Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Giáo trình văn hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.97 KB, 33 trang )

1

Mục lục
I.Văn hóa học là môn học liên ngành
II. Nhu cầu và nhu cầu văn hóa
III. Biểu tượng
IV. Văn hóa dân gian
V. Lễ - Tết - Hội
VI. Giá thú
VII. Tang
VIII. Trò chơi và đời sống
IX. Thời kiểu
X. Trường văn hóa
XI. Văn hóa và phát triển văn hóa

TÓM TẮT
I. Văn hóa học là môn học liên ngành
Khi nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, cần phải kết hợp nhiều môn học khác nhau:
dân tộc chí, dân tộc học, nhân học, xã hội học, sử học, khảo cổ học, ngôn ngữ học… mà


2

trước hết và chủ yếu là các môn: dân tộc chí, dân tộc học, nhân học và xã hội học; ngoài
ra là các môn phụ trợ khác
II. Nhu cầu và nhu cầu văn hóa
1. Khái niệm về nhu cầu
Nhu là cần thiết, cầu là đòi hỏi, mong muốn. Sự đòi hỏi, mong muốn ấy xuất hiện do
động vật cảm giác thấy cơ thể nó thiếu một cái gì đó cần thiết để duy trì sự sinh tồn, và
cảm giác ấy thôi thúc động vật đến những hành vi nào đấy để có thể thỏa mãn sự thiếu
thốn đang diễn ra, như cảm giác đói thôi thúc động vật đi tìm thức ăn và ăn,


2. Sự phồn sinh của nhu cầu
Các tác nhân của sự phồn sinh
Nhu cầu biến đổi, phát triển thường xuyên.
Hai tác nhân chính của sự phồn sinh nhu cầu là:
1. Các nhu cầu đã được thỏa mãn đẻ ra các nhu cầu mới.
2. Sự tăng dân số đẻ ra nhu cầu mới.
Sự phồn sinh của nhu cầu được tóm tắt bằng một sơ đồ hình sau:
Nhu cầu (vật phẩm ý niệm) – sản xuất – vật phẩm thực tại
Vật phẩm thực tại – tiêu thụ - vật phẩm ý niệm (tu chỉnh)
Vật phẩm ý niệm – sản xuất - vật phẩm thực tại..
Nhu cầu tuyệt đối và nhu cầu tương đối
Nhu cầu tuyệt đối là những nhu cầu mà bất kỳ một thành viên nào của một xã hội nào
cũng phải được thỏa mãn ở một khuôn khổ mực độ tối thiểu.
Nhu cầu tương đối là các nhu cầu mà sự thỏa mãn chúng đem lại cho người ta sự thỏa
mãn niềm ước ao ấp ủ, là một mặt và mặt khác, về phương diện tâm lý học xã hội, đem
lại cho người ta niềm kiêu hãnh rằng mình cao hơn đồng loại. Như ăn những vật ngon lạ,
mặc những đồ sang trọng, quý hiếm, ở những ngôi nhà vừa tiện nghi vừa lộng lẫy, rực rỡ,

3. Các loại nhu cầu xã hội căn bản
Nhu cầu xã hội căn bản chia làm 6 loại:


3

1. Nhu cầu tái sản sinh loài (cũng gọi là lưu truyền huyết thống). Hình thức biểu thị
chính là tình yêu nam nữ và sự hôn nhân. Các nhu cầu phụ là đính hôn, thành hôn, ly hôn,
quan hệ vợ/chồng, quan hệ họ/hàng, nội/ngoại…
2. Nhu cầu kinh tế, gồm những đòi hỏi về sự đảm bảo cung cấp những vật phẩm và
dịch vụ cần thiết cho đời sống vật chất. Nhu cầu chính là sự làm việc và sự hưởng thụ;
nằm trong đó là vô số nhu cầu phụ như sự lao động, sự đãi ngộ, trao đổi sản phẩm, sự tiêu

thụ sản phẩm, sự cư trú, sự đảm bảo sức khỏe (y tế), sự đi lại…
3. Nhu cầu chính trị là những đòi hỏi được đảm bảo về sự thống nhất hành động
chung trong toàn xã hội, về an ninh, trật tự và phồn vinh công cộng. Đó là nhu cầu chính.
Các nhu cầu phụ có khá nhiều: quyền sở hữu các loại tài sản, các quyền công dân khác về
an toàn xã hội, về hoạt động xã hội…
4. Nhu cầu giáo dục, hoặc gọi là nhu cầu xã hội hóa, chính yếu là được trang thiết bị
có hệ thống về trí tuệ, về kỹ thuật (nghề nghiệp). Các nhu cầu phụ là sự học tại các
trường phổ thông, cao đẳng, đại học, chuyên nghiệp, sự kiểm tra, sự thi cử, sự chứng
nhận học vị…
5. Nhu cầu niềm tin (tín nhiệm) là nhu cầu thuộc tâm linh, xác lập tính cứu cánh
chính thống của đời sống xã hội và cá nhân để cá nhân tự điều khiển hành vi phù hợp lợi
ích chung của tập thể và của toàn xã hội đồng thời thấy đời sống của mình là có ý nghĩa:
sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Ở các xã hội nông nghiệp, nhu cầu chính yếu là niềm tin
vào tín ngưỡng cận tôn giáo, tôn giáo, các học thuyết triết học. Ở các xã hội công nghiệp
thì chủ yếu là niềm tin vào lý tưởng xã hội của mỗi nhóm. Các nhu cầu phụ là sự nhập
nội vào cá nhân các hệ thống lý thuyết về tôn giáo, hoặc về học thuyết, về lý tưởng, các
hệ thống luân lý xác định điều hay, dở, phải, trái trong các khuôn mẫu ứng xử.
6. Nhu cầu giải trí – tái sáng tạo là nhu cầu nghỉ ngơi về thể chất và tinh thần bằng
chuyển trạng thái hoạt động: từ các hoạt động sinh tồn sinh vật sang các hoạt động thẩm
mỹ. Nhu cầu chính yếu là tái nhận thức hiện thực theo phương thức thẩm mỹ. Các nhu
cầu phụ là sự sản xuất và tiêu thụ tác phẩm biểu tượng tính, sự phát triển các năng lực
cảm thụ thẩm mỹ, chế độ thời gian rỗi, các thiết chế rỗi và các phương tiện giải trí.
4. Nhu cầu giải trí
Khái niệm văn hóa
Từ “Văn hóa” có thể được hiểu theo nhiều phương diện và bình diện khác nhau, bởi
bản thân nó ôm mang một ngoại diện rộng lớn mênh mông là sự sáng tạo của con người
từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực sinh tồn.


4


Tác phẩm văn hóa
Văn hóa giải trí chỉ định toàn thể những sản phẩm mang tính biểu tượng do một xã
hội sản xuất và để phân biệt chúng với các sản phẩm khác của xã hội, thông thường
người ta gọi chúng là tác phẩm văn hóa.
Tác phẩm văn hóa là gì? Những gì đặc định chúng?
Trước hết về hình thức, khi áp dụng cách phân loại theo dấu hiệu học, thì đó là những
sản phẩm do một xã hội sản xuất bằng một trong các phương tiện sau đây:
1. Dấu hiệu nói (ngôn ngữ nói): diễn ngữ, ngạn ngữ, chuyện truyền miệng nói
chung;
2.

Dấu hiệu viết (ngôn ngữ văn tự): văn chương, thơ ca;

3. Dấu hiệu đồ thị: hội họa, tạo hình, múa;
4.

Dấu hiệu âm thanh: ca, nhạc;

5.

