Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tài liệu ôn thi môn Quản lý tài nguyên nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.93 KB, 20 trang )

1

- Các vấn đề của TNN, và các thách thức lên quản lý TNN
- Nguyên tắc Dublin, Khái niệm về QLTHTNN
- Quản lý THTNN tại LVS: ý nghĩa và vai trò
- Chiến lược quản lý TNN quốc gia đến năm 2020: Quan điểm nguyên tắc chỉ đạo và mục tiêu
của chiến lược;
CÂU HỎI 1: Các vấn đề của TNN, và các thách thức lên quản lý TNN.
1.Tài nguyên nước
+ Tài nguyên nước là tài nguyên có hạn
Nước là vật chất thiết yếu của sự sống. Nơi nào có nước nơi đó có sự sống; nơi nào hiếm nước sự sống
phải đấu tranh để sinh tồn. Mặc dù nước có ở khắp nơi trên trái đất, từ các đại dương đến sông ngòi, đất
ngập nước, hồ nước ngọt đến nước tồn tại trong khí quyển, nhưng tài nguyên nước (TNN) là có hạn.
Trong tổng lượng nước trên trái đất có:
* 97,5% là nước mặn đại dương,
* Chỉ có 2,5% là nước ngọt tồn tại ở các dạng băng, tuyết, nước ngầm, sông ngòi, đầm lầy và hơi nước
trong không khí.
Trong tổng lượng nước ngọt toàn trái đất
*Nước dưới đất chiếm 30,1%, .
* Băng vĩnh cửu 68,7%,
* Nước sinh vật 0,003%,
* Nước trong khí quyển 0,04%;
* Còn lại nước sông, ao, hồ và đầm lầy là loại nước được con người sử dụng quen thuộc nhất chỉ chiếm
0,3%.
Với tỉ lệ thấp như vậy TNN ngọt là rất hạn chế.
+ Ở Việt Nam
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có lượng mưa hàng năm bình quân 1.940mm. lượng mưa năm
như vậy là cao hơn so với các vùng lục địa trên trái đất. Việt Nam có 10 sông/hệ thống sông lớn có
lưu vực lớn hơn 10.000km là Hồng - Thái Bình, Kỳ Cùng - Bằng Giang, Mã, Cả, Vũ
Gia - Thu Bồn, Ba, Srê Pok, Sê1 San, Đồng Nai và Cửu Long. Tổng lượng dòng chảy
mặt trong năm là 830-840tỉ m3 , với lượng dòng chảy bình quân tính theo đầu người


là 12.680m3/người-năm vào năm 1990, 9.600m3/người-năm vào 2010 (như vậy còn cao hơn mức bình quân thế
giới hiện nay là 7.400m3/người-năm); dự báo2 là 6.570 - 7.600m3/người-năm vào năm 2050 (như vậy cũng
còn cao hơn mức bình quân thế
giới khi đó là 5.000m3/người-năm);
Tuy nhiên TNN Việt Nam có những hạn chế lớn:


2

Sự phân bố không đều theo thời gian giữa mùa mưa và mùa khô là nghiêm
trọng, với thiên tai lụt bão xẩy ra thường xuyên hơn đa số các quốc gia Đông Nam Á khác
 Sự phân bố rất không đều theo không gian: có vùng mưa rất lớn, tới 3.0005.000mm/năm như Bắc Quang, Hoàng Liên Sơn, Tiên Yên, Móng Cái, Hoành Sơn, Đèo Cả, Bảo Lộc, Phú
Quốc; còn vùng ít mưa là Ninh Thuận, Bình Thuận chỉ có 600-700mm/năm.
 Hạn chế đặc biệt là vấn đề nguồn nước của Việt Nam đại bộ phận là nguồn
chung của sông liên quốc gia. Trong số 10 sông/hệ thống sông lớn kể trên, trừ Vũ Gia - Thu Bồn và Ba
tương đối nhỏ hơn, còn lại đều là sông liên quốc gia, trong đó vị trí của Việt Nam chủ yếu là hạ lưu. Tổng
lượng dòng chảy năm tuy lớn nhưng dòng chảy nội sinh chỉ chiếm 37%, còn từ nước ngoài chảy vào 63%.
Có nghĩa là sự sử dụng nước của Việt Nam ở hạ lưu là bị động với thượng lưu. Riêng sông Cửu Long,
90% nguồn nước là từ thượng lưu chảy xuống. Từ đó, nếu chỉ tính nguồn nước nội sinh thì năm 2010 lượng
dòng chảy bình quân tính theo đầu người chỉ là 3.585m3/người (thấp hơn mức bình quân thế giới hiện nay là
7.400m3/người-năm); dự báo đến 2050, chỉ là 2.450 - 2.840m3/người-năm (thấp hơn nhiều so với bình quân
thế giới khi đó khoảng 5.000m3/người-năm).
Về TNN 3dưới đất, tổng lượng sản sinh trung bình hàng năm của các tầng chứa nước
là 63tỉ m /năm3, so với thế giới là ở mức dưới trung bình, cả về bình quân theo đầu
người lẫn tỉ lệ khai thác. Vùng có tầng chứa nước dồi dào là đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long, Đông Nam Bộ; còn tại các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và duyên hải miền Trung, TNN dưới đất là
hạn chế. Hiện nay đang khai thác khoảng 5% tổng trữ lượng.
Trữ năng kỹ thuật thủy điện của Việt Nam là 19.000 - 21.000MW4. Theo kế hoạch của Tập đoàn Điện lực
EVN đến 2025, sẽ khai thác được 84% trữ năng kỹ thuật.
2.Các áp lực lên tài nguyên nước

Tác động của biến đổi khí hậu lên TNN biểu hiện chủ yếu dưới hai dạng: nước biển dâng và tính chất gay
gắt đến cực đoạn của thiên tai, kể cả lũ, bão, hạn, kiệt. Thực tế thì biến đổi khí hậu đã và đang tác động lên
TNN, thể hiện rõ ràng nhất ở thiên tai xảy ra dồn dập trên khắp thế giới trong mười năm qua: lũ lụt ngập
2/3 lãnh thổ Bangladesh năm 2004, lũ lớn sông Trường Giang Trung Quốc năm 2010 mà hồ chứa
khổng lồ Tam Hiệp không cắt lũ được như mong đợi; đặc biệt sông Chao Phraya ở
Thái Lan, một con sông đã trở nên hiền hòa từ vài chục năm nay nhờ các hồ chứa lớn điều tiết hoàn toàn dòng
chảy, bỗng năm 2011 xẩy ra lũ lớn kết hợp triều cường trong tình thế quản lý TNN quốc gia bị động đã gây ra
lụt thảm họa quốc gia trong nhiều tháng liền. Sông Mekong 10 năm khô hạn, người ta lội sang sông ngang
Vientiane, lũ nhỏ đến mức đồng bằng Cửu Long ngao ngán chờ nước nổi, nhưng đến năm 2011 này, lũ lớn
bất ngờ vượt mức lịch sử năm 2000. Không phải chỉ có lũ, mà hạn cũng rất khắc nghiệt. Lưu vực sông
Senegal ở Tây Phi ngày nay có tổng lượng dòng chảy chỉ còn 1/4 so với thập niên 1950s, trong khi dân số
tăng 30%. Cũng có nghĩa lượng nước tính theo đầu người ngày nay ở Senegal chỉ còn 1/6 so với 60 năm trước.
Việt Nam


3

Việt Nam đã chứng kiến những hiện tượng thiên nhiên bất thường: tháng 11-2008 Hà
Nội có đợt mưa lịch sử, lượng mưa ba ngày quan trắc được ở trạm Láng là 563mm, Hà Đông 813mm,
thành phố ngập lụt mấy ngày; Sapa chưa bao giờ có tuyết vào
tháng 3, nhưng ngày 21-3-2011 bất ngờ tuyết rơi dày đặc…
Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo là một trong 5 quốc gia trên thế giới sẽ bị tác động
nghiêm trọng nhất của nước biển dâng. Các kịch bản dự báo quốc gia công bố năm 2009 cho thấy vào giữa thế
kỷ 21, mực nước biển có thể dâng thêm 30cm, và đến cuối thế kỷ 21 có thể dâng thêm 75cm so với thời kỳ
1980 - 1999, đe dọa trực tiếp các châu thổ, nhất là đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2007, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Năm 2011,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) là ngành đầu tiên có Kế hoạch hành động ứng phó
với biến đổi khí hậu giai đoạn 2011- 2015 và tầm nhìn đến 2050.
+Áp lực về nước do gia tăng dân số
Thế giới

