Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Phong cách ngôn ngữ khoa học và công nghệ tiếng việt và các quy tắc hoạt động của nó trên bình diện văn hóa khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.62 KB, 4 trang )

Phong cách ngôn ngữ khoa học và công nghệ tiếng Việt và các quy tắc hoạt động của nó trên
bình diện văn hóa khoa học

Phong cách ngôn ngữ khoa
học và công nghệ tiếng Việt
và các quy tắc hoạt động của
nó trên bình diện văn hóa
khoa học
Bởi:
TS Đào Hồng Thu

Cơ sở khái niệm và các nguyên tắc hoạt động của phong cách ngôn ngữ
khoa học
Cơ sở khái niệm
Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm về phong cách xuất hiện từ thời kỳ Hy Lạp và La
Mã cổ đại cùng với sự xuất hiện của khoa học về hùng biện. Phong cách ngôn ngữ là sự
kết hợp của hai nhân tố : “nói gì” và “nói như thế nào”, có nghĩa đây là sự tổng hòa các
phương tiện ngôn ngữ. Cơ sở khái niệm phong cách ngôn ngữ là đánh giá quan hệ các
phương tiện biểu đạt và nội dung biểu đạt.
Xét về phương diện văn hóa khoa học thì trong từng lĩnh vực hoạt động của các khoa
học khác nhau, phong cách ngôn ngữ có những sắc thái biểu đạt đặc thù. Cơ sở phong
cách ngôn ngữ văn bản khoa học tiếng Việt hiện đại là các chuẩn ngôn ngữ viết bằng
tiếng Việt có các tính chất xác định, cụ thể là:
Từ vựng học. Sử dụng số lượng lớn các từ và thuật ngữ chuyên ngành dưới dạng từ
thuần Việt hoặc vay mượn. Từ loại thường được lựa chọn rất cẩn thận để đạt nghĩa chính
xác tối đa. Chiếm vị trí đáng kể là kết từ và các từ đảm bảo mối liên kết lôgích giữa các
thành phần lời nói riêng biệt (trạng từ).
Ngữ pháp. Chỉ sử dụng các chuẩn ngữ pháp đã được xác định chắc chắn trong văn viết.
Khác với tác phẩm văn học với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng các nhân vật, văn bản
1/4



Phong cách ngôn ngữ khoa học và công nghệ tiếng Việt và các quy tắc hoạt động của nó trên
bình diện văn hóa khoa học

khoa học và công nghệ có xu hướng mô tả và giải thích hiện tượng xác định một cách
chính xác nhất. Vì vậy, trong văn bản khoa học và công nghệ phần lớn sử dụng các câu
phức chủ động và bị động, trong đó chiếm ưu thế là danh từ, tính từ, các dạng bị động
và vô nhân xưng của động từ.
Phương thức trình bày văn bản. Nhiệm vụ chính của văn bản khoa học và công nghệ là
đưa được lượng thông tin nhất định đến tận người đọc một cách thật rõ ràng và chính
xác. Điều này đạt được bằng cách soạn thảo văn bản có cơ sở lôgích trên thực tế, không
sử dụng các từ, các thành ngữ và cấu trúc ngữ pháp mang tính biểu cảm. Phương thức
tạo lập văn bản như vậy có thể gọi là phương thức trình bày lôgích.
Các đặc điểm nêu trên thường thuộc về các khoa học tự nhiên và chính xác (cũng như
các lĩnh vực ứng dụng của chúng) như toán học, thiên văn học, vật lý, hóa học, địa chất,
luyện kim, sinh vật học, thực vật học, động vật học, trắc địa học, khí tượng học, cổ sinh
vật học, y học, điện tử học, kỹ thuật điện, kỹ thuật vệ sinh, hàng không, nông học, lâm
học, hầm mỏ, quốc phòng, xây dựng, giao thông và công nghiệp hóa học, công nghệ cơ
khí.
Theo R.V.Iupelta, các khoa học như kinh tế học, xã hội học, lịch sử và pháp lý không
thuộc về lĩnh vực này do tính chất đặc thù của các khoa học này gần với các bộ môn
khác. Đôi khi ở các giới hạn phân loại này chúng ta gặp những tác phẩm được viết ở
trình độ cao về văn học (công trình của nhà sinh vật học người Anh Tr.Tomson, nhà hóa
học người Pháp A.Muanxan, nhà địa chất người Nga A.E.Phecxman). Thông thường,
khi chứng minh một luận điểm bất kỳ, khi minh họa một ý nghĩ nào hoặc khi tranh luận
với các phản biện khoa học của mình, cách thể hiện của tác giả có thể gần với cả cách
thể hiện của nhà hùng biện, của bài báo hoặc gần với ngôn ngữ một tác phẩm văn học.
Tuy nhiên, các trường hợp như vậy đều không điển hình.
Phong cách ngôn ngữ văn bản khoa học và công nghệ có một vài cấp bậc. Các văn bản
khoa học khác nhau không chỉ bởi lĩnh vực khoa học mà văn bản đề cập tới, mà còn bởi

mức độ chuyên môn hóa của chúng. Các đặc trưng nêu trên hoàn toàn có liên quan đến
các tài liệu tham khảo và các bài báo, tóm tắt và sách giáo khoa. Tuy nhiên, trong văn
bản của các sách chỉ dẫn về kỹ thuật, danh mục, bảng biểu, báo cáo kỹ thuật, bản liệt
kê và hướng dẫn đôi khi có thể có những câu không có vị ngữ (khi tính các số liệu về
kỹ thuật và v.v.) hoặc chủ ngữ (nếu theo văn bản cụ thể). Trong các sách chỉ dẫn về kỹ
thuật thường gặp nhiều đoạn văn bản chỉ là liệt kê con số. Bảng biểu, bảng liệt kê, báo
cáo kỹ thuật và danh mục thường được lập theo khuôn mẫu cứng và bằng các thuật ngữ
chuyên ngành. Khuôn mẫu về từ vựng - ngữ pháp cũng tồn tại trong văn bản về chứng
nhận.