Dấu hiệu hình ảnh: ảnh, điện ảnh;

6. Dấu hiệu lai pha: nghệ thuật sân khấu, tạp kỹ, trò chơi, ứng xử, văn vật, cảnh vật,
công viên…
Thứ hai, các sản phẩm kinh tế thì cứ liên tiếp đợt này đợt khác ra đời, mỗi đợt rồi sẽ
hết đi hẳn trong đời sống, nhưng tác phẩm văn hóa lại là những sản phẩm được bảo tồn
và được truyền bá một cách thường trực và lâu dài. Các biện pháp bảo tồn và truyền bá
ấy là hàng loạt những thiết chế: thư viện, nhà bảo tàng, nhà hát, nhà chiếu bóng, xưởng
phim, viện phim, nhà xuất bản, cửa hàng ấn phẩm, nhà văn hóa, công viên văn hóa, đài

truyền thanh, đài truyền hình…
Thứ ba, là những đặc điểm trong sản xuất và tiêu thụ. Về sản xuất cũng như tiêu thụ,
tác phẩm văn hóa được thực hiện trong thời gian dành riêng cho các hoạt động tinh thần:
khi sản xuất hay tiêu thụ chúng, con người không bị phụ thuộc vào hoạt động bức thiết là
sản xuất sản phẩm vật chất cho sự thỏa mãn nhu cầu sinh tồn sơ đẳng. Thì giờ ấy là thì
giờ rỗi, tức là những khoảng thì giờ trong đó các thành viên hoặc một bộ phận của một xã
hội có thể không trực tiếp hoạt động sản xuất vật chất, mà chuyển sang những hoạt động
khác, gián tiếp, trong đó có sự sản xuất và tiêu thụ tác phẩm văn hóa.
III. Biểu tượng
Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh, tĩnh cũng như động (tĩnh: dáng vẻ một
ngôi chùa, một pho tượng, một bức tranh…; động: một điệu múa, một cảnh kịch, một
đám rước, một chuỗi hành động trong điện ảnh…) tác dụng đến cơ chế chức năng chủ


5

yếu là của tai và của mắt, gây trong tâm hồn người những rung động khoái trá về chúng,
tất nhiên với các mức độ và khía cạnh khác nhau. Biểu tượng bao gồm từ các hình tượng
trong tác phẩm văn nghệ đến các biểu tượng, biểu trưng, biểu hiện, đến các khuôn mẫu
ứng xử trong đời sống nghi thức hằng ngày hoặc trong các dịp phân kỳ tiết tấu đời sống
xã hội (các Lễ - Tết - Hội là một thứ biểu tượng).
Tính biểu tượng của tác phẩm văn hóa
Đặc thù chính yếu của tác phẩm văn hóa là tính biểu tượng.
Biểu tượng là gì? Theo nghĩa từ “biểu” là bày ra bên ngoài, “tượng” là hình ảnh, vậy
biểu tượng là cái hình ảnh được phô bày ra khiến người ta cảm được, nhận được một ý
nghĩa trừu suất.
Biểu tượng được thấy ở mọi lĩnh vực tư duy: toán, lý, hóa, văn chương nghệ thuật.
Một cách dễ hiểu hơn, người ta nói biểu tượng là cái làm cho cái không tri giác được
trở thành tri giác được. Tri giác được là cả một thế giới vật chất tự nhiên và xã hội người
sản sinh. Những cái không tri giác được là thuộc thế giới tâm linh, trí tuệ, tâm hồn, như

các giá trị trừu tượng, các đức hạnh, các thói xấu, các thực thể vô hình (như cộng đồng,
quyền lực, niềm tin, các quy luật…).
Có thể kể các biểu hiện của biểu tượng: biểu tượng, biểu trưng, biểu hiện, phù hiện,
huy hiệu, nhãn hiệu…
Nhu cầu giải trí
Nhu cầu giải trí được xác định là nhu cầu sản xuất và tiêu thụ tác phẩm văn hóa, khi
không có sự sản xuất ra vật phẩm thì sẽ không có sự tiêu thụ để thỏa mãn nhu cầu, dù sự
sản xuất chỉ do một phân số nào đó của xã hội thực hiện, trong khi ấy sự tiêu thụ thì lại
xuất hiện là cái phổ thông, cái chung. Như vậy, nhu cầu giải trí cũng được gọi là nhu cầu
văn hóa hoặc nữa là nhu cầu thẩm mỹ.

IV. Văn hóa dân gian
1. Khái niệm về văn hóa dân gian
“Dân” là những người trong một cộng đồng xã hội, “gian” là khoảng, khu vực. Văn
hóa dân gian” là những tác phẩm văn hóa do bình dân sáng tạo. Phần lớn các nước trên


6

thế giới ngày nay dùng từ “folklore” (gốc tiếng Anh, folk, nhân dân, lore, tri thức) để chỉ
hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian.
2. Nguồn gốc hình thành của văn hóa dân gian
Ở đa số các xứ la-tin, Âu châu và Mỹ châu, từ folklore, trong ngôn ngữ dân gian,
được dùng để chỉ những cuộc biểu diễn, những buổi liên hoan ca nhạc và nhảy múa, và
trong ngôn ngữ bác học, chỉ sự nghiên cứu văn hóa của nông dân.
Ở Hoa Kỳ, từ ấy thường gợi đến những ca sĩ tóc dài hoặc những người chất phát thời
xa xưa kể những câu chuyện phần lớn là nhân vật bịa đặt, như gã vô công rồi nghề, anh
chàng thóc mách, vv…
Ở Việt Nam, sự phân biệt thành dâm thư, dâm nhạc (tức văn hóa dân gian) hẳn chỉ
bắt đầu từ thời Lê Thái Tông trở đi, tức là thời kỳ nho học toàn thắng, trở thành hệ tư

tưởng chính thống của quốc gia, nhất là nho sĩ đã trở thành một tầng lớp đông đảo gắn
liền với đẳng cấp phong kiến và họ đã là một lực lượng sản xuất những tác phẩm văn hóa
với nội dung và hình thức phân biệt với văn hóa dân gian mà từ đó trở về trước vốn là
văn hóa chung của cả cộng đồng xã hội.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, việc khảo cứu văn hóa dân gian đã được tiến hành,
song đó mới chỉ là những công việc riêng tư của các cá nhân học giả người Việt Nam
hoặc người Pháp, chưa có tính cách quốc gia.
Dường như sẽ là hợp lý hơn khi hòa hợp cả hai quan niệm trên đây bằng một tiến
trình sáng tạo như sau:
- Một người có năng lực sáng tác phác thành tác phẩm (làn điệu ca nhạc, điệu múa,
vở kịch, vở kịch cho sân khấu,…vv…), và ở Việt Nam, người ta thường đặc biệt chú ý
đến những tiểu tri thức ở nông thôn; tất nhiên vẫn có những người không biết chữ Hán
(không phải tiểu tri thức) vẫn là tác giả của những bài vè, ca dao hoặc truyện cười;
- Phác thảo đầu tiên ấy, nhất là kịch bản sân khấu, bài hát, điệu múa, được đưa ra
trước những người có năng lực và liên can (họ sẽ phải trình diễn trước công chúng),
những người này bổ sung, sửa sang;
- Cuối cùng, tác phẩm được thành hình hoàn chỉnh, và đi vào đời sống xã hội; lại đến
lượt đích mỗi địa phương công chúng sửa đổi cho phù hợp với đặc điểm chi tiết của vùng
mình.
3. Các hình loại văn hóa dân gian


7

Văn hóa dân gian chỉ là một giai đoạn của sự phát triển của văn hóa của một cộng
đồng xã hội.
Phần lớn các nhà folklore đã đồng ý chia thành một số loại lớn truyền thống như sau:
văn chương truyền miệng, văn hóa vật chất, văn hóa ứng xử, những thành phần lai pha
3.1.Văn chương truyền miệng
Các chủng văn chương truyền miệng bao gồm sự diễn đạt nói và hát. Có thể chia

chúng thành ba nhóm chính:
a. Chuyện dân gian (récits populaires);
b. Diễn từ dân gian (discours populaires);
c. Khúc hát dân gian (chansons populaires);
a. Chuyện dân gian: truyền miệng bằng văn xuôi. Chia làm các thể loại :
- Huyền thoại: là chuyện kể về những nhân vật sáng thế nhưng không phải là thánh
thần. Huyền thoại là những chuyện kể về nguồn gốc, cái gốc gác sâu xa, từ vật tự nhiên là
trời đất, sông núi, loài người, cây cỏ, động vật, sự sống, sự chết,Ví dụ : Lạc Long Quân
và Âu Cơ trong huyền thoại của dân tộc Việt Nam đẻ trăm trứng nở trăm con (loài chim
và loài cá đều đẻ trứng) hoặc ông Thu Tha bà Thu Thiên trong “Đẻ đất nước” của tộc
Mường. Huyền thoại của các dân tộc, người ta còn thấy huyền thoại phát hiện những
phạm trù xã hội đối lập như tình thân/sự thù địch, tình riêng/nghĩa chung (Mỵ Châu –
Trọng Thủy)…
- Chuyện thần tiên hay thần tích: là những chuyện về các vị thần; ấy là những hư cấu
dân gian với những đoạn dài pháp luật, cũng có thể nhân vật thần tiên là người thật song
được linh diệu hóa và trở thành thần tiên. Như Việt điện u linh, Nam hải dị nhân thuộc
thể loại này. Chuyện thần tiên thường dễ bị lẫn lộn với huyền thoại với pháp thuật, linh
biệt giữa tính kỳ diệu của huyền thoại với pháp thuật, linh dị của chuyện thần tiên : Sơn
Tinh (thần Tản Viên, Chử Đồng Tử - Tiên Dung…).
- Truyền thuyết hoặc truyền kỳ: là những chuyện được người ta cho là có thật, song
hoàn toàn là bịa đặt có nhiều yếu tố hoang đường và chứa đựng những ám chỉ. Các
chuyện như Từ Thức, Tấm Cám, Mỵ Nương, Trương Chi,… thuộc thể loại này. Trong
một bộ phận truyền thuyết, nhân vật là thực, nhưng được tô đậm theo cách biến hình hay
phóng đại bằng những yếu tố hoang đường, như các chuyện An Dương Vương được nỏ
thần, Bà triệu vú dài ba thước, Lê Lợi được kiếm…, về sau này các chuyện như Nàng Ba
Đề Thám đứng trên ngựa phi bắn súng trường.