Trong thế kỷ 20, dân số thế giới tăng khoảng 3 lần và đạt 7tỉ ngày 31-10-2011, kéo
theo tăng lượng nước khai thác sử dụng khoảng 7 lần. Ước tính có khoảng 1/3 dân số
Việt Nam
Dân số Việt Nam trong 35 năm qua từ khi thống nhất đất nước đến nay, đã tăng gần 3 lần; dân số năm 2010 là
86,9 triệu người. Tổng Cục Thống kê dự báo năm 2019 dân số sẽ đạt 93,5 triệu người. Việt Nam hiện nay là
quốc gia đông dân thứ 2 ở Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới.
+Tài nguyên nước dưới áp lực của phát triển
Dân số gia tăng, kinh tế tăng trưởng và nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống đã dẫn tới cạnh tranh và
xung đột về nguồn nước ngọt có hạn. Tập hợp các yếu tố như bất công trong xã hội, phân hoá kinh tế, thiếu
những chương trình hiệu quả về xoá đói giảm nghèo đã khiến cho người nghèo tiếp tục khai phá quá mức
tài nguyên đất và rừng, hậu quả thấy rõ là tác động tiêu cực đến TNN.
Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, có dân số lớn nhưng diện tích canh tác
lại ít, vì vậy từ nửa thế kỷ nay đã phát triển theo hướng thâm canh lúa tăng vụ Đông Xuân nghĩa là có yêu
cầu cao về nước tưới bằng công trình và chịu áp lực lớn về nguồn nước trong mùa khô. Việc khai thác
TNN vì mục đích thủy lợi nông nghiệp nay đã cơ bản hoàn thành, các châu thổ và cánh đồng lúa đều có công
trình tưới tiêu. Tuy nhiên việc hoàn chỉnh, nâng cấp các hệ thống thủy lợi còn là sự nghiệp rất lớn, chưa nói
đến yêu cầu hiện đại hóa. Các nhà tài trợ quốc tế từ nhiều năm qua đã tập trung hỗ trợ ngành thủy lợi theo
hướng này. Khai thác các hệ thống thủy lợi đang mở rộng hướng phục vụ sang đa dạng hóa cây trồng, chăn
nuôi, ngư nghiệp và thủy lợi nhỏ tại các thung lũng phân tán.
Nguồn thủy điện các dòng sông lớn và vừa đã và đang khai thác mạnh mẽ và sẽ cơ bản hoàn thành


4

khoảng 2025. Hồ chứa thủy điện đều ít nhiều có điều tiết dòng chảy với khả năng tiềm tàng đem lại hiệu ích
đa mục tiêu, tuy nhiên thủy điện lại vận hành chủ yếu là đơn mục tiêu. Các tác động tiêu cực về môi trường và
xã hội do khai thác thủy điện gây ra cũng để lại nhiều hậu quả kéo dài trên các lưu vực sông.
Mức độ khai thác có điều tiết dòng chảy bằng hồ chứa (được tính bằng tỉ lệ dung tích có ích của hồ trên
tổng lượng dòng chảy) nay đạt 4,5% trên phạm vi toàn quốc. Nếu không kể phần lưu vực sông Cửu long (là

địa bàn có tổng lượng dòng chảy lớn nhưng không thể làm hồ chứa) thì tỉ lệ này là 11,5%. Các tỉ lệ này là
thấp so với mức độ
khai thác ở một số quốc gia khác (Thái Lan đạt mức khai thác bằng hồ chứa là 29%,
cao nhất Đông Nam Á; Australia đạt 30% và tự đánh giá là đã khai thác quá mức). Mức độ khai thác dòng
chảy mùa khô ở Việt Nam đã đạt mức cao, ở một vài lưu vực là rất cao như lưu vực sông Đồng Nai - Sài
Gòn 75%, lưu vực sông Mã - Chu 80%.
Tuy nhiên cần thấy là ở Việt Nam nơi nào có thể làm hồ chứa thì đều đã xây dựng hoặc có kế hoạch xây
dựng cả rồi. Đặc biệt trên các sông lớn, đại bộ phận dòng chính đã khai thác khá triệt để (Đà, Gâm, Chu, Cả,
Vũ Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai, Se San, Sre Pok). Các dòng chính sông lớn còn lại tuy có lượng dòng chảy
lớn, thậm chí rất lớn, nhưng không có điều kiện địa hình thích hợp, thậm chí không thể làm hồ chứa, như
dòng chính sông Thao, Lô, Mã, Tiền, Hậu. Như vậy phương hướng tăng tỉ lệ khai thác TNN bằng hồ chứa
không còn mấy khả thi nữa. Trước yêu cầu dùng nước tăng lên, sẽ giải quyết nguồn nước bằng cách nào?
Đây là vấn đề lớn của chiến lược TNN quốc gia mà chưa có kế hoạch nào nghiên cứu. Từ đó càng thấy rõ
trong quản lý TNN cần đặc biệt coi trọng quản lý yêu cầu sử dụng nước, trong tính toán cân bằng nước từng
lưu vực, cần thận trọng với các biện pháp tiếp tục khai thác nước mùa khô; ngoài ra cần xem xét các biện
pháp lâu nay chưa chú ý hoặc chưa chú ý đúng mức như đưa lượng nước hồi qui vào cân bằng, khuyến
khích sử dụng nước hợp lý (hiệu suất hệ thống thủy lợi chỉ đạt 50-60%; hệ thống cấp nước đô thị Hà Nội
và tpHCM là nơi có hệ thống nước cũ đã lâu năm, năm 2010 vẫn thất thoát 35-40%).
+ Tác động của ô nhiễm nước
Ô nhiễm nước liên quan chặt chẽ đến các hoạt động của con người. Nước có chức năng phục vụ nhu cầu6
cơ bản của đời sống sinh vật và đáp ứng yêu cầu7 của sản xuất công nghiệp, ngoài ra, nước còn là nơi lắng
đọng và truyền tải chất thải từ sinh hoạt, từ sản xuất nông nghiệp và công nghiệp vốn là nguồn gây ô nhiễm
nước. Nguồn nước ô nhiễm đang ảnh hưởng đến khả năng sử dụng nước ở hạ lưu, đe dọa sức khoẻ con người,
cản trở chức năng các hệ sinh thái thủy sinh. Ô nhiễm nước khiến cho nước tuy có tại nguồn mà không dùng
được, điều đó làm tăng cạnh tranh nguồn nước có chất lượng tốt.
Việt Nam
Tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị lớn khác, nước thải công nghiệp,
nước thải bệnh viện và nước thải sinh hoạt đều tiêu thoát chung một hệ thống và trực tiếp đổ ra các nguồn
nước mà không qua xử lý (cơ sở xử lý nước thải tập trung của thành phố còn đang xây dựng). Đô thị nước ta
không tách hệ thống nước thải khỏi hệ thống thoát nước mưa, vì vậy xử lý nước thải đô thị thêm khó khăn.



