Châu, nhà văn quân đội, người từ trong cuộc chiến đi
ra, một trong những tác giả tiên phong thay đổi cách xây dựng nhân vật.
Ông không còn xây dựng nhân vật một chiều mà nhìn nhân vật trong nhiều
mối quan hệ bộn bề phức tạp. Nhân vật của ông rất đa dạng, với việc dùng
nhân vật miêu tả con người tự thú, con người thức tỉnh, con người sám hối
và cả con người bản năng tính dục. Con người luôn khát khao vươn tới cái
chân - thiện - mỹ, tiêu biểu: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên
chợ Giát, Dấu chân người lính, Khách ở quê ra…
Nhắc tới văn học đương đại không quên nhắc đến tên tuổi Nguyễn
Huy Thiệp, một cây bút độc đáo, một hiện tượng văn học đã làm “vang
bóng một thời”, đến nay ông vẫn được bình chọn là người viết truyện ngắn
xuất sắc nhất. Với giọng văn sắc lạnh, gai góc, xương xẩu đến tàn nhẫn đã
đào bới xới tung lên những mảng tối, những góc khuất của mỗi thời, của
cuộc đời và của xã hội. Nguyễn Huy Thiệp trăn trở nhiều về đời tư và thế
sự, tình yêu và thù hận, sự sống và cái chết, nhưng bao giờ cũng để ngõ kết

thúc. Chính vì vậy nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn
luôn sống trong ốc đảo cô đơn, đau khổ đến tột cùng, đến bất tận, đó là
cách thể hiện độc đáo con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Ngoài việc đổi mới nội dung nhà văn còn làm mới hình thức nghệ
thuật bằng cách chuyển từ ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ đối thoại,
nhiều giọng, có sự tác động, hòa trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ
người kể, ngôn ngữ nhân vật. Đặc biệt do dung lượng nên ngôn ngữ truyện
ngắn khác hơn ngôn ngữ tiểu thuyết ở chổ; ngôn ngữ truyện ngắn cô động,
hàm súc, dồn nén, kiệm lời làm nên đặc trưng phong cách truyện ngắn hôm
nay. Thêm vào đó, truyện ngắn đương đại tạo ra sức hấp dẫn, tính bất ngờ,


21

ấn tượng đều do đi lạc kiểu kết thúc có hậu, tạo ra các kiểu kết thúc mới:
loại truyện có bắt đầu mà không có kết thúc: “Mê lộ” của Phạm Thị Hoài.
Loại truyện kết thúc có nhiều đoạn kết: “Vàng lửa” của Nguyễn Huy
Thiệp, “Nhân sứ” của Hòa Vang, “Dịch quỷ sứ” của Tạ Duy Anh, Nguyệt
cầm của Nguyễn Thị Ấm. Loại truyện kết thúc để ngõ: “Mùa hoa cải bên
sông” của Nguyễn Quang Thiều, “Hiu hiu gió bấc”, “Biển người mênh
mông”,…của Nguyễn Ngọc Tư, “Vàng Lửa”, “Con gái thủy thần”,… của
Nguyễn Huy Thiệp, “Phiên chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu. Loại truyện
kết thúc đối nghịch: “Trương Chi”, “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy
Thiệp, “Bảo lạc mùa” của Ngô Tự Lập.v.v..Nguyễn Huy Thiệp phát biểu:
“Trong truyện cổ người ta kể rằng khi hát xong câu hát cuối cùng…Trương
Chi đã nhảy xuống sông tự trẫm;…Tôi – người viết truyện này – căm ghét
sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Qủa thực cái kết ấy là tuyệt diệu và
cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi, tôi có
cách kết thúc khác. Đây chính là bí mật của riêng tôi” (Trương Chi).
Làm nên sự phong phú đa dạng trong quan niệm về con người và cách

xây dựng nhân vật, văn học sau 1975 phải kể đến đội ngũ sáng tác đông
đảo nữ giới. Sự đóng góp của các cây bút nữ vô cùng to lớn, làm hệ thống
nhân vật của truyện ngắn thêm phong phú, nói được tiếng nói riêng của
giới nữ. Nhìn lại văn học viết Việt Nam, thời trung đại, các nhà văn dù có
cố gắng xây dựng hình ảnh nhân vật mang nét riêng song vẫn ít khi thoát
hỏi cái nhìn của chế độ phong kiến hà khắc, với bốn chữ: “công, dung,
ngôn, hạnh”, “trọng nam khinh nữ”. Cách mạng tháng Tám thành công,
lịch sử dân tộc lật sang trang mới. Giai đoạn 1945 – 1975, trong xu thế
chung của thời đại, phụ nữ được giải phóng hoàn toàn và là lực lượng
không thể thiếu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Sau 1975,
hoàn cảnh xã hội thay đổi, lực lượng sáng tác nữ cũng có sự chuyển biến
cả về số và chất, điều đó dẫn tới hình ảnh nhân vật trong truyện ngắn của