8


- Chuyện ngụ ngôn: văn xuôi hay văn vần nhằm minh họa một lời răn dạy; nhân vật
có thể là người, cũng có thể là súc vật.
- Chuyện dài: văn vần miêu tả đầy phiêu lưu mạo hiểm với tính chất hiện thực nhằm
đề cao hay phê bình một giá trị đạo đức nào đó (Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc
Hoa, Hoàng Trừu...).
- Chuyện cười: là những hư cấu ngắn, khôi hài, thường thô tục và được kết thúc bằng
một nét cay độc, chế giễu, công kích những thói hư tật xấu trong đời sống xã hội.
- Chuyện vặt: văn vần hay văn xuôi một thể chuyện mà tình tiết rất ngắn gọn, với đề
tài là một sự lố bịch, đáng cười nhằm thẳng vào một số nhân vật thường là có quyền thế
với những khuyết tật ảnh hưởng xấu đến dân chúng.
b. Diễn từ dân gian: văn vần gồm các nhóm sau
- Ngạn ngữ hoặc tục ngữ: là những tóm tắt các trí thức trong đời sống tự nhiên và xã
hội thành những từ ngữ cô đọng, dễ truyền lan từ miệng này sang miệng nọ; nhóm này
gồm: ngạn ngữ, tục ngữ, cách ngôn, châm ngôn, ca dao, phong dao, đồng dao.
- Câu đố: những miêu tả rất vắn gọn đặc điểm hình thái hay tính chất một sự vật bằng
cách ẩn dụ hay hoán dụ khiến người trả lời phải vận dụng trí tưởng tượng, hồi tưởng và
liên tưởng khi trả lời;
- Diễn ngữ: những lời diễn đạt thay cho cách nói thông thường quá thật thà đến lỗ
mãng, vào những dịp chúc tụng vui vẻ hay những dịp chia buồn (như lời mời ăn uống
“sơi chén rượu nhạt” “dùng lưng cơm dưa muối”).
c. Ca khúc dân gian: thường liên kết chặt chẽ lời ca với giai điệu.
- Chuyện hát: thể chuyện dài hay vừa, bằng văn vần, cũng có chỗ xen kẽ vài câu văn
xuôi ngắn gọn, thường là một thành phần của lễ thức ở đình, đền, vào dịp hội ở các gia
đình vào dịp lễ trọng như tang, cưới, khao. Đó là những câu chuyện về sự tích các thần
thánh (lễ thức ở gia đình), hoặc nữa là những chuyện lịch sử xã hội từ xa xưa đến hiện
kim (như các phường xẩm thường hát ở bến đò, cổng chợ).
- Ca khúc trữ tình: diễn tả một cảm xúc thành giai điệu âm nhạc, và các ca khúc này,
ta thường gọi là làn điệu, có đời sống tự lập để quần chúng đặt lời phù hợp với chúng mà
sử dụng tùy theo trạng thái cảm xúc của mình (như kể sa mạc lúc thư nhàn) và cũng làm
làn điệu cho các chuyện hát. Các làn điệu dân ca được xếp vào thể loại này (quan họ, ví,

dặm, xli…vv…).


9

- Bài hát trẻ em: một thể loại truyền miệng với hai yếu tố chính là lời hát và điệu hát.
Đặc điểm căn bản của lời hát và điệu hát là tính phi lý (tính vô nghĩa) và điệu hát đơn
giản, thiên về tiết tấu cũng đơn giản và tự do dường như nó chỉ cốt giúp cho đứa trẻ từ
tuổi thứ ba trở lên phát triển chức năng của cơ chế, và sau này khi đứa trẻ lớn hơn, các
bài hát lại là một thành phần của một trò chơi nào.
3.2. Văn hóa vật chất
Trong khi các thể loại truyền miệng chỉ tồn tại trong trí nhớ người, thì ở một đầu cực
khác, văn hóa vật chất tồn tại ở những sản phẩm hữu thể và hữu hình, bao gồm: Kiến
trúc, các nghệ thuật tạo hình, mỹ nghệ
a. Kiến trúc: là sự xây dựng nơi cư trú của nhân dân và các công trình công cộng.
Làng là đơn vị cư trú sơ bản (ở miền núi là bản, buôn). Làng được cấu thành trên một
khu vực gọi là thổ cư (đất ở) nằm trong phạm vi đền thổ chung của cả làng. Làng thường
không có hình dạng kỷ hà nhất định, nó phát triển theo sự phát triển tự nhiên của dân số.
Xung quanh làng có hàng rào cây xanh (tùy nơi là dừa, tre…), bao bọc bảo vệ sự sinh tồn
trên nhiều phương diện: an toàn xã hội, an toàn sinh học và thẩm mỹ.
Các công trình kiến trúc trong làng có thể chia hạng như sau: Chùa, Đình, Văn chỉ
hoặc văn miếu (thờ Khổng Tử và 72 Tiên Hiền); Đền; Cây hương; Quán (điếm canh nước
lũ hoặc canh đồng điền, đồng thời là nơi nghỉ dừng chân đi đường hay dừng tay làm
đồng); Quán chợ; Nhà ở của tư nhân.
b. Hội họa và tạo hình
Gồm nhiều dạng, chia thành ba nhóm:
- Nhóm trang trí thường trực trong và ngoài nhà (cả tư nhân và công cộng), tranh vẽ,
tượng trạm trổ trên tường và các bộ phận gỗ mái nhà, chữ viết (câu đối, hoành phi khắc
vào tường, gỗ và giấy…);
- Nhóm trang trí theo dịp: đồ mã chiếm vị trí ưu thắng (đèn lồng, đèn xếp, hoa

giấy…) và đồ thêu may (cờ, quạt, tàn tán, lọng, áo quần, giày mũ nghi thức…);
- Nhóm đồ chơi trẻ em: gồm nhiều chủng được kết hợp từ sự lai pha nhiều môn nghệ
thuật: đồ mã vừa khắc trạm trổ vừa đắp nặn như ông phỗng, tiến sĩ giấy, mặt nạ, tượng
đất nung, đầu lân, đầu rồng, đèn giấy nhiều hình kiểu khác nhau, con giống màu bột
gạo…vv…
c. Mỹ nghệ


10

Là các nghề làm tại nhà, thường là nghề phụ bên cạnh nghề chính là nông nghiệp theo
các kiểu mẫu truyền thống và các phương pháp cổ truyền. Một số lớn đồ dùng bằng mây,
tre, lá, gỗ, đá, sành, gốm, đồng, vải, kính…,
3.3. Văn hóa ứng xử
Bao gồm ba thành phần khuôn mẫu ứng xử:
a. Những khuôn mẫu thông thường, tức những hành vi được định thức hóa trong sự
ứng xử giữa các vai trò xã hội trong đời sống hằng ngày.
b. Những khuôn mẫu đặc biệt, tức những nghi thức đặc biệt đối với các đối tượng
đặc biệt, ấy là các Lễ - Tết – Hội.
c. Một khu vực thường tránh được nói đến là những khuôn mẫu ứng xử trong tình
dục, song dù muốn hay không chúng vẫn bộc lộ một trình độ nhất định văn hóa, và do đó
mà có tác động hiển nhiên đến sự phát triển xã hội (như sự gia tăng không kiểm soát
được về dân số, nạn hữu sinh vô dưỡng).
3.4. Những thành phần lai pha
Là các loại hình đứng ở giữa văn chương truyền miệng và văn hóa vật chất. Chúng
chứa đựng một hành động, một sự dàn dựng và những phụ tùng diễn tả. Có thể chia
chúng làm bốn: Nhóm nghệ thuật dân gian, nhóm các trò chơi, nhóm các cảnh diễn,
nhóm kỹ thuật nấu nướng.
a. Nhóm nghệ thuật dân gian: bao gồm nghệ thuật hát múa, nghệ thuật sân khấu và
tạp kỹ.