5

Các khu công nghiệp độc lập khi lập dự án xin phép đầu tư, phần lớn hồ sơ đều có dây chuyền xử lý nước
thải theo qui định, nhưng sau đó hoặc không xây dựng, hoặc không vận hành, hoặc vận hành nửa vời. Lãnh
thổ quốc gia chỉ có 25% là đất bằng, lại chia ra 63 đơn vị hành chính nên diện tích là tương đối nhỏ, trên đó
đơn vị hành chính nào cũng ra sức đẩy mục tiêu GDP công nghiệp lên, khiến cho công nghiệp hóa và đô thị
hóa diễn ra tùy nghi và tràn lan ở mọi địa bàn, hậu quả là các biện pháp xử lý nước thải công nghiệp và đô thị
vốn rất đắt giá càng trở nên khó khả thi. Tình hình ô nhiễm nước công nghiệp và đô thị ngày một nghiêm trọng
là tác nhân chính gây suy thoái TNN. Các đô thị trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, Nhuệ - Đáy và Cầu
là những nơi ô nhiễm nước nghiêm trọng nhất.
Ô nhiễm nước nông thôn - vốn dĩ là ô nhiễm phân tán do hóa chất nông nghiệp dư thừa - đã khó kiểm soát,
trong những năm gần đây thêm hiện tượng ô nhiễm nước và rác thải làng nghề, càng trở nên trầm trọng hơn.
Cấp nước sinh hoạt nông thôn có nhiều tiến bộ nhưng vệ sinh môi trường nông thôn còn là vấn nạn lâu dài.
+Khủng hoảng về quản trị ngành Nước
Những vấn đề Nước nói trên trở nên trầm trọng hơn do quản trị ngành Nước bất cập. Nói quản trị ngành
Nước (water governance) là nói về các hệ thống chính trị, hành chính, kinh tế và xã hội có tác động tới quản
lý TNN và dịch vụ nước, rộng hơn trách nhiệm chuyên môn về quản lý TNN (water resources management).
Năm 2000, Hội đồng Nước Thế giới (World Water Council) lần đầu tiên đưa ra nhận định "thế giới đang
khủng hoảng nước, không phải do có quá ít nước không đảm bảo được nhu cầu của chúng ta, mà là cuộc
khủng hoảng về quản trị ngành Nước, đã quá kém đến mức con người và môi trường bị ảnh hưởng trầm
trọng". Nhận định này tác động mạnh vào nhận thức con người, rằng quản trị ngành Nước bất cập là nguyên
nhân chủ yếu
của khủng hoảng nước hiện đại. Quản trị ngành Nước bất cập bao gồm:
 Nhận thức về Nước và mức ưu tiên dành cho Nước ở cấp chính trị là hạn chế.
 Quản lý TNN kém hiệu quả, khai thác sử dụng thì cục bộ theo từng ngành sử
dụng trong khi TNN về bản chất có hiệu ích đa mục tiêu;
 Tiếp cận chủ yếu từ trên xuống trong khi TNN là vấn đề của địa bàn gắn với
cuộc sống con người; chính quyền địa phương thiếu năng lực quản lý TNN.

 Cơ cấu định giá nước không đủ trang trải chi phí vận hành bảo dưỡng, phân
phối nước không hợp lý, tỉ lệ thất thoát nước cao.
 Đầu tư cho ngành Nước còn thấp, trong đó mới đầu tư cho khai thác sử dụng,
chưa đầu tư tương xứng cho quản lý và bảo vệ tài nguyên và môi trường.
 Thiếu dữ liệu và thông tin kịp thời phục vụ quản lý TNN.
 Thiếu tiêu chí kinh tế xã hội môi trường để phục vụ xét duyệt chính sách, qui
hoạch và dự án TNN.
3.Các thách thức chính trong quản lý tài nguyên nước
Các vấn đề nước đương đại nói trên đã nảy sinh rõ rệt sau Thế chiến II, khi kinh tế thế giới phát triển bùng
nổ và TNN được khai thác qui mô lớn, cả ở các quốc gia Âu - Mỹ thời hậu chiến, cả ở các quốc gia Á - Phi
thời hậu thuộc địa. Đó cũng là thời kỳ kỹ thuật xây dựng công trình thủy lực tiến triển mạnh. Nhưng đồng
thời, các vấn đề về nước đã nảy sinh và ngày một trầm trọng. Thế giới nhận thức ra không thể tiếp tục cách


6

ứng xử với TNN như trước được nữa. Cách tiếp cận truyền thống lấy công trình làm trung tâm đã tỏ ra không
giải quyết được các thách thức về TNN đương đại. Các
thách thức đó bao gồm:
+ An ninh nước cho con người
Mặc dù hầu hết các quốc gia đặt ưu tiên cao nhất cho thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người về nước,
song ngày nay 1/5 dân số thế giới vẫn không có nước sạch để ăn uống và 1/2 dân số thế giới không có được
phương tiện vệ sinh thích hợp. Tình trạng này tác động đến sức khỏe con người, trước hết đến bộ phận người
nghèo nhất ở các quốc gia đang phát triển. Ở đó, cấp nước và vệ sinh đô thị và nông thôn vẫn là một trong
những thách thức nghiêm trọng nhất trong những năm tới.
Việt Nam
Cấp nước và vệ sinh là một trong các mục tiêu thiên niên kỷ MDG của Việt Nam.
Đến năm 2010, mục tiêu về cấp nước đô thị và nông thôn đều 10ạt, nhưng mục tiêu về đ
vệ sinh cả đô thị lẫn nông thôn đều chưa đạt. Cấp nước đô thị theo tiêu chuẩn nước
sạch của Bộ 11 tế đạt gần 85% số dân, với mức 120-150lít/người-ngày tại đô thị lớn. Y

Ở nông thôn cấp nước theo tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y tế đạt 42% số dân với mức 60lít/người-ngày,
phương tiện vệ sinh đạt 60% hộ gia đình, và 45% chuồng trại.
+ An ninh nước cho lương thực
Trong khoảng 25 năm tới, thế giới cần có lương thực cho thêm 2-3 tỉ người nữa. Khan hiếm nước là trở
ngại then chốt đối với sản xuất lương thực, ít nhất cũng ngang bằng nếu không muốn nói là then chốt hơn
khan hiếm đất. Hơn nữa, suy thoái nước kéo theo suy thoái đất. Nông nghiệp có tưới hiện đang tiêu thụ 70%
lượng nước khai thác (tức hơn 90% lượng nước sử dụng tiêu hao). Ngay cả khi dự đoán yêu cầu nước tưới
tăng thêm chỉ là 15 - 20% trong vòng 25 năm tới, thì đã có thể xẩy ra mâu thuẫn trầm trọng giữa yêu cầu nước
cho nông nghiệp với nước cho các yêu cầu khác. Sẽ càng khó khăn đối với những quốc gia nghèo TNN mà
vẫn phải cố gắng tự túc lương thực, bởi vì muốn đạt an ninh lương thực bằng cách khác, ví dụ thông qua
thương mại, lại có những khó khăn rủi ro khác. Bằng cách nhập khẩu lương thực, nhất là gạo, các quốc gia đó
thực tế đã nhập khẩu nước từ những vùng có nguồn nước dồi dào hơn. Cũng như thế, trên một ý nghĩa nào
đó, các quốc gia xuất khẩu gạo chẳng khác nào xuất khẩu TNN quí giá và có hạn của mình với giá rẻ bèo.
Việt Nam
Sau khi đổi mới chính sách kinh tế trong thập niên 1980, Việt Nam trở lại là quốc gia xuất khẩu gạo sau gần
nửa thế kỷ đứt quãng. Trong hai thập niên qua, Việt Nam ngày càng củng cố vị trí quốc gia đứng thứ nhì về
xuất khẩu gạo trên thế giới. Nguồn gạo xuất khẩu chủ yếu từ đồng bằng Cửu Long. Nhờ biện pháp thủy lợi và
giống lúa cùng những biện pháp khác mà Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên đã chuyển từ hệ sinh thái
một vụ lúa nổi năng suất 1,2T/ha thành hệ sinh thái lúa thâm canh 2-3 vụ với năng suất 15-18T/năm.


7

Vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, người ta phê phán xu hướng độc canh cây lúa và vận động cho đa
dạng hóa cây trồng. Ngày nay trước tình hình diện tích trồng lúa đang thu hẹp có thể có nguy cơ cho an ninh
lương thực quốc gia, kỳ họp Quốc Hội tháng 11-2011 đã thông qua qui hoạch sử dụng đất đến năm 2020,
với chỉ tiêu giữ đất trồng lúa từ 3.950 ngàn ha hiện nay sẽ còn được 3.810 ngàn ha vào năm 2020.
+ Lựa chọn các hoạt động phát triển
Hoạt động của con người đều cần sử dụng nước và đều sản sinh ra chất thải; một số
công việc đòi hỏi nhiều nước hơn và sinh ra nhiều chất thải hơn những công việc khác. Nếu trong các chiến