2/4


Phong cách ngôn ngữ khoa học và công nghệ tiếng Việt và các quy tắc hoạt động của nó trên
bình diện văn hóa khoa học

Nguyên tắc hoạt động của phong cách ngôn ngữ trong văn bản khoa học và công
nghệ tiếng Việt
1. Sử dụng một lượng lớn các thuật ngữ khoa học, nghĩa là các từ hoặc cụm từ
biểu đạt nghĩa của khái niệm về khoa học. Chúng ta không thể xác định được
giới hạn rõ ràng giữa thuật ngữ và từ của ngôn ngữ toàn dân do sự đa nghĩa của
nhiều từ. Ví dụ, các khái niệm phổ biến như điện, nhiệt độ, ô tô và các từ
thường được sử dụng như nguyên tử, chất dẻo, vitamin, vũ trụ, trong ngôn ngữ
toàn dân là nơi mà các thuật ngữ khoa học chỉ đóng vai trò thứ yếu (phụ thuộc),
không phải là các thuật ngữ. Mặt khác, những từ đơn giản như nước, trái đất,
lửa, chất lỏng, lực, bạc, áp suất lại là thuật ngữ trong văn bản khoa học cụ thể.
2. Hệ thống hóa các thuật ngữ tiếng Việt khoa học và công nghệ cơ bản thường
gặp khó khăn do cùng một thuật ngữ có ý nghĩa khác nhau trong các lĩnh vực
khác nhau của khoa học hoặc thậm chí trong các giới hạn của một lĩnh vực (ví
dụ, trong lĩnh vực công nghiệp than tồn tại hơn 6 000 tên gọi cho 300 ngành

nghề cơ bản), cũng như bởi sự xuất hiện số lượng lớn các thuật ngữ mới.
3. Trong tiếng Việt còn sử dụng nhiều thuật ngữ và cấu trúc vay mượn, trong đó
có cả đồng nghĩa về từ vựng : cùng một khái niệm có thể được biểu đạt bằng
các từ khác nhau, chủ yếu là các từ có nguồn gốc Latinh (Pháp), Anglơ
Xăcxông (Anh) hoặc Slavơ (Nga). Theo nghiên cứu của chúng tôi, trong các
văn bản khoa học và công nghệ, trong đó chủ yếu là văn bản khoa học kỹ thuật,
tiếng Việt chịu ảnh hưởng rất lớn của các ngôn ngữ nước ngoài nêu trên, đặc
biệt là trong các văn bản dịch do các tác giả dịch đã chuyển dịch sang tiếng
Việt các cấu trúc mang nhiều sắc thái của ngôn ngữ ban đầu hơn là thuần Việt
(ví dụ, trong các văn bản khoa học công nghệ thông tin : mouse - chuột,
computer - máy tính, keyboard - bàn phím hoặc cách dịch các cấu trúc bị động
như từ tiếng Nga sang tiếng Việt).
4. Trong văn bản khoa học và công nghệ, cá nhân tác giả lùi xuống vị trí thứ hai
còn tên gọi sự vật, quá trình v.v. được chuyển lên vị trí thứ nhất do vấn đề được
quan tâm là các hiện tượng cụ thể cần mô tả và giải thích. Ngoài ra, trong văn
bản khoa học hiện đại, nội dung thường được truyền đạt bởi các cấu trúc vô
nhân xưng dạng : cần phải, không được, nên v.v. Do vậy, có thể nói rằng, văn
bản khoa học và công nghệ có phương thức biểu đạt nội dung trung lập hoặc có
phong cách trung lập. Tác giả có xu hướng loại bỏ khả năng lý giải võ đoán bản
chất sự vật. Vì vậy, trong văn bản khoa học và công nghệ hầu như không sử
dụng các phương tiện biểu cảm như ẩn dụ, hoán dụ và v.v., và sự biểu đạt văn
bản mang đôi chút đặc tính hình thức, khô khan.

Tài liệu tham khảo
1. Đinh Trọng Lạc. (1998) Phong cách học. Nxb. Giáo dục.
2. Flood W.E. The problem of vocabulary in the popularisation of science.
Edinburgh - London.
3/4



Phong cách ngôn ngữ khoa học và công nghệ tiếng Việt và các quy tắc hoạt động của nó trên
bình diện văn hóa khoa học

3. Hook J.H. Hook’s guide to good writing. New York.
4. Đào Hồng Thu. (2002) Phong cách học và Phong cách chức năng khoa học kỹ
thuật - công nghệ. Tập bài giảng, ĐHBK Hà Nội.

4/4



×