- Nghệ thuật hát múa: có hai thể loại: thể loại biểu diễn và thể loại sinh hoạt.
Biểu diễn ở đây được hiểu là biểu diễn để trước hết phục vụ cái linh thiêng (vả chăng
đây cũng là đặc điểm của hầu hết các hình loại văn hóa dân gian: một thành phần của lễ
thức). Như múa hát đưa linh, múa hát xoan đúm ả đào (hát bỏ bộ), múa hát đồng bóng,
múa hát trừ tà trục quỷ (trong đám tang, chữa bệnh…), múa lân, múa tứ linh, múa rồng…
Một khi đã có múa biểu diễn thì phải có múa sinh hoạt, vì múa lễ thức là hình thức
điển hình của múa sinh hoạt, nhưng đến nay không bảo lưu gì được ở tộc Việt. Nhảy múa
sinh hoạt (khiêu vũ) chỉ còn thấy lẻ tẻ rải rác ở một số tộc như H’mông (múa khèn), Thái
(múa xòe, sạp).
- Nghệ thuật sân khấu gồm:


11

+ Chèo: một thể loại nghệ thuật sân khấu (chủ yếu của đồng bằng Bắc bộ), lấy ngôn
ngữ cách điệu, hát và múa làm phương tiện biểu hiện. Đề tài là những câu chuyện đạo lý
rút tỉa từ đời sống của bình dân; nội dung thiên về trữ tình êm dịu với phong cách nghệ
thuật mang tính mô phỏng hiện thực.
+ Tuồng: cũng như chèo, tuồng là một thể loại nghệ thuật sân khấu lấy ngôn ngữ
cách điệu, hát và múa làm phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nhưng nếu như đặc thù về
tính chất nội dung của chèo là trữ tình êm dịu thì của tuồng lại là bi tráng, phong cách
diễn tả là biểu hiện chủ nghĩa (dùng hóa trang, phục trang, điệu bộ và gia điệu đặc cách
hóa theo lối biểu tượng pha trộn với mô phỏng để diễn trạng thái nội tâm). Đề tài khi lấy
từ lịch sử (Trung Quốc hay Việt Nam) thì gọi là “tuồng pho”, nếu đề tài lấy từ đời sống
hằng ngày thì gọi là “tuồng đồ”.
+ Cải lương: một thể loại nghệ thuật sân khấu của Nam bộ, lấy hát làm phương tiện
biểu hiện chính yếu, trừ hát ra, cải lương sử dụng ngữ điệu, động tác gần gặn với kịch
nói, chỉ cách điệu đôi chút. Cải lương thích hợp với đề tài tâm lý xã hội, thiên về trữ tình
buồn (đã từng có ý kiến cho là bi lụy).
+ Múa rối: một thể loại nghệ thuật dùng quân rối kể lại câu chuyện. Người ta thường

chia nghệ thuật múa rối thành hai chủng: múa rối nước, tức là dùng mặt nước làm sân
khấu, và múa rối cạn dựng sân khấu trên mặt đất. Múa rối thích hợp với các đề tài ngộ
nghĩnh, vui nhộn, mang tính ngụ ngôn hay ẩn dụ.
b. Nhóm các trò chơi: trò chơi của người lớn và trẻ em, trong đó chia ra:
- Trò chơi thể lực (rèn luyện sức khỏe).
- Trò chơi khéo léo (rèn luyện chức năng cơ chế).
- Trò chơi trí tuệ (rèn luyện phương pháp).
- Trò chơi tính cách (rèn luyện thái độ ứng xử).
c. Nhóm cảnh diễn: Hỗn hợp trong nó nhiều chủng loại khác nhau của văn hóa để
tạo thành cảnh diễn (Spectacle là yếu tố cấu thành các lễ - tết – hội). Hội làng, lễ cưới, lễ
tang, lễ kỳ đảo, giỗ gia tiên, tết nguyên đán…, tất thảy đều được tiến hành theo một
xênario truyền thống, nghĩa là theo một kịch bản qui định một chuỗi những cảnh diễn liên
tiếp.
d. Nhóm kỹ thuật nấu nướng: kỹ thuật nấu nướng là sự đổi khác phương thức chế
biến cùng một nguyên liệu để tạo nên sự ăn uống ngon và lành (hợp vệ sinh), thích hợp
với khẩu vị từng trường hợp. Ở đây, chia thành ba dạng chính: thức ăn, thức uống và thức
hút.


12

* Thức ăn được chia làm hai dạng nhỏ:
- Thức ăn chính: gồm các thức ăn để no, dùng trong các bữa chính, như cơm, các
món xào, nấu, luộc,rán…
- Thức ăn phụ: gồm các món ăn tráng miệng, tức ngay sau bữa ăn chính và ăn
“chơi”, tức “ăn tiêu khiển”, hoặc “ăn quà” với các món thích hợp từng buổi trong ngày,
gồm bánh ngọt, chè ngọt, hoa quả, cây củ…
* Thức uống cũng được hình thành ba dạng nhỏ:
- Thức khai vị: rượu cất bằng ngũ cốc hay hoa quả;
- Thức giải khát: nước ngọt chủ yếu được chế biến từ hoa quả và cây củ;

- Thức uống tiêu khiển: như trà, cà phê, cũng có khi là rượu phổ thông.
* Thức hút, ba thứ thuốc lâu đời ở Việt Nam là thuốc lào, thuốc lá, và thuốc phiện.
Thuốc lào là phổ thông ở miền Bắc; thuốc lá ở miền Trung, Nam; thuốc phiện ở các vùng
cao Bắc Bộ.
Một thứ khó xếp loại là “trầu” với truyền thuyết nổi tiếng là sự tích Trầu Cau. Trầu
đã có vai trò lớn khi giao tiếp xã hội.
Nếu phân loại theo chức năng (dinh dưỡng, kích thích) thì các thứ thuốc hút và trầu
thuộc loại kích thích, nhưng là kích thích sự say sưa ngây ngất, không phải kích thích sự
tiêu hóa.
4. Các chức năng của văn hóa dân gian
Chức năng tìm nguồn gốc
Trong hầu hết các huyền thoại, người ta đều bắt gặp những giải thích về nguồn gốc.
Huyền thoại bao giờ cũng nói cái gì đó sinh ra như thế nào, và đó cũng là tình hình
phổ thông của huyền thoại ở mọi nơi trên trái đất. Trong khi thực hiện chức năng tìm
nguồn gốc, huyền thoại đồng thời phát hiện những phạm trù xã hội cũng tự nhiên. Bằng
những biểu tượng về nguồn gốc, huyền thoại đem đến cho con người của mọi thời kỳ lịch
sử những cảm thức về quá khứ, cũng như ý thức về tính đồng nhất, tính thống nhất xã
hội.
Chức năng tưởng tượng


13

Tưởng tượng là sự suy tưởng, mà điểm tựa là hiện thực của đời sống đang diễn ra,
nhằm vượt thoát khỏi tình trạng hiện thời, vượt khỏi những quy định tự nhiên và xã hội
đang hạn chế sự thỏa mãn các nhu cầu sống.
Chức năng định giá trị
Giá trị ở đây được hiểu là các mục tiêu trong đời sống của một cộng đồng xã hội.
Văn hóa dân gian nói đến hàng ngàn vạn những nhân vật có công tích lớn hay nhỏ đối
với cộng đồng dân tộc bằng mọi phương tiện của nó; văn chương, nghệ thuật, đài tượng,