lược phát triển kinh tế xã hội và trong sự lựa chọn công nghệ sản xuất mà yếu tố nước được xem xét như một
đầu vào đắt giá, đặc biệt ở nơi khan hiếm nước, thì sẽ giảm bớt nguy cơ suy thoái cho TNN.
Việt Nam
Dự án bauxit Tây Nguyên là một trong những dự án khai khoáng - công nghiêp lớn
mà xã hội hết sức quan tâm đến cách lựa chọn công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý chất thải, cũng như quan
tâm đến nguy cơ gây suy thoái đất và nước vùng dự án và vùng hạ lưu dự án.
+ Bảo vệ các hệ sinh thái thiết yếu
Hệ sinh thái cạn ở đầu nguồn lưu vực sông có vai trò quan trọng đối với khả năng lưu trữ nước mưa, bổ sung
nước dưới đất và điều hòa chế độ dòng chảy sông ngòi. Hệ sinh thái cạn và hệ sinh thái nước, ngoài vai trò
cân bằng tự nhiên, còn tạo ra một loạt lợi ích kinh tế như gỗ củi, cây thuốc, nơi sinh sống cho động vật hoang
dã, địa bàn sản xuất nông ngư nghiệp v.v... Hệ sinh thái phụ thuộc lượng dòng chảy, biến động theo mùa và
dao động mực nước, với chất lượng nước là yếu tố cơ bản. Quản lý tài nguyên đất và nước phải đảm bảo duy
trì hệ sinh thái thiết yếu, xem xét và cải thiện các tác động bất lợi đối với các tài nguyên khác trước khi có
quyết định.
Việt Nam
Từ khi tiếp nhận quan điểm QLTH-TNN thì các nghiên cứu chính sách, chiến lược,
qui hoạch và cân bằng nước trên lưu vực sông đã từng bước thay đổi nhận thức và coi hệ sinh thái chính là một
hộ sử dụng nước cần được phân bổ TNN. Đến nay, dự thảo luật TNN sửa đổi đã đưa vấn đề nhu cầu nước cho
hệ sinh thái vào luật.
+ Ứng phó với thiên tai và quản lý rủi ro
Trên thế giới hầu hết các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới đều đặc trưng bởi chế độ mưa biến đổi dữ dội theo
mùa và năm và tác động tổ hợp của những biến đổi bất thường. Những biến động như vậy làm gia tăng yêu
cầu phát triển hạ tầng, đòi hỏi quản lý yêu cầu dùng nước và cấp nước. Thách thức về quản lý sự biến động
này là lớn nhất đối với các quốc gia nghèo do thiếu nguồn tài chính và nhân lực. Tác động của biến đổi khí
hậu toàn cầu càng làm gia tăng các thách thức.
Ngày nay trong quản lý thiên tai, các biện pháp phi công trình rất được quan tâm:
cảnh báo, dự báo, biện pháp chủ động ứng phó và khắc phục hậu quả. Tuy nhiên cho tới nay, các ngành khai
thác sử dụng nước còn ít chú ý đánh giá một cách hệ thống các chi phí và lợi ích của chủ động giảm thiểu rủi
ro.



8

Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là quốc gia quản lý thiên tai có kinh nghiệm và có kết quả,
Tuy vậy, trong khai thác sử dụng TNN, chưa nhận thức được yêu cầu về quản lý rủi ro.
+ Nâng cao nhận thức và hiểu biết của công chúng
Nhận thức của công chúng là một yếu tố hỗ trợ hiệu quả cho quản lý nước bền vững và thuyết phục thay đổi
hành vi trong sử dụng nước, cũng như tạo sức ép thúc đẩy ý chí chính trị quốc gia. Bài học về phong trào môi
trường xanh (go green) là một ví dụ có ý nghĩa. Thực vậy, trong một thế giới mà các nguồn lực, nguồn tài
nguyên cũng như nguồn tài chính đều khan hiếm, khi mà quản trị ngành Nước yếu kém là nguyên nhân chủ
yếu của khủng hoảng nước, thì chỉ có sự quan tâm và cam kết của các nhà chính trị mới bảo đảm quyết sách
đúng đắn và có đầu tư cần thiết trong phát triển và quản lý TNN. Vấn đề nước cần được đứng đầu trong
chương trình nghị sự cấp chính trị cao nhất của các quốc gia.
Việt Nam
Vấn đề TNN ở Việt Nam ngày càng được nhà nước coi trọng, tuy vậy chưa đến mức như cần phải thế. Sự
tham gia chủ động của công chúng chính là điều cần ủng hộ và khuyến khích. Trên thực tế, đa số trường hợp
các hoạt động khai thác sử dụng nước gây tác động tiêu cực đến cuộc sống người dân, là do người dân và
công luận phát giác, cuối cùng chính quyền mới đứng ra xử lý.
+ Đảm bảo hợp tác liên ngành và hợp tác xuyên biên giới
Phương pháp tiếp cận truyền thống trong quản trị ngành Nước là phân tán theo ngành khai thác sử dụng nước,
vì thế các cơ quan quản lý nhà nước hóa thành đại diện cho những lợi ích mâu thuẫn nhau. Hậu quả là nguồn
lực tài chính và vật chất (bao gồm nước) không được sử dụng để tối đa hoá phúc lợi xã hội. Cần có cách
phối hợp liên ngành ở cấp hoạch định chính sách, quy hoạch và tổ chức thực hiện, vượt khỏi các giới hạn về
thể chế và chuyên môn. Càng cần tiếp cận như vậy khi giải quyết những vấn đề phức tạp hơn trong quản lý
các con sông liên quốc gia.
Việt Nam
Việt Nam là thành viên của Ủy Hội sông Mekong và đóng góp với thiện chí bền bỉ
cho sự hợp tác và hội nhập khu vưc đó. Chính là thông qua chương trình hợp tác Mekong mà ý thức và
hoạt động hợp tác liên ngành trong nước được xây dựng và tăng cường. Việt Nam từng đưa ra các sáng kiến

hợp tác về sông Hồng và chắc là còn phải kiên trì và tìm kiếm sáng kiến mới và nỗ lực mới.
+ Quản lý tổng hợp tài nguyên nước là cách tiếp cận để ứng xử với thách thức
- Quá trình hình thành quan điểm quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Trước các thách thức nói trên về TNN và môi trường, thế giới đã có hàng loạt hành động phối hợp qui mô
toàn cầu. Trong hơn ba mươi năm, Nước đã đi từ con số 0 bước lên vị trí hàng đầu trong các vấn đề sống còn
của loài người.
Các mốc quan trọng nhất là:
 Năm 1977, Liên Hiệp Quốc triệu tập Hội nghị quốc tế đầu tiên về Tài nguyên
Nước, họp tại Mar Del Plata (Argentina).
 Năm 1987, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua quan điểm Phát triển Bền
vững là mục tiêu chung của loài người.
 Tháng 1-1992, Hội nghị quốc tế về Nước và Môi trường, họp tại Dublin


9

(Ireland) đã thông qua 4 nguyên tắc Dublin về Nước và Phát triển Bền vững.
 Tháng 6-1992, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Môi trường và Phát triển,
họp tại Rio de Janeiro (Brazil) đã thông qua Agenda 21 về các giải pháp phát triển bền vững, trong
đó có Chương 18 về Nước phản ánh các nguyên tắc Dublin.
 Năm 2000, Diễn đàn Nước thế giới lần thứ 2 về An ninh Nước thế kỷ 21, họp
tại The Hague (Hà Lan) đã công bố quan điểm Quản lý Tổng hợp Tài nguyên Nước (QLTH-TNN)
được xây dựng trên cơ sở 4 nguyên tắc Dublin với mục tiêu phát triển bền vững.
 Năm 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Bền vững, họp tại
Johannesburg (Nam Phi) đã nhấn mạnh ý nghĩa chiến lược của QLTH-TNN và kết luận 5 ưu tiên hàng
đầu trong phát triển bền vững, đó là Nước và Vệ sinh,
Năng lượng, Sức khoẻ, Nông nghiệp, Đa dạng sinh học và Hệ Sinh thái
(WEHAB)12.
 Năm 2010, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết thừa nhận tiếp
cận nước sạch và vệ sinh là một quyền của con người.