22

họ mang tính hiện đại rõ rệt, nhất là nhân vật nữ. Ta có thể ví dụ trong
truyện ngắn của các gương mặt tiêu biểu: Phạm Thị Hoài, Y Ban, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thủy, Võ Thị Xuân Hà, Trầm Nguyên Ý
Anh, Nguyễn Thị Diệp Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư… Nhiều
tác phẩm của các nhà văn nữ đã có giải thưởng cao trong các cuộc thi
truyện ngắn. Đạt danh hiệu “thủ khoa” và “á khoa” trong lĩnh vực văn học
như: “Hậu thiên đường” của Nguyễn Thị Thu Huệ, “Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ” của Y Ban, “Người sót lại rừng cười” của Võ Thị Hảo, “Thị trấn hoa
quỳ vàng” của Trần Thùy Mai, “Gia đình bé mọn” của Dạ Ngân, “Bóng
đè” của Đỗ Hoàng Diệu, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư…Hệ
thống nhân vật của các nhà văn trở nên phong phú đa dạng và độc đáo. Ở
đó vừa có cái chung của thời đại vừa có cái riêng, cái cá biệt của mỗi tác
giả trong cảm thụ cuộc sống, tạo ra lối đi riêng trên con đường sáng tạo

nghệ thuật. Nhân vật đại đa số thể hiện vấn đề đời thường, thế sự và đạo
đức với sự khai thác sâu, toàn diện vào số phận cá nhân. Nó bắt kịp hơi thở
nóng hổi của cuộc sống, khai thác những vấn đề gay gắt, gai góc nhất của
cuộc sống, trong số phận mỗi cá nhân con người. Trong xây dựng nhân vật
của các nhà văn, nhân vật được nhìn nhận mọi thứ từ nhiều góc độ, trong
các mối quan hệ vô cùng phức tạp, cái xấu, cái tốt đan xen trong con ngời
một cách lẫn lộn. Nhưng đó mới chính là sự hiện hữu khuôn mặt thực của
cuộc sống hiện nay. Chính vì vậy mà văn học lúc này thực hơn và đời
hơn. Hình thức truyện ngắn cũng đa dạng hơn với truyền kì hiện đại, giả
cổ tích, truyện ngắn – kịch, truyện cực ngắn, truyện ngắn triết luận. Về
ngôn ngữ và phương thức trần thuật cũng có nhiều thủ pháp mới như: tăng
cường đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện.
Tất cả những điều đó đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho nhân vật trong
truyện ngắn.


23

1.2.

Hành trình sáng tác của Nguyễn Hồng Thái

1.2.1. Tiểu sử Nguyễn Hồng Thái
Tác giả Nguyễn Hồng Thái có các bút danh là: Nguyễn Thái Hồng,
Nguyễn Thái Hưng. Ông sinh ngày 12-12-1961. Quê gốc: Làng Cung, Xã
Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An.
Ông từng là học sinh hệ chuyên Văn trường chuyên Phan Bội Châu,
Nghệ An, đoạt giải học sinh giỏi văn toàn quốc, là sinh viên khoa Ngữ văn,
trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, sau đó vào công tác trong lực lượng
CAND. Trong thời gian công tác ở lực lượng CAND, ông đã từng làm

công tác cơ mật và tham gia viết báo, viết văn rồi chuyển sang làm sỹ quan
An ninh thuộc Cục An ninh Văn hoá tư tưởng, Bộ Công an. Trong thời
gian này, ông vẫn viết báo và sáng tác truyện .
Sau khi đoạt giải cao về báo chí và văn học, ông chuyển hẳn làm báo
chuyên nghiệp tại báo Công an Nhân dân-chuyên đề An ninh Thế giới. Ông
vào hội Nhà văn Việt Nam ngày 12-01-2006. Sáng ngày 24/10/2014, tại Hà
Nội, tổng cục Xây dựng Lực lượng Công an nhân dân đã điều động và bổ
nhiệm đồng chí Nguyễn Hồng Thái giữ chức tổng biên tập Nhà xuất bản
Công an nhân dân. Trên cương vị công tác mới, đồng chí Nguyễn Hồng
Thái tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, không ngừng nỗ lực
phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với niềm tin
của Bộ trưởng, các đồng chí lãnh đạo trong Tổng cục III cũng toàn thể cán
bộ, chiến sỹ trong Nhà xuất bản Công an nhân dân.
1.2.2. Hành trình sáng tác
Nguyễn Hồng Thái là một nhà văn công tác trong lực lượng công an đã
lâu nhưng thật ra, trước khi được tuyển dụng vào Công an, ông là sinh viên
khoa Ngữ văn trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Trước nữa, anh là học sinh