miếu mạo, lễ hội,…, ấy là những nhân vật xa lạ với thế giới mê tín, họ góp công tích vào
sự tồn tại của cộng đồng trên các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Họ trở thành những biểu tượng của dân tộc hoặc của một vùng. Họ tồn tại lâu dài bởi họ
là hiện thân của các giá trị, mà các giá trị này thì được văn hóa dân gian chuyên chở vào
đời sống xã hội bằng mọi hình thức nó có; đền, lăng, lễ hội…vv…
Chức năng sư phạm
Là sự hướng dẫn, khuyên bảo cụ thể những điều thích đáng, nên làm trong đời sống
tự nhiên và xã hội. Một bộ phận lớn của văn hóa dân gian (cách ngôn, châm ngôn, tục
ngữ, ngụ ngôn) được dành vào việc phổ biến những tri thức hành động. Chúng trở thành
một bộ phận cấu thành tri thức của nhân dân, đến mức bất kỳ ai, dù có học vấn của nhà
trường, cũng đều được trang bị từ hàng chục đến hàng trăm tri thức về mọi ứng xử trong
đời sống xã hội, ăn uống trang phục…
Chức năng kiểm tra xã hội
Với chức năng sư phạm, văn hóa dân gian đề xuất những qui tắc hành động thích hợp
thì với chức năng kiểm tra xã hội, nó nhấn mạnh sự cần thiết phải ứng xử xã hội thích
hợp, nó ngăn ngừa những xu hướng lệch chiều xã hội bằng cách: bộc lộ sự khinh bỉ, tức
giận và chê cười những gì xa rời các chuẩn mực đã được nhân dân thừa nhận. Cách này
đã sản sinh những câu chuyện vặt. Chuyện cười, chuyện dài chế giễu những kẻ cẩu thả,
lười biếng, biển lận, khoe khoang, nịnh hót, tàn ác, tham lam…vv…
Bên cạnh văn chương truyền miệng, là những sản phẩm văn hóa hữu thể như tranh,
tượng, nghệ thuật sân khấu. Khi bài xích như vậy, văn hóa dân gian ngầm ca ngợi những
ứng xử phù hợp với chuẩn mực được số đông thừa nhận và phù hợp với tiến bộ xã hội.


14

V. Lễ - Tết - Hội
1.

Khái niệm


Ba từ lễ, tết, hội đều gốc Hán, dùng để chỉ một loại hình nghi thức, cũng là một loại
hình phong tục.
Lễ: là hành vi cúng tế thần tổ tông, cầu phúc, lễ dần dà được mở rộng nghĩa đến lề lối
phân chia sự đóng góp và sự hưởng thụ vật cúng tế.
Văn hóa dân gian đã để lại đến hôm nay khá nhiều cuộc lễ thuộc nhiều kiểu loại:
Lễ thành hoàng: cuộc bày tỏ kính ý cầu mong phúc lành và dự phòng bất trắc
cho cộng đồng làng.
Lễ gia tiên: là các ngày giỗ, bày tỏ kính ý tưởng nhớ người quá cố trong gia
đình hay gia tộc nói chung.
Lễ chuyển đoạn: (vào làng, khao vọng) cuộc bày tỏ kính ý vui mừng đối với sự
chuyển đoạn tuổi, cũng là chuyển vai trò xã hội của cá nhân.
Lễ cưới: cuộc bày tỏ kính ý vui mừng đối với sự kiện hôn phối của đôi trai gái
đến tuổi trưởng thành.
Lễ tang: cuộc bày tỏ kính ý buồn bã đối với sự qua đời của một cá nhân thành
viên nhóm.
Lễ hạ dòng: cuộc bày tỏ kính ý dự phòng bất trắc đối với việc vào mùa sản
xuất, đồng thời kích thích ý chí người sản xuất.
Lễ kỳ an: cuộc bày tỏ kính ý cầu an khang và khu trừ sự xấu (ma quỷ) khi bước
vào mùa dịch bệnh (mùa hè).
-

…vv…

Tết: Tết hẳn là biến thức của âm “Tiết”. Tiết gốc Hán nghĩa là một đoạn thời gian
được chia ra theo sự vận động chu kỳ của khí trời đất trong một năm
- Tết nguyên đán: hết một vòng bốn mùa, ngày đầu tiên của vòng mới, tức là năm
mới.
- Tết thanh minh: chuyển sang tiết trời trong sáng.
- Tết 5 tháng 5: chuyển sang chính dương (mặt trời chiếu thẳng) nên còn gọi là đoan

dương hay đoan ngọ.


15

Các tết Trung nguyên, Trung thu cũng gắn liền với tiết hậu. Cả những biểu thị được
nông dân xưa gọi là tết như hạ đồng, thượng đồng, thường tân (cơm mới) cũng quan hệ
chặt chẽ với tiết hậu.
Vậy tết là một sự cử hành một nghi thức để đánh dấu, loan báo sự đến của một kỷ
thời gian với cả khí tượng của nó.
Hội: Hội nói đây là cuộc hội làng, như hội Dóng, hội Láng, hội Dâu,… Khi ngôn ngữ
hàng ngày nói “đông như hội” là cũng quy chiếu vào cuộc hội, mà chủ yếu là hội làng
của xã hội nông nghiệp.
Hội là “đám vui đông người” (Việt Nam tự điển – KTTĐ, 1931) định nghĩa này quá
sơ sài, nhưng nêu được hai đặc điểm hình thái của hội: (1) – Đông người tập trung tại một
địa điểm; (2) – Vui chơi.
Quan sát các hội, trước hết người ta thấy:
- “Cuộc vui đông người” chỉ được gọi là hội khi nó được tổ chức nhân dịp kỷ niệm
một sự kiện quan thiết đến một cộng đồng xã hội, nhỏ nhất cũng là làng. Như kỷ niệm
thành hoàng làng mới có hội làng;
- Cũng do sự kiện ấy quan thiết đến một cộng đồng xã hội nên hội được tổ chức
nhằm lợi ích tinh thần của mọi thành viên cộng đồng, tức là nó mang tính công cộng cả
về tư cách tổ chức cũng như mục đích. Tính công cộng còn khiến hội không ngăn cấm
hay cự tuyệt công chúng từ các cộng đồng khác tới dự; hội mở cửa đón khách thập
phương.
- Hội bao giờ cũng có nhiều trò vui, nên gọi là “bách hí”. Tính vô số đến như hỗn
độn, đầy tràn trò vui, đích là một đặc điểm căn bản của hội. Người ta nói “vui xem hát,
nhạt xem bơi, tả tơi xem hội” là xuất phát từ tính vô số trò vui của hội.
Tóm lại:
- Cuộc lễ là sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội hay tự nhiên, hư tưởng hay

có thật, đã qua hay hiện tại, được thực hành theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức
thẩm mỹ, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ của công
chúng hành lễ.
- Tết là một hành lễ vừa tượng trưng vừa thực tại đối với thời tiết là chủ yếu, trong
một thời gian định sẵn theo chu kỳ tự nhiên, để cầu thịnh vượng, an khang và kích thích ý
chí của người sản xuất trước mỗi thời tiết chính của việc sản xuất nông nghiệp.


16

- Hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí công cộng, diễn ra tại một địa
điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt
sự phấn khích, hoan hỷ của công chúng dự lễ.
2. Chức năng của lễ - tết – hội
Lễ hội nhằm biểu hiện giá trị của nhân vật được cử lễ, mà nhân vật ấy, thật hay hư
cấu, thì lại gắn bó với nhóm hay cộng đồng từ trong quá khứ và trong nhiều trường hợp
liên hệ ấy tồn tại như bất chấp thời gian: ấy là trường hợp các nhân vật có công tích về
phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa hay xã hội đối với cả một cộng đồng (ở nước ta:
vua Hùng, ông Dóng, hai Bà Trưng…). Do vậy, khi lễ hội biểu hiện giá trị của nhân vật
được cử lễ, thì đấy cũng đích là giá trị của cả cộng đồng.
Có thể nói: trong xã hội nông nghiệp, mỗi lễ - tết – hội là một dịp để người ta vươn
lên tạo nên một đời sống không tự nhiên, một đời sống do con người làm nên, một đời
sống có văn hóa cao. Như thế lễ - tết – hội là hình ảnh văn hóa kết tinh của dân cư nông
nghiệp; hay nói lễ - tết – hội có thể được xem như động lực của văn hóa nông nghiệp.
3. Kế thừa lễ - tết – hội:
1)

Kịch bản lý thuyết lễ - hội làng.

2)


Một số công việc trong kế thừa.

Phụ lục: Những yếu tố văn hóa “lạc hậu” trong lễ - tết - hội cổ truyền
1.

Sự thờ phượng

Sự thờ phượng với tư cách là một hình thái ý thức (cái tôi ý thức được thần linh, tức
là sự ý thức một nguồn gốc,một bản thể) chắc chắn phải được quy chiếu vào các thời kỳ
muộn mặn của lịch sử, không vào các thời kỳ nguyên thủy. Người nguyên thủy, với công
cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thường là rất thấp kém, nên bị bận tâm vào hiệu
quả ngay trước mắt để có thể tồn tại. Đối với người nguyên thủy, các biện pháp ma thuật
(như trừ tà trục quỷ, kiêng kỵ xem điềm, đoán mộng, v.v…) chỉ vừa vặn là những biện
pháp kỹ thuật nhằm thu được hiệu quả nhiều hơn trong lao động..
2.