 Hiện nay trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động ngày một rõ rệt, trong đó
TNN vừa là biểu hiện đầu tiên vừa là giải pháp thích ứng phổ quát, sự chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh
Thế giới sẽ họp tại Johannesburg tháng 6-2012 càng đẩy mạnh vị trí ưu tiên của Nước.
-

Quan điểm quản lý tổng hợp tài nguyên nước được chấp nhận rộng rãi
Từ khi được công bố tại Diễn đàn Nước Thế giới lần thứ hai The Hague năm 2000,
quan điểm QLTH-TNN dần được thực hành trên khắp thế giới với ý nghĩa đó là:

Một uá trì nh để quản lý tài nguyên nước ngày một hiệu lực hơn vì mục tiêu phát triển bền vững;

Mộtq uan điểm bao trùm từ trách nhiệm nhà nước đến trách nhiệm các tổ chức và cộng đồng khai
thác sử dụng hiệu quả tài nguyên nước;

Một cách tiếp cận vận dụng hài hòa các dạng thể chế quản lý tài nguyên và dịch vụ nước trong
ngành Nước.
Cùng với định nghĩa đầy đủ luôn luôn là chương trình hành động để từng bước đưa QLTH-TNN vào thực tiễn.
QLTH-TNN đã được cụ thể hóa thành các hoạt động vận động quốc tế phong phú tại các Diễn đàn Nước Thế
giới ba năm họp một lần, các Ngày nước thế giới hàng năm và nhiều dạng hoạt động định kỳ khác cấp khu vực.
Các quốc gia đã hợp tác và lần lượt tiếp nhận đưa QLTH-TNN vào cuộc sống theo thực tế mỗi quốc gia. Tại
Đông Nam Á, một số kết quả 10 năm thực hiện QLTH-TNN tóm tắt như sau:
 Về chính sách TNN, hầu hết 9 quốc gia Đông Nam Á 14 đều xây dựng chính sách TNN quốc gia theo
quan điểm QLTH-TNN, hoặc bổ sung chính sách đã có để phù hợp QLTH-TNN.
 Về luật TNN, có 5 quốc gia là Cambodia, Indonesia, Lào, Philippines, Việt Nam có luật TNN xây
dựng phù hợp ở mức độ khác nhau với quan điểm QLTH-TNN. Các quốc gia khác đang xây dựng.

CÂU HỎI 2: Nguyên tắc Dublin, khái niệm về QLTHTNN
+ Các nguyên tắc Dublin được phát biểu như sau:



10

- Nước ngọt là tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương, thiết yếu đối với cuộc
sống, sự phát triển và môi trường.
- Phát triển và quản lý TNN cần dựa vào sự tham gia của mọi thành phần, người
dùng nước, người lập qui hoạch-kế hoạch và người hoạch định chính sách ở
mọi cấp
- Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc dự trữ, quản lý và bảo vệ nước.
- Nước có giá trị kinh tế trong mọi sử dụng cạnh tranh và cần được thừa nhận là
một hàng hoá kinh tế.
Nguyên tắc 1: Nước là tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương, thiết yếu đối với cuộc sống, sự phát triển
và môi trường.
Một phương pháp tiếp cận toàn cục
Nguyên tắc 1 nêu ra sự cần thiết phải tiếp cận toàn cục trong quản lý, đó là nhận thức
rõ mọi đặc điểm của chu trình thuỷ văn trong mối tương tác đối với các tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh
thái khác. Nguyên tắc này cũng nhấn mạnh nước là cần thiết cho nhiều mục đích, nhiều chức năng và dịch vụ
khác nhau. Vì vậy, thực hiện quản lý toàn cục nghĩa là xem xét và xử lý các yêu cầu đặt ra với TNN cũng
như những nguy cơ đe doạ nó.
Tài nguyên nước có những giới hạn tự nhiên
Cần nhận thức rõ nước ngọt là tài nguyên có hạn vì chu trình thuỷ văn trung bình diễn
ra với lượng nước cố định theo chu kỳ thời gian. Tổng lượng nước nói chung là cố định, không có thay đổi
đáng kể bởi hoạt động của con người (ngọt hóa nước biển có qui mô rất hạn chế). Nguồn nước ngọt có thể coi
như một tài sản cố đinh tự nhiên, cần được duy trì để đảm bảo lợi ích bền vững.
Tác động của hoạt động con người
Con người có ảnh hưởng rõ ràng đến năng lực của nguồn nước. Con người làm giảm
lượng nước và chất lượng nước bằng các hoạt động như khai thác nước dưới đất, làm ô nhiễm nước mặt và
nước dưới đất, thay đổi phương thức sử dụng đất (phá rừng, đô thị hoá) dẫn đến biến đổi chế độ dòng chảy
mặt. Tuy nhiên, con người cũng có những tác động tích cực như điều tiết dòng chảy theo thời gian và không
gian. Khi nước được sử dụng dưới hình thức không tiêu hao và có dòng hồi qui, cần có kế hoạch tái sử dụng
nhằm nâng cao hiệu quả và lợi ích dòng chảy. Cũng cần nhận thấy giá trị hoặc phúc lợi từ công trình khai

thác TNN có thể tăng giảm theo phương cách sử dụng chúng.
Quan hệ trong sử dụng nước giữa thượng lưu và hạ lưu
Tác động của hoạt động con người cho thấy cần phải nhận thức được mối quan hệ
giữa người sử dụng nước ở thượng lưu và hạ lưu. Người sử dụng nước ở thượng lưu phải thấy được yêu cầu
chính đáng của người sử dụng nước ở hạ lưu để chia sẻ TNN sẵn có và để sử dụng lâu dài. Tiêu thụ nước quá
mức và làm ô nhiễm nước ở thượng lưu là vi phạm quyền sử dụng nước chính đáng của người ở hạ lưu đối
với tài nguyên chung. Để điều hoà các nhu cầu giữa người sử dụng nước ở thượng lưu và hạ lưu, cần đối thoại


11

hoặc có cơ chế giải quyết xung đột.
Một phương pháp tiếp cận toàn cục về thể chế
Quản lý toàn cục là quản lý đồng thời hệ thống tự nhiên và hoạt động của con người
là các hoạt động tạo ra yêu cầu sử dụng nước liên quan đến sử dụng đất và tạo ra chất thải vào môi trường
nước. Để xây dựng một nền kinh tế chính trị biết nhạy cảm với nước, phải hoạch định chính sách phối hợp ở
tất cả các cấp (từ các bộ, đến chính
Nguyên tắc 2: Phát triển và quản lý TNN cần dựa vào sự tham gia của mọi thành phần, người dùng
nước, người lập qui hoạch - kế hoạch và người hoạch định chính sách ở mọi cấp
Tham gia thật sự
Nước là một đối tượng mà mọi người đều có liên quan. Việc tham gia thật sự chỉ diễn
ra khi các bên liên quan là một phần của quá trình ra quyết định. Điều này có thể diễn ra trực tiếp khi các cộng
động địa phương tập hợp lại để lựa chọn cách cung cấp, quản lý và sử dụng nước. Việc tham gia cũng có
thể thực hiện gián tiếp bằng cách cộng đồng bầu ra một cách dân chủ người phát ngôn hoặc tổ chức có trách
nhiệm để đại diện cho mình. Ngoài ra, sự tham gia vào quá trình ra quyết định có thể thực hiện thông qua các
quá trình thị trường; nếu đã có hệ thống định giá nước hợp lý thì chính quyền địa phương, tổ chức cộng đồng
hoặc tổ chức thủy lợi có thể nêu ra yêu cầu cấp nước tạo nguồn (sau đó tự phụ trách việc phân phối nước).
Cách tham gia còn tuỳ thuộc vào qui mô không gian tương ứng với các quyết định đầu tư và quản lý nước cụ thể
nào đó, và tuỳ thuộc vào tính chất kinh tế chính trị của những quyết định đó.
Tham gia không chỉ là tham vấn

Nói tham gia, nghĩa là các bên liên quan ở mọi cấp trong cơ cấu xã hội đều phải được
tác động vào các quyết định về quản lý nước ở các cấp khác nhau. Còn tham vấn nếu hạn chế với việc đưa ra
các báo cáo đã soạn sẵn và những câu hỏi tại các cuộc họp giữa các bên liên quan thì chưa đủ và như vậy
không thể tạo nên sự tham gia thật sự. Có khi cách đó chỉ đơn thuần được sử dụng hoặc để chính thức hoá
những quyết định đã có, hoặc xoa dịu những ý chí chính trị không thống nhất hoặc trì hoãn việc thực hiện
các biện pháp có thể phương hại đến nhóm lợi ích đang có thế lực mạnh.
Đạt được đồng thuận
Phương thức tiếp cận cùng tham gia là biện pháp duy nhất để đạt tới đồng thuận và
hợp đồng chung lâu dài. Tuy nhiên, để đi đến một đồng thuận như vậy, các bên liên quan và nhân viên cơ
quan quản lý nước cần nhận thức được rằng tính bền vững của tài nguyên là mục tiêu chung và tất cả các bên
cần hy sinh phần nào ý muốn riêng của mình vì lợi ích chung. Tham gia nghĩa là phải nhận lấy trách nhiệm,
với nhận thức rằng hoạt động của mỗi ngành riêng lẻ sẽ ảnh hưởng đến người sử dụng nước khác và
các hệ sinh thái nước, và chấp nhận phải thay đổi để nâng cao hiệu quả sử dụng nước
và phát triển tài nguyên bền vững. Tham gia không phải luôn luôn đạt được đồng thuận, mà cần sẵn sàng có
các quá trình trọng tài hoặc các cơ chế giải quyết xung đột.
Xây dựng cơ chế và năng lực tham gia
Tạo cơ chế khả thi cho quá trình tham gia là trách nhiệm của chính quyền trung ương,