24

chuyên văn của trường chuyên Phan Bội Châu (Nghệ An) và từng đoạt giải
học sinh giỏi văn toàn quốc. Vì vậy, ông đến với văn chương hoàn toàn là
do sự đam mê bẩm sinh chứ không phải bất ngờ quay sang cầm bút. Hành
trình sáng tác của Nguyễn Hồng Thái khá thuận lợi. Có nền tảng văn
chương từ bé lại thêm tài năng bẩm sinh vốn có trong người, ngay từ khi
còn làm trong lực lượng CAND, ông đã sáng tác. Nguyễn Hồng Thái là
phóng viên báo CAND. Làm báo bù đầu, tối mắt, nhưng được đi nhiều nơi,
tiếp xúc nhiều chuyện, được chứng kiến nhiều cảnh đời, anh lại viết thêm
được nhiều truyện. Những yếu tố đó đã làm ông cho ra đời những đứa con

tinh thần rất đa dạng về thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim,
ký sự, thơ. Nói về hành trình viết văn của mình, ông tâm sự: “Tôi không
biết làm nghề gì ngoài làm báo và viết văn. Làm báo để kiếm sống, còn viết
văn vì thấy thích thú, muốn để lại những cuốn sách riêng của mình. Tôi viết
văn chậm chạp và vất vả, nhưng nghĩ rằng mọi sự cố gắng sẽ đem lại một
kết quả nào đó, nên rất kỹ khi viết một câu văn. Hoàn thành một tác phẩm,
cảm giác như mình vừa kiệt sức, cô đơn bơi qua một khúc sông rộng, bỗng
thấy thăng hoa, yêu mình hơn. Tôi không đặt cho mình một mục đích to tát
nào về sáng tạo văn chương, nhưng rất hạnh phúc khi viết được một câu
văn hay. Tuy vậy, mỗi tác phẩm của tôi đều mong muốn đưa đến một ý
tưởng mới lạ, gợi mở hay giải đáp một câu hỏi nhân sinh cho mình, cho
bạn bè…” [25]. Tác giả cũng thể hiện quan niệm về sáng tác rất đúng đắn:
“Tôi quan niệm rằng, bất cứ những ai cầm bút viết văn cũng đều mang
trong mình một sứ mệnh nào đó. Sứ mệnh ấy chẳng có gì quá lớn lao, có
khi đó chỉ là sứ mệnh đối với làng xóm, quê hương, hay chỉ đơn giản là sứ
mệnh đối với gia đình, bè bạn, thậm chí, đó chỉ là sứ mệnh đối với những
ký ức đã qua của mình trong những khoảnh khắc của hoài niệm, của nhung
nhớ.” [25]. Qua những trang viết của Nguyễn Hồng Thái hiện thực cuộc
sống hiện lên và được khám khá dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Những


25

trang viết ấy hấp dẫn bạn đọc không chỉ bởi cái tài của một người cầm bút
mà còn bởi trái tim ấm nóng, giàu tình thương và luôn trắc ẩn với cuộc đời.
Tác phẩm văn học đầu tiên được công bố của ông là truyện ngắn
“Quà tặng của thời gian khổ”, in trên báo Người Hà Nội, năm 1991.
Truyện viết về một nữ liệt sĩ cơ yếu và chuyện một bà má miền Nam suốt
nhiều năm trời đã gìn giữ tài liệu mật mã cho người liệt sĩ này. Câu truyện
lấy từ đề tài chiến tranh với chị Hà - hình ảnh người lính hi sinh hết mình vì

đất nước và sống trong sự yêu thương của nhân dân. Sống ở địa đạo Củ
Chi, Đồng Tháp Mười, chị đã phải ăn cả cóc, nhái, lá rừng để tiếp tục sống,
chiến đấu và mã dịch điện. Có thời kỳ lũ lụt, sông nước mênh mông, chị
phải leo lên cây sống đến 6 tháng trời. Lúc nước rút, chị leo xống đất mà
chân đi không vững nữa. Có lúc địch đánh rát quá, chị và cơ quan phải
chạy dạt sang đất bạn Campuchia, chị vừa chạy vừa mã dịch điện. Hình ảnh
của chị người liệt sĩ như còn sống mãi qua bức tranh của con gái chị Hà
tặng người bác sĩ. Nó nhắc ta về niềm hạnh phúc của một thời gian khổ
chắt chiu lại, nhắc nhở ta về cuộc đời ta đang sống như lời nhân vật của tôi
độc thoại. Câu truyện còn đậm sắc thái trinh thám với việc xây dựng nhiều
tình huống gây cấn. Tuy nhiên, tác phẩm đầu tay này của tác giả có đề tài
quá quen thuộc nên chưa được chú ý nhiều.
Sau đó, ông tiếp tục sáng tác như một sở thích. Vì công tác trong
ngành công an nên tác phẩm của ông lấy đề tài chủ yếu ở mảng an ninh trật
tự. Hiện nay, ông là một trong những nhà văn có đóng góp lớn cho mảng
văn học viết về đề tải Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống. Trong số
đó, truyện ngắn là thể loại được coi là thế mạnh của nhà văn, giúp ông
khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Năm 1996, ông nhận được
giải Nhất, giải Cây bút vàng 1996-1998 do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ
Công an tổ chức với truyện ngắn “Đối mặt”. Sau đó, tập truyện ngắn “Đối
mặt” (NXB Công an nhân dân 2000) đoạt “Giải thưởng Văn học” do Hội


×