Sự ăn uống linh đình trong các lễ - tết - hội


17

Ăn uống hơn thường hoặc khác thường vào các dịp lễ tết hay hội là hiện tượng
thường thấy trong mọi xã hội cũng như trong mọi thời kỳ lịch sử, tuy nhiên, điều khiến ra
chú ý ở đây là sự ăn uống ấy đã trở thành một tục lệ xã hội. Đến ngày nay vẫn là một trở
ngại cho sự phát triển văn hóa – xã hội.
Cỗ bàn trong các lễ - tết - hội với các nghi thức của chúng đã là cơ hội để người ta có
đủ điều kiện (lương thực, thực phẩm, dụng cụ, thì giờ, nhân công, trí tuệ) đi sâu vào
“nghệ thuật” nấu nướng nói riêng, ăn uống nói chung. Điểm lại, những món ăn ngon, độc
đáo, vươn lên khỏi trình độ tiêu thụ sơ đẳng (thường được diễn đạt bằng thành ngữ

“chém to kho mặn”) đã được ra đời từ các lễ - tết - hội, chỉ trong các lễ - tết - hội, bởi lẽ,
với năng suất lao động thấp kém của trình độ sản xuất thủ công, người ta không thể có
thực phẩm cao cấp cũng như điều kiện chế biến đủ cho những bữa ăn hàng ngày. Mặt
khác, chính cũng vì lẽ ấy nên mỗi dịp lễ - tết - hội là một dịp để người ta thỏa mãn nhu
cầu ăn uống đầy đủ hơn, ngon hơn, tức là “có văn hóa” hơn (“động mõ không bằng gõ
thớt”, “trâu bò được ngày hủy đồng, con cháu được ngày giỗ ông”).
VI. Giá thú
Giá thú: là một từ được ghép bởi hai từ đơn giá và thú. Giá là lấy chồng, thú là lấy
vợ. Vậy giá thú nghĩa là lấy chồng lấy vợ. Cũng có khi được dùng như danh từ (việc giá
thú), nghĩa là việc lấy chồng lấy vợ, việc trai gái lập gia đình.
Trở lại với vấn đề. Giá thú đáp ứng một trong sáu nhu cầu xã hội căn bản là: thỏa
mãn tình yêu nam nữ và tái sản sinh loài.
Nhu cầu tình yêu nam nữ và tái sản sinh loài là vĩnh hằng đối với con người được
thực hiện qua hai bước:
- Sự hứa giá thú hay sự đính hôn.
- Các nghi thức giá thú.
1. Hình thức hứa giá thú
Hình thức này trong mỗi thời kỳ lịch sử mỗi khác nhau, thí dụ khi còn chế độ mẫu hệ,
hay khi còn quần hôn thì hình thức hứa giá thú chắc chắn không như hôm nay là gia đình
một vợ một chồng trong xã hội phụ hệ tư hữu tài sản.
Trong luật Gia Long chỉ có hai trường hợp được chú ý dành cho đôi trai gái quyền
quyết định, ấy là:


18

Trường hợp giá thú khi chỉ còn bà con xa.
Điều 109 luật Gia Long trù liệu một trường hợp trong đó người nam đóng vai trò tích
cực, tỏ rõ sự ưng thuận của mình. Khi người chủ hôn không là bậc tôn trưởng như cha
mẹ, ông bà, chú bác, anh chị, hay ông bà ngoại, nếu giá thú do chính hai bên nam nữ

quyết định, những người này sẽ bị coi là chính phạm và người chủ hôn chỉ là tòng phạm
tội được giảm một bậc.
Trường hợp xa nhà
Điều 94 qui định: nếu một người ty ấu là quan chức hay buôn bán làm ăn xa nhà, đã
tự ý làm giá thú, mà trong khi ấy ở nhà ông bà, cha mẹ, hay chú bác, cô ruột, anh chị
không biết, lại làm hôn nhân khác trong khi người ấy vắng mặt, thì hôn nhân nào làm
trước sẽ có giá trị. Sự thật, các điều khoản trên đều đã được dự liệu trong luật nhà Thanh,
mà luật Gia Long chỉ là một bản sao; xa hơn nữa trong bộ luật nhà Đường cũng đã có
những điều khoản này.
Tóm lại: trong luật truyền thống, điều kiện sự ưng thuận của đôi trai gái không xuất
hiện trong luật Hồng Đức.
Tuổi của đôi nam nữ cũng là một điều kiện: “Con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi
trở lên, mới có thể được thành hôn: ngoài ra hai bên trai gái và người chủ hôn (là cha mẹ
hay trưởng tộc) phải không có tang từ một năm trở lên.”
Luật hôn nhân và gia đình của xã hội ta hiện nay qui định tuổi giá thú là nữ 18 trở
lên, nam 20 tuổi trở lên.
2. Nghi lễ giá thú
Có thể chia nghi lễ giá thú thành hai hồi chính:
- Hứa giá thú (đính hôn).
- Thành hôn.
Trong luật hôn nhân và gia đình của ta hiện nay, với tinh thần tôn trọng đặc biệt sự tự
thực hành hôn nhân của đôi trai gái, nên không có qui định một nghi thức đính hôn nào.
Khi đôi nam nữ ưng thuận nhau, họ hứa hẹn với nhau thì đó là sự hứa giá thú, và sự hứa
giá thú ấy cũng không cần sự chứng kiến của bất kỳ một nhân vật thứ ba nào. Và nếu
không có gì thay đổi giữa họ với nhau (người nam và người nữ) và nếu họ muốn, họ
chuyển ngay sang những thủ tục của nghi thức thành hôn theo luật định (đăng ký kết hôn
tại UBND xã hay phường, ký giấy kết hôn, nhận giấy kết hôn).


19


Lễ nghị hôn ( Ngày nay ngôn ngữ thông thường gọi là lễ chạm hay dạm; chạm là
chạm mặt, cũng có nơi nói chạm ngõ, còn dạm là ướm hỏi, cả hai từ đều có nghĩa và phù
hợp, có thể tùy dụng).
Lễ định thân
(Thường gọi là lễ vấn danh, tức lễ ăn hỏi).
Đích nhằm chủ yếu của ngày lễ này là hỏi tên, nhất là ngày sinh tháng đẻ của cô gái
để tiến hành so đôi tuổi theo nguyên tắc sinh khắc của thuyết ngũ hành. Ngày thi lễ, nhà
trai làm lễ cáo tổ tại nhà từ đường, nếu không có từ đường thì tại nhà hương hỏa, rồi đem
đủ lễ vật vấn danh đến nhà gái.
Lễ nạp thái
(Hay nạp tệ, lễ hành sính, tục: lễ dẫn cưới).
Trước khi thực hiện, người mối đến nhà gái hỏi lại sự thỏa thuận đồ sính lễ. Đến ngày
đã định, nhà trai đem đủ đồ sính lễ đến nhà gái, và thủ tục tiến hành giống như lễ định
thân.
Lễ thân nghênh
(Hay nghênh hôn, tục: đón dâu).
Ngày lễ, chủ nhà trai làm lễ cáo tổ tại từ đường. Trước khi đón dâu, đưa một chén
rượu cho con trai uống mà bảo: “Đi đón nội tướng của con để gánh vác việc tôn đường ta,
cùng bảo nhau giữ chữ kính, nối mãi nếp nhà”
VII. Tang
“Tang” là một từ gốc hán, có nghĩa là công việc phải làm với người mới chết. Những
công việc ấy được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn mới chết đến khi táng, dù mai táng
hay hỏa táng (“táng” nghĩa là cất giấu, vùi đất lên); giai đoạn tiếp theo sau khi đã mai
táng hay hỏa táng, gồm những phần việc (nghi thức) như “để trở”, cúng các tuần, cúng
giỗ, cải táng,…, tất cả được gọi là tang lễ hay tang chế. Thực ra “tang lễ” hay “tang chế”
vốn là đồng nghĩa, nhưng khi dùng trogn hiện thực đời sống hình thức “lễ tang” thiên về
chỉ cuộc lễ chôn cất người mất, còn “tang chế” lại thiên về chỉ các thể chế sau khi đã tống
táng.
Nói chung lại, lễ tang hay tang chế là những công việc được nghi thức hóa của người

sống đối với người chết, bao gồm cả việc tống táng và truy tưởng.
1. Lễ tang


20

Ngay từ những buổi đầu tiên trong lịch sử của mình, loài người đã phải giải quyết
quan hệ nam nữ, tức là sự giá thú theo cách này hay cách khác tùy theo mỗi thời kỳ lịch
sử, thì cũng là như thế đối với người chết và người sống, tức là mối quan hệ giữa người
sống với người chết hoặc còn gọi là lễ tang, cũng cổ xưa như loài người vậy.
2. Tang chế
Tang chế là chế độ để tang, qui định thời gian để tang dài hay ngắn tùy thuộc sự thân
sơ giữa các thân thuộc nội ngoại
Tang phục không phải được dùng trong suốt thời kỳ có tang. Người chịu tang chỉ mặc
tang phục vào các dịp sau đây:
-

Ngày nhập quan (tức ngày liệm người chết và đặt vào quan tài).