12

khu vực và địa phương. Điều đó bao gồm việc xây dựng cơ chế tham vấn các bên liên quan ở mọi cấp, từ cấp
quốc gia, lưu vực sông, tầng chứa nước và cấp cộng đồng. Tuy nhiên có cơ chế tham vấn rồi thì cơ chế đó
không mặc nhiên bảo đảm có sự tham gia thực sự. Chính quyền còn cần hỗ trợ để nâng cao năng lực tham gia
ở cấp cơ sở, đặc biệt đối với phụ nữ và những tầng lớp thua thiệt trong xã hội. Đó không chỉ là việc nâng
cao nhận thức, xây dựng niềm tin và phát triển giáo dục, mà còn là cung cấp nguồn lực kinh tế cần thiết để
tạo điều kiện tham gia tốt hơn, xây dựng nguồn thông tin tin cậy và minh bạch hơn.
Cấp thấp nhất thích hợp
Tham gia là một biện pháp trong QLTH-TNN nhằm đạt đến sự cân bằng trong
phương pháp tiếp cận từ trên xuống và từ dưới lên. Có một số quyết định mà đơn vị ra quyết định thích hợp

nhất là hộ gia đình hay nông trại, thì sự tham gia phụ thuộc vào cơ chế và thông tin được cung cấp, để cho
các hộ gia đình hay nông trại đó có sự lựa chọn về nước, vì vấn đề nước thường là nhạy cảm.
Trong việc quản lý các lưu vực sông liên quốc gia thì đồng thời với cấp thấp nhất, lại đòi hỏi ở cấp cao nhất có
hình thức một uỷ ban phối hợp liên quốc gia.
Nguyên tắc 3: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc dự trữ, quản lý
và bảo vệ nước.
Phụ nữ tham gia vào quá trình ra quyết định
Trong các nền văn hoá khác nhau, sự tham gia của phụ nữ với vai trò người ra quyết
định bị đan xen bởi vấn đề đẳng cấp và giới, dẫn tới một thực tế là trong một số cộng đồng, sự tham gia của phụ
nữ vào quản lý nước bị bỏ qua hoặc bị cản trở. Mặc dù vấn đề giới đã được phản ánh trong tất cả những tuyên
bố về QLTH-TNN từ sau các hội nghị Dublin và Rio, vẫn còn một đoạn đường dài nữa thì những tuyên bố hoa
mỹ này mới được thay thế bằng những cơ chế và hành động cụ thể thiết thực đảm bảo sự tham gia bình đẳng
của phụ nữ trong QLTH-TNN. Vì vậy, cần phải có những nỗ lực đặc biệt để đảm bảo phụ nữ được tham gia ở
mọi cấp độ tổ chức.
Phụ nữ với tư cách người sử dụng nước
Ai cũng thấy phụ nữ có vai trò chủ yếu trong việc lấy và bảo vệ nước dùng cho sinh
hoạt, và trong nhiều trường hợp, cả nước dùng cho nông nghiệp, nhưng lại có vai trò rất mờ nhạt so với nam
giới trong việc quản lý, phân tích vấn đề và trong quá trình ra quyết định liên quan đến TNN. Trong thực tế
hoàn cảnh xã hội và văn hoá khác nhau ở các xã hội khác nhau, cần áp dụng những cơ chế khác nhau để tăng
cơ hội cho phụ nữ tiếp cận việc ra quyết định, và mở rộng phạm vi những hoạt động mà phụ nữ có thể tham
gia vào QLTH-TNN.
QLTH-TNN đòi hỏi nhận thức về giới
Khi xây dựng phương thức tham gia đầy đủ và hiệu quả của phụ nữ vào mọi cấp độ ra
quyết định, phải xem xét cách thức mà các xã hội khác nhau trao các vai trò riêng biệt về xã hội, kinh tế và văn
hoá cho nam giới và phụ nữ. Cần đảm bảo rằng toàn bộ ngành Nước có nhận thức về giới, một quá trình bắt
đầu từ việc tiến hành chương trình đào tạo về giới cho những nhà chuyên môn trong ngành Nước và cộng
đồng hoặc những nhà vận động ở cơ sở.


13


Nguyên tắc 4: Nước có giá trị kinh tế trong mọi sử dụng cạnh tranh và cần được thừa nhận là một hàng
hoá kinh tế
- Nước có giá trị như một hàng hoá kinh tế
Nhiều thất bại trước đây trong quản lý TNN là do thực tế đã có và vẫn còn quan niệm coi nước là một loại hàng
hóa không mất tiền mua, hoặc ít nhất chưa thừa nhận giá trị đầy đủ của nước. Trong điều kiện cạnh tranh
những nguồn nước khan hiếm, quan niệm này dẫn tới kết quả là nước được phân bổ cho những hoạt động sử
dụng có giá trị thấp và không khuyến khích được việc coi nước như một tài sản quí có hạn. Để khai thác lợi
ích cao nhất từ TNN có sẵn, cần thay đổi nhận thức về giá trị của nước và thừa nhận các chi phí khác (xem
dưới đây) liên quan đến cách phân bổ nước chưa hợp lý hiện nay.
- Giá trị (value) của nước và chi phí (cost) là hai khái niệm khác nhau
Giá trị ầy ủ của nước theo QLTH-TNN bao gồm giá trị kinh tế (chỉ thể hiện ra khi được sử dung) cộng với
giá trị nội tại (nước dù không được sử dụng vẫn là một thực thể vật lý đang tồn tại). Giá trị của nước được xác
định khác nhau đối với các loại sử dụng nước khác nhau. Đó là yếu tố quan trọng khi phân bổ TNN khan
hiếm dù sự phân bổ này dựa vào công cụ điều chỉnh hay dựa vào công cụ kinh tế. Chi phí đầy đủ theo QLTH16 NN bao gồm chi phí kinh tế đầy đủ - gồm chi phí cấp T
nước đầy đủ, chi phí cơ hội , chi phí ngoại lai kinh tế - cộng với chi phí ngoại lai môi trường. Các chi phí
được trang trải bởi hai mức phí nước, là phí dịch vụ nước (water fee) và phí sử dụng nước (water charge),
(xem mục 10.5.2). Thu phí nước là biện pháp kinh tế nhằm tác động vào hành vi người dùng nước để người
đó hiểu là cần bảo vệ và sử dụng nước hiệu quả. Thu phí nước cũng là cách đảm bảo thu hồi vốn và lưu ý người
dùng nước hãy bằng lòng trả thêm tiền, để đầu tư thêm cho dịch vụ nước hoàn hảo hơn.
Quan hệ giữa giá trị của nước và chi phí thể hiện ở chỗ nước chỉ có giá trị khi được sử dụng và giá trị đó thể
hiện ở chi phí. Giá trị đầy đủ và chi phí đầy đủ thường khác nhau về số trị. Trường hợp lý tưởng là khi chúng
cân bằng nhau. Đó là khi chi phí nước được tính đầy đủ, thể hiện được giá trị bền vững của nước.
- Quản lý yêu cầu bằng công cụ kinh tế
Coi nước là một hàng hóa kinh tế có thể giúp cân bằng giữa cung và cầu về nước, nhờ vậy duy trì được dòng
luân chuyển hàng hoá và dịch vụ từ nguồn tài nguyên quí giá này. Khi nước ngày càng trở nên khan hiếm,
việc tiếp tục giữ chính sách mở rộng cung cấp nước như trước là không hợp lý nữa. Cần có quan điểm và
công cụ kinh tế hiện thực để quản lý, đó là hạn chế yêu cầu sử dụng nước. Quan trọng là trong tình hình
nguồn vốn đầu tư bị hạn chế, thì nếu người sử dụng nước chấp nhận giá nước đủ cao để phản ánh được đầy đủ
chi phí thì các nhà ra quyết định mới đầu tư thêm vốn mở rộng dịch vụ nước.