-

Ngày chôn cất.

-

Ngày thứ 49 sau khi chết (ngày tuần thất trai).

-

Ngày thứ 100 (ngày tốt khóc).


Và lần cuối cùng khi làm lễ hết tang. (Trong lễ này áo tang được mặc phủ ra
ngoài các quần áo thường).
Nhưng trong thời kỳ cư tang, dù không phải hàng ngày mặc tang phục, người chịu
tang không được mặc và trang sức xa xỉ, tránh vải vóc sang trọng, màu sắc lòe loẹt hay
rực rỡ, để biểu thị sự tưởng nhớ và nỗi buồn rầu của mình.
3. Các nghi thức tang lễ
Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ viết: “Lễ tang từ lúc mới chết cho đến lúc
cất đám, người đời xưa đều dùng lệ “sự sinh”, nghĩa là dâng cúng đều theo như nghi lễ
lúc sinh thời, chứ chưa có tế lễ. Chỉ khi nào tân khách đến phúng viếng thì mới có tờ
trạng cáo, bài văn tế để vào phúng. Gần đây, từ lúc có lễ phạn hàm, đặt linh tọa, lúc thành
phục, cho đến lúc cúng cơm tuần thất thất thì đều dùng văn tế cả.”
“Lễ tang, ba ngày thì quàn, bốn ngày thì thành phục, ba tháng mới chôn, hết một
năm thì làm lễ tiểu tường, hơn hai năm thì làm lễ đại tường, cách một tháng nữa thì làm
lễ đạm tất tức là hết chờ.” (Vũ Trung tùy bút, NXB VH TP Hồ Chí Minh, tr. 169).
Sau đó hàng năm đến ngày chết, người ta làm lễ kỷ niệm gọi là kỵ nhật, ngày giỗ.
- Lễ phạn hàm: phạn là cơm đi đường, hàm là ngậm, phạn hàm là nghi thức, như
Phạm Đình Hổ nói là “Theo lệ sự sinh”, nghĩa là theo cách như đối đãi khi còn sống.


21

Người ta bỏ vào miệng người chết một nhúm gạo, sau này lại thêm mấy đồng tiền, với ý
nghĩa là để lấy gạo tiền đi sang Tây Trúc (Ấn Độ) hoặc Tây Thiên (Cõi cực lạc
- Khâm liệm: khâm liệm cũng không phải là một lễ, chỉ là một hành vi bình thường,
gồm có tiểu liệm và đại liệm; tiểu liệm là mặc quần áo mới sau khi đã tắm rửa người
chết; đại liệm là bọc người chết bằng một tấm vải; các nhà giàu có thường liệm bằng vải
vóc quí và quàn tại gian giữa nhà (đầu chổng ra ngoài sân). Cũng trong ngày này người ta
đặt linh tọa.
- Lễ thành phục: nghĩa là sau khi đã quàn được một ngày, người trong họ theo thứ

tự năm bậc (ngũ phục), làm lễ mặc áo để tang. Ngày nay thành phục không còn là một lễ,
chỉ là một hành vi nằm trong tiến trình tang lễ. Lễ thành phục bao gồm cả phát khốc, và
người đến thăm viếng chỉ đến sau khi đã phát khốc.
- Tống táng phát dẫn là đưa thi hài đi chôn, đây không phải là một lễ, chỉ là một
công đoạn. Đoàn tống táng được bố cục thành một đám rước, thường cấu trúc như sau: trống cái, cồng - cành phan - cờ ngũ hành (xếp theo sinh khắc lấy màu vàng ở giữa làm
điểm tính) – bát âm, linh tọa – cầu kinh của các bà vãi có nơi có cả sư đi cầu kinh –
phường tuồng, linh cữu, con cháu, người đi đưa tiễn.
- Huyệt: hướng huyệt của người Kinh tùy thuộc vào thế con đất do thầy địa lý qui
định, nhưng ở người Rađê đầu người chết hướng về phía Đông, người Gia-rai, Pnông,
Cămpuchia, Lào lại hướng đầu về Tây. Bây giờ hướng huyệt đã không có tầm quan trọng
mê tín như xưa, mà nơi nào có nghĩa địa thì theo hướng qui định của nghĩa địa, mà hướng
qui định của nghĩa địa thì theo hướng cổng vào chính và hướng của đài tưởng niệm.
- Linh tọa: một án hay bàn, trên có một linh vị đề tên thật và tên bụt người quá cố,
xung quanh kết lụa bạch để linh hồn đậu vào, có nơi để cành phan kết lụa bạch.
Chú ý cần phân biệt thao tác nghi thức như phạn hàm, khâm liệm, làm lễ là làm lễ,
dâng lễ cúng chứ không tế, tế là dâng lễ cúng bằng hình thức tế: xếp đội hình, có văn tế,
có nhạc.
- Lễ ngu: ngu là yên ổn, lễ ngu là lễ ngụ ý người chết đã yên ổn ở nơi cuối cùng.
Cũng vì vậy mà lễ ngu là lễ cúng sau khi chôn cất (chú ý: tính theo ngày chôn chứ không
tính theo ngày mất). Một ngày sau khi chôn là sơ ngu, hai ngày là tái ngu, ba ngày là tam
ngu. Ý nghĩa của lễ này là sự yên vị của người chết. Ngày nay người ta chỉ làm tam ngu:
vừa cúng người chết, vừa chiêu đãi bà con đã có công giúp đỡ trong tang lễ, nhưng lại
lầm lẫn tính theo ngày chết.


22

Sau đó hằng ngày cúng cơm chay (bát cơm và quả trứng) cho đến ngày thứ 49, tính từ
khi mất thì làm tuần thất thất, tức tuần 49 ngày.
- Cúng tuần thất thất đến nay đã trở thành một lễ. “Theo thuyết Phật thì người chết

cứ 7 ngày một lần duyệt án ở bảy tòa án của Diêm Vương, hết bảy cửa ấy được thoát án
thì sẽ lên cõi siêu sinh tịnh độ. Bởi vậy dịp này người ta lập đàn chay để cầu phúc và rước
linh hồn vào chùa, đây là một lễ tiết thuộc Phật giáo.”
- Cúng tuần bách nhật: tức tuần 100 ngày, là thời hạn thôi không khóc lóc kêu gào
nữa, gọi là tốt khốc. Trong hạn 100 ngày, hằng ngày mỗi bữa cơm đến, người con trai
trưởng lại ô hô khóc ba lần mời cha hay mẹ mới chết về ăn cơm, đến hết 100 ngày thì
thôi không phải khóc thế nữa. Tuần 100 ngày thuộc Nho.
- Lễ tiểu tường: là giỗ đầu (tường nghĩa là tốt cành).
- Lễ đại tường: theo Phạm Đình Hổ là lễ tiến hành vào tháng thứ 27 sau khi đã chết,
và cách một tháng sau thì làm lễ đạm tất (đoạn tang), nhưng hồi đầu thế kỷ này, lễ đại
tường thường được làm vào giỗ thứ ba, cũng vừa là ngày sang mộ. Đây cũng là lễ thuộc
đạo Nho.
4.

Một số phụ tùng trong lễ tang

4.1. Nhà táng
Cái nhà táng (tức nhà để chôn đi cùng với người chết). Nhà táng được làm bằng
xương tre, nứa và dán bằng giấy màu cắt, trổ, vẽ. Nhà táng có hai tác dụng:
+ Để che đi linh cữu, tạo ấn tượng thẩm mỹ, tránh sự hãi hùng cho người quan sát.
+ Làm vật chôn theo (bằng cách đốt đi) để người chết có nhà ở.
4.2. Phường bát âm
Trong thực tế, phường bát âm hồi xưa làm những phần việc:
- Tấu nhạc thờ khi đã bắt đầu nhập quan, nhất là về đêm khuya; thường pha thêm kể
chuyện công lao người đã chết, theo giọng thập ân (mười ơn của cha mẹ), theo một cốt
mẫu và thay đổi ít nhiều cho phù hợp với người chết đang sự.
- Tấu nhạc mỗi khi có người đến phúng viếng, trong khi ấy thì con gái, con dâu cất
tiếng khóc, các con trai lạy đáp lễ.



23

Phường bát âm hiện nay nơi có, nơi không. Sự thật, để bát âm không có hại gì. Duy
chỉ có hai điều nên chú ý:
- Phần lớn phường y phục nhếch nhác, phá tính nghiêm trang của lễ tang.
- Tang chủ phải phục vụ ăn uống; phiền hà và cũng mất vệ sinh và thiếu thẩm mỹ
(chỉ nên khoán gọn).
4.3. Đối trướng
Đối là câu đối, khổ ngang chừng 0,4m khổ dọc thường 2m, trên viết chữ Nho thành
hai vế đối ý nhau. Trướng là bức vải khổ chừng 1,2m x 2m, trên đề bốn hay năm chữ hán
to tỏ một lời thương tiếc, thường là những câu đã thành sáo ngữ trong đám tang như:
“Thiên thu vĩnh biệt”, “Viễn du tiên cảnh”, v.v… Đối trướng phần lớn do khách hay bà
con thân thuộc phúng điếu với hai ý nghĩa:
- Nó là một đồ phúng thực sự.
- Sau đấy có ích thực dụng cho gia chủ.
4.4. Gậy chống của con trai
Tang trảm thôi (trảm: chém, chặt; thôi: áo tang, nghĩa là áo tang dùng dao chặt đường
gấu, không viền, áo xổ gấu) dành cho:
- Các con để tang cha mẹ;
- Vợ và vợ lẽ để tang chồng.
Áo tang may bằng vải gai thô rất xấu (thô ma bố).
Tang tề thôi (tề: bằng, nghĩa là có khâu viền gấu) dành cho các hạng “để trở” tôn
thuộc ông, bà, cụ, kỵ,… và cũng có hạng dùng gậy, nhưng từ đầu thế kỷ hai mươi người
ta đã bỏ dần gậy.
4.5. Bát cơm quả trứng
Dùng trong cúng cơm hàng ngày, khi mới mất cũng như hết tuần 49. Bát cơm thường
đơm úp hai bát làm một, biểu tượng sự sinh sôi nảy nở của phụ nữ. Bát cơm quả trứng là
sự biểu thị: chết là đi sang, đi vào một sự sống khác. Cũng do đó tiếp tục 49 ngày cúng
chay vẫn là bát cơm và quả trứng. Người ta quan niệm có một cái gì đó vĩnh viễn.



24

VIII. Trò chơi và đời sống
Phần I
1. Ý niệm
“Chơi” của tiếng Việt là một từ chỉ chung mọi hoạt động rỗi: xem nghệ thuật sân
khấu, nghe ca nhạc, chơi đàn, đóng kịch, đọc sách, tham quan cảnh trí đẹp, tỉa gọt chậu
hoa cây cảnh, uống trà nói chuyện dưới trăng hay trong chiều đẹp, v.v… Những hoạt
động thông qua các trò chơi như đánh cờ, đánh bài, đánh đu, đánh vật, múa lân, ném còn,
đánh khăng, đáo, bi, nhảy ô, nhảy dây,… cũng được gọi là chơi.
2. Đặc thù của trò chơi
Những trò chơi thể lực, như đu, vật, bơi bắt vịt, múa lân, kiệu bình kho, kéo co,…
giúp cho cơ thể cường tráng hơn, uyển chuyển hơn, phản ứng linh hoạt hơn và dẻo dai,
bền bỉ hơn.
Những trò chơi khéo léo khiến thị giác sắc nhọn hơn, xúc giác tinh tế hơn, sự vận
động cơ bắp (cảm giác trong) chính xác hơn, như các trò chơi tung hứng, chuyền, khăng,
bi, đáo, nhảy dây…
Những trò chơi tính toán (các thứ cờ) rèn luyện thêm tính phương pháp, tính linh lợi
xử lý tình huống.
Những trò chơi may rủi, dù cho nguồn gốc của một bộ phận trong chúng là từ những
biện pháp ma thuật xa xưa (xin âm dương, xin quẻ thẻ…) như xóc đĩa, giồi, lú, thò lò,
oản tù tì… cũng không phải như một số người nghĩ là những trò chơi vô bổ.
Các trò chơi khổ luyện (nhìn lâu vào mặt trời không chớp mắt, ngồi lâu một tư thế
không động đậy, nhìn thẳng vào nhau không cười, nghe chuyện pha trò không cười…)
giúp cho đứa trẻ chiến thắng tính bất ổn định ấu thơ để xây dựng tính tự chủ bản thân.
Vậy có thể nói tóm tắt chức năng đặc thù của các trò chơi là: Rèn luyện những phẩm
chất cơ bản chủ yếu về thể chất và trí tuệ, và một phần về luân lý cho sự lao động của con
người theo phương pháp thẩm mỹ.
3. Đồ chơi

Đồ chơi là công cụ của sự chơi. Có thể nói: không có đồ chơi sẽ không có sự chơi.
Đồ chơi là một yếu tố cấu thành trò chơi vậy.


25

Thế giới của đồ chơi trải ra rộng lớn mênh mông: từ những đồ vật đến những đồ chế
tác riêng cho trò chơi, từ những vật hữu hình đến những vật vô hình, từ vật do người làm
ra đến những vật sẵn có trong tự nhiên. Điều ấy khiến khó vạch định ranh giới cho ý niệm
đồ chơi.
4. Phân loại trò chơi
Tâm lý học đã đề xuất những cách phân loại gắn liền với lứa tuổi người chơi, do vậy
những phân loại ấy thiên về phân loại các giai đoạn phát triển tâm lý người chơi là phân
loại trò chơi. Roger Caillois, nhà văn hiện đại Pháp (1913), là người quan tâm nhiều đến
các trò chơi, phân biệt bốn loại trò chơi tùy theo chúng bị yếu tố nào trong bốn yếu tố sau
đây chiếm ưu thế:
- Sự ganh đua: (Agôn, tiếng latinh), thí dụ như các trò chơi vũ thuật: đấu kiếm, đấu
vật;
- Sự may rủi: (Alea, nt), thí dụ các trò chơi bài lá, cờ là những trò chơi đặt người chơi
vào vị trí như nhau khi bắt đầu vào cuộc;
- Sự giả đò: (Mimicry, nt), thí dụ những trò chơi giả trang của người lớn, trò làm mẹ,
trò làm chị của trẻ em;
- Sự say sưa ngây ngất: (Ilink, nt), thí dụ trò chơi phi ngựa vòng hay đu bay.
Vậy là Roger Cailois chia các trò chơi thành hai loại: có qui tắc và không có qui tắc.
Không có qui tắc là trò chơi giả đò (la mimicry) và say sưa ngây ngất (l’ilinx) thấy ở trẻ
em từ hai đến năm tuổi. Đó là những trò chơi tự do. Có qui tắc là những trò chơi ganh
đua (l’agôn) và may rủi (l’alea) được đứa trẻ ưa thích từ tuổi lên sáu.
4.1. Trò chơi thể lực
- Sức khỏe là chính: Kéo co, đu bay, đua ngựa, leo núi, bơi thuyền, bơi bắt vịt (hoặc
quả bóng, quả bưởi), kiệu bình kho, nhảy cừu; các trò chơi khổ luyện: mở mắt lâu không

chớp, đứng im lâu không động đậy, nói một hơi câu dài, nhìn mặt trời, lặn lâu dưới nước.
- Khéo léo là chính: Các thứ đáo, quay, y-ô, đánh vòng bằng bọ dừa, cánh cam, bi,
khăng, chuyền, các trò tung hứng và thăng bằng nhẹ (đặt cây gậy đứng trên tay, trên
trán…), các thứ cầu, diều, chong chóng, rải ranh, nhảy dây, nhảy ô, trồng nụ trồng hoa,
bịt mắt bắt dê, bịt mắt đập niêu, ú tim, đi cà kheo, thả vòng cổ vịt hay cổ chai, các thứ
pháo giấy, pháo đất, đi xe đạp chậm, làm bóng hình bằng bàn tay, gấp bằng giấy, nói câu
dễ nhịu…


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×