- Dịch vụ tự chủ tài chính và chính sách xã hội


14

Muốn cho tổ chức dịch vụ nước hoạt động có hiệu quả thì các tổ chức đó phải có nguồn lực đầy đủ để độc
lập được tài chính bằng doanh thu của mình. Ở mức tối
thiểu, toàn bộ chi phí cấp nước phải được thu hồi, nhằm đảm bảo đầu tư bền vững.
Nhưng khi giá cấp nước lên cao thì nhà nước cần có chính sách xã hội để trợ cấp cho những nhóm thua thiệt.
Trợ cấp trực tiếp - tức bao cấp - sẽ làm méo mó thị trường nước và nói chung không nên khuyến khích.
Nhưng vẫn cần bao cấp trực tiếp một số nhóm mục tiêu nào đó, với điều kiện phải minh bạch. Tuy nhiên cần
thấy mọi bao cấp vẫn có ai đó phải trả. Nói chung, trợ cấp từ nguồn thuế thu qua ngân sách tỏ ra ưu điểm
hơn hệ thống trợ cấp chéo giữa các nhóm sử dụng nước, nhưng trong nhiều nền hành chính, trợ cấp chéo lại dễ
thực hiện hơn.
Quản lý Tổng hợp Tài nguyên Nước là gì?
Định nghĩa Quản lý Tổng hợp Tài nguyên Nước
Định nghĩa được phát biểu như sau: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước là một quá
trì nh đẩy mạnh phối hợp phát triển và quản lý tài nguyên nước, đất và các tài nguyên liên quan, sao cho
tối đa hoá các lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội một cách công bằng, mà không phương hại đến tính bền
vững của các hệ sinh thái thiết yếu (GWP).
CÂU HỎI 3: Quản lý THTNN tại LVS: ý nghĩa và vai trò.
Vì sao cần quản lý lưu vực sông và lập tổ chức lưu vực sông?
Nước vận động theo lưu vực sông, không theo địa giới hành chính. Mọi hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên nước cũng như các tác động của nó đều diễn ra trên quy mô lưu vực. Vì vậy, về mặt khoa học cũng
như thực tiễn, cần phải quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông.
Cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước trên cơ sở quy hoạch lưu vực sông đã được khẳng định là phương
pháp quản lý tài nguyên nước có hiệu quả hiện nay trên thế giới. Các nước tiên tiến cũng như các nước
trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin, Ma-lay-xi-a, Indonesia,… đều đã thành lập các tổ
chức lưu vực sông để quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Mạng lưới tổ chức lưu vực sông quốc tế (IRBNO)
đã được thành lập và có trụ sở đóng tại Paris, Cộng hoà Pháp. Các mô hình quản lý lưu vực sông ở các nước

tuy có khác nhau về hình thức và tên gọi nhưng đều được xây dựng trên cơ sở bảo đảm vai trò của các địa
phương trong lưu vực sông với sự trợ giúp cần thiết của Chính phủ trung ương trong việc giải quyết lợi ích
và chia sẻ trách nhiệm có liên quan đến tài nguyên nước giữa thượng lưu và hạ lưu, giữa các tổ chức, cá
nhân trong lưu vực sông.
Ở Việt Nam, việc quản lý lưu vực sông đã được quy định tại Luật Tài nguyên nước, ban hành năm 1998.
Tuy nhiên, Luật cũng chưa quy định cụ thể về quản lý lưu vực sông, chưa quy định nguyên tắc, nội dung
quản lý tổng hợp lưu vực sông,… Vì vậy, việc triển khai thực hiện công tác quản lý tổng hợp lưu vực sông
trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Quản lý lưu vực sông không chỉ quản lý về mặt số lượng mà còn quản lý về mặt chất lượng nước. Tình
trạng ô nhiễm nguồn nước đang gia tăng ở nước ta đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các địa phương vùng
thượng lưu (thường có các cơ sở gây ô nhiễm nguồn nước) với các địa phương vùng hạ lưu (thường phải
hứng chịu hậu quả của ô nhiễm nguồn nước). Thực tế, việc xây dựng các đề án quản lý môi trường lưu vực


15

sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai cho thấy, không thể tách rời quản lý tài nguyên nước với bảo
vệ môi trường có liên quan đến tài nguyên nước.
Để khắc phục những nhược điểm về thể chế trong việc quản lý lưu vực sông, ngày 01/12/2008 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về Quản lý lưu vực sông nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc
quản lý tổng hợp lưu vực sông.
Về tự nhiên, thuật ngữ thủy văn và môi trường nước định nghĩa "lưu vực là vùng tiêu nước của một con suối,
sông hoặc hồ". Vậy theo qui luật của tự nhiên, con người cần quản lý TNN trong phạm vi tồn tại tự nhiên của
nó, đó là quản lý lưu vực sông.
Về xã hội, con người quản lý xã hội theo địa giới lãnh thổ và hành chính, là ranh giới được hình thành do nhiều
yếu tố và theo chiều dài lịch sử. Hệ quả là đại đa số lưu vực sông trên trái đất là lưu vực sông liên quốc gia.
Tương tự như thế, các ranh giới hành chính trong một quốc gia cũng thường không trùng với ranh giới lưu
vực sông. Nhu cầu lập tổ chức lưu vực sông nảy sinh khi ranh giới lưu vực không trùng khớp với ranh giới
quản lý hành chính. Nghĩa là chỉ lập tổ chức sông liên tỉnh, tổ chức sông liên bang hoặc tổ chức sông liên
quốc gia. Hầu như không thấy nói đến tổ chức sông nội tỉnh.

Việt Nam
Dự thảo luật TNN sửa đổi định nghĩa "lưu vực sông là vùng đất mà trong phạm vi đó
nước mặt nước dưới đất chảy tự nhiên vào sông và thoát ra một cửa chung hoặc thoát ra biển". Việt Nam chỉ có
10 tỉnh ven biển trong số 63 tỉnh - thành phố là không chung lưu vực với tỉnh khác, nên đại bộ phận các tỉnh
là đối tượng tham gia các tổ chức lưu vực sông liên tỉnh.
Ba yếu tố cơ bản để quản lý lưu vực sông
Trong xây dựng hệ thống quản lý lưu vực sông, có ba yếu tố cơ bản: động lực chính trị; cơ sở pháp lý và
chính sách; khung quản lý.
Động lực chính trị đối với quản lý và tổ chức lưu vực sông
Trong khi nhiệm vụ quản lý TNN quốc gia là hiển nhiên thì vấn đề quản lý TNN tại
cấp lưu vực sông bởi một thể chế mới là tổ chức lưu vực sông, có hiện thực hay không lại tùy động lực
chính trị của hệ thống quản trị ngành Nước. Một khi động lực chính trị là rõ ràng thì các vấn đề chính sách và
pháp lý, nguồn tài chính và thể chế quản lý TNN tại lưu vực sông mới được giải quyết. Với động lực chính trị
xuyên suốt thì quản lý lưu vực sông tiếp cận tổng hợp được cả hai chiều: theo chiều dọc giữa các cấp chính
quyền và giữa nhà nước với người dân; theo chiều ngang giữa các đối tượng khai thác sử dụng và đối tượng
bị tác động.
Luật và chính sách trong quản lý lưu vực sông
Trong quản lý lưu vực sông, các yêu cầu về chính sách và pháp lý thường bao gồm;
 Xác định rõ chức năng, cơ cấu và nguồn tài chính cho tổ chức lưu vực sông và
công tác quản lý lưu vực.
 Quy định rõ vai trò và thẩm quyền quản lý của tổ chức lưu vực sông.
 Bảo đảm công bằng và minh bạch trong quá trình ra quyết định của tổ chức lưu
vực sông.


16

 Tránh cục bộ và chồng chéo nhiệm vụ giữa các bên trong tổ chức lưu vực sông.  Nêu rõ quy trình và
quyền hạn trong phân bổ TNN, khắc phục ô nhiễm nước,
bảo vệ các hệ sinh thái hoặc đối phó với thiên tai và xác định các quyền đối với nguồn nước trên lưu vực.


CAU HỎI 4 : Chiến lược QLTNN quốc gia 2020 quan điểm nguyên tắc chỉ đạo và mục tiêu của
chiến lược
QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 của THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ Số: 81/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2006
I. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO
A. Quan điểm
1. Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, là yếu tố đặc biệt quan trọng bảo đảm thực
hiện thành công các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh quốc gia.
2. Tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Mọi tổ chức, cá nhân có quyền
khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho nhu cầu đời sống và sản xuất, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ, phát


17

triển bền vững tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra theo quy định của pháp luật.
3. Quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và thống nhất trên cơ sở lưu
vực sông. Cơ cấu sử dụng nước phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Tài nguyên nước phải được phát triển bền vững; khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa
mục tiêu. Phải coi sản phẩm nước là hàng hoá; sớm xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện xã hội hoá các hoạt
động bảo vệ, phát triển nguồn nước và cung ứng dịch vụ nước.
5. Hợp tác, chia sẻ lợi ích, bảo đảm công bằng, hợp lý trong khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên
nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra ở các sông, lưu vực sông quốc tế trên nguyên tắc bảo đảm chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia.
B. Nguyên tắc chỉ đạo
1. Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước phải được thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm. Việc
thực hiện Chiến lược vừa mang tính cấp bách vừa có tính lâu dài, góp phần quan trọng vào việc thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020 và các năm tiếp theo.

2. Việc quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước phải bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông, không
chia cắt theo địa giới hành chính, đồng thời bảo đảm diễn thế tự nhiên của các hệ sinh thuỷ, các thuỷ vực và
hệ sinh thái, đặc biệt là các loài thuỷ sản quý, hiếm, có giá trị khoa học, kinh tế; bảo tồn và phát triển tính đa
dạng, độc đáo của hệ sinh thái thuỷ sinh Việt Nam.
3. Tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên nước; nâng cao trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả
tác hại do nước gây ra.
4. Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với khả năng nguồn nước, với việc bảo vệ và phát triển tài nguyên
nước. Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải mang tính tổng hợp, đa mục tiêu, kết hợp hài hoà lợi ích của
từng ngành, từng địa phương và cộng đồng trong mối quan hệ tổng thể giữa thượng lưu và hạ lưu, giữa các
vùng, khu vực, bảo đảm tính cân đối, có trọng điểm nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao và bảo vệ môi
trường.
5. Đầu tư cho bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên nước là đầu tư cho phát triển, mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội cả trước mắt và lâu dài. Nhà nước bảo đảm các nguồn lực đầu tư cần thiết, đồng thời có
chính sách huy động sự đóng góp của doanh nghiệp, cộng đồng và mở rộng hợp tác quốc tế để tăng cường
đầu tư cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước
gây ra.
II. MỤC TIÊU
A. Mục tiêu tổng quát
Bảo vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia trên cơ sở quản lý tổng hợp, thống
nhất tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chủ
động phòng, chống, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại do nước gây ra; từng bước hình thành ngành kinh tế
nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả
hợp tác, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các nước có chung nguồn nước với Việt Nam.
B. Các mục tiêu cụ thể
1. Về bảo vệ tài nguyên nước
a) Khôi phục các sông, các hồ chứa nước, tầng chứa nước, vùng đất ngập nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn
kiệt nghiêm trọng, ưu tiên đối với các sông trên lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai -



18

Sài Gòn, sông Hương;
b) Bảo đảm dòng chảy tối thiểu duy trì hệ sinh thái thuỷ sinh theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, trọng điểm là các sông có hồ chứa nước, đập dâng lớn, quan trọng;
c) Bảo vệ tính toàn vẹn và sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước và cửa sông cho các sông trọng
điểm, các tầng chứa nước quan trọng;
d) Chấm dứt tình trạng thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước mà
không được phép của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
đ) Kiểm soát được tình hình ô nhiễm nguồn nước. Chấm dứt việc sử dụng các loại hóa chất độc hại trong
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm nguồn nước và làm suy giảm đa
dạng sinh học.
2. Về khai thác, sử dụng tài nguyên nước
a) Khai thác, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên nước. Bảo đảm việc khai thác nước không vượt
quá ngưỡng giới hạn khai thác đối với các sông, không vượt quá trữ lượng có thể khai thác đối với các tầng
chứa nước, chú trọng đối với các dòng chính trên các lưu vực sông lớn và các tầng chứa nước quan trọng
của các vùng kinh tế trọng điểm;
b) Phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước hài hòa, hợp lý giữa các ngành, các địa phương, ưu tiên sử dụng nước
cho sinh hoạt, sử dụng nước mang lại giá trị kinh tế cao, bảo đảm dòng chảy môi trường; trước mắt đến năm
2010 thực hiện phân bổ tài nguyên nước bảo đảm khai thác có hiệu quả 10,5 triệu ha đất trồng cây hàng
năm và cây lâu năm với mục tiêu đạt sản lượng lương thực an toàn từ 39 đến 40 triệu tấn/năm; bảo đảm
tổng công suất các nhà máy thủy điện đạt khoảng 13.000 - 15.000 MW; nuôi trồng thủy sản nước ngọt
khoảng 0,64 triệu ha, nước lợ khoảng 0,8 triệu ha; tăng lượng nước cấp cho công nghiệp 70 - 80% so với
mức năm 2000;
c) Đạt hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội, môi trường trong cả mùa lũ lẫn mùa kiệt của các hệ thống hồ
chứa nước, đập dâng, chú trọng đối với các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Đồng Nai - Sài Gòn, các lưu
vực sông chính vùng Trung Bộ, Tây Nguyên;
d) Bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát
triển rừng, yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước và quy

hoạch lưu vực sông ở cấp quốc gia cũng như ở cấp vùng và địa phương;
đ) Hình thành thị trường cung ứng dịch vụ về nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế và thị trường
chuyển nhượng, trao đổi giấy phép về tài nguyên nước.
3. Về phát triển tài nguyên nước
a) Bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, chú trọng đối với các hồ chứa nước lớn, các hồ chứa có khu dân cư
tập trung hoặc các cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, công trình quốc phòng, an ninh quan trọng ở hạ du;
b) Hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình chứa nước phục vụ đa mục tiêu, các công trình bổ sung
nhân tạo nước dưới đất, ưu tiên đối với các vùng khan hiếm nước;
c) Bảo đảm gắn kết quy hoạch phát triển bền vững tài nguyên nước với các quy hoạch bảo vệ, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra; quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch quốc phòng, an ninh;
d) Khắc phục có hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô, chú trọng đối với các vùng Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo, các vùng biên giới.
4. Về giảm thiểu tác hại do nước gây ra


19

a) Hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản do lũ lụt, lũ quét, lũ bùn đá, đặc biệt chú trọng
các vùng thường xuyên bị lũ, bão;
b) Bảo đảm an toàn hệ thống đê sông Hồng - Thái Bình; nâng cao mức chống lũ của hệ thống đê các vùng
duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; củng cố hệ thống đê biển bảo vệ dân cư và góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng vùng ven biển; nâng cao khả năng cảnh báo lũ quét
ở các tỉnh miền núi, hạn chế thiệt hại do lũ quét gây ra;
c) Hình thành vùng an toàn lũ đối với vùng ngập nông, bảo đảm các điều kiện thích nghi và an toàn cho dân
sinh đối với vùng ngập sâu ở đồng bằng sông Cửu Long. Đến năm 2010 kiểm soát được lũ lớn tương đương

năm 1961 đối với các dòng sông chính và tương đương lũ năm 2000 đối với nội đồng; tiếp tục nâng
mức kiểm soát lũ cao hơn trong giai đoạn tiếp theo;
d) Bảo đảm các quy hoạch phát triển, tiêu chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và khu dân cư

vùng ngập lũ phù hợp với tiêu chuẩn chống lũ của vùng.
5. Về nâng cao năng lực quản lý tài nguyên nước
a) Đạt được sự thích ứng, đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, định mức trong lĩnh vực
tài nguyên nước và phát triển các dịch vụ về nước nhằm quản lý chặt chẽ tài nguyên nước, tạo động lực phát
triển bền vững ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa;
b) Hình thành đồng bộ và bảo đảm hiệu lực hệ thống quản lý nhà nước về tài nguyên nước ở các cấp; phát
triển rộng rãi các tổ chức dịch vụ về tư vấn, khoa học công nghệ, cung ứng nước; phân biệt rõ chức năng,
nhiệm vụ giữa cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước với tổ chức quản lý vận hành công trình khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, cung cấp dịch vụ về nước;
c) Trình độ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực tài nguyên nước đạt mức trung bình tiên tiến ở châu Á và
một số mặt đạt mức trung bình tiên tiến trên thế giới.




×