Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Trò chơi đóng vai theo chủ đề và vai trò của nó đối với sự phát triến tâm lý trẻ em tuổi mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.83 KB, 22 trang )

A.
MỞLỤC
ĐẦU
MỤC
Nội dung
1. Lý do chọn đề tài.
A. Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
“Trẻ em như búp trên cành
2. Mục đích nghiên cứu.
Biết
ăn,
3. Đối tượng nghiên cứu. biết ngủ, biết học hành là ngoan. ”
Lứa tuổi mẫu giáo là một quãng đời có tầm quan trọng đặc biệt trong qúa
Nộitriển
dungchung của trẻ em. Đúng như L. N. Tonxtoi đã nhận định: “ Tất
trìnhB.phát
cả những cái gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành người lớn đều thu nhận
Tổngthời
quan
nghiên
về TCĐVTCĐ
ở trẻ
em lứa
được1. trong
thơcácấu.
Trongcứu
quãng
đời còn lại,
những
cáituổi


màmẫu
nó giáo.
thu nhận được
Các
nghiên
cứu
về
TCĐVTCĐ
trên
thế
giới
chỉ đáng một phần trăm những cái đó mà thôi ”.
CácGiai
nghiên
cứutrẻvềem
TCĐVTCĐ
ViệtlàNam
đoạn
tù' 3 - 6ởtuổi
giai đoạn có nhiều sự thay đối trong tâm
2.
Các
khái
niệm

bản
lý của trẻ: các em vừa bước ra cuộc khủng hoảng lên 3 và chuẩn bị đế bước vào
Hoạt động chủ đạo
lớp 1.
Hoạt

động
chủ đạo
trẻ em
Với
sự phát
triếncủa
chóng
mặtlứa
củatuổi
xã mẫu
hội -giáo
các bà mẹ trẻ thường lo ngại khi
Trò
chơi
thấy trẻ chơi quá nhiều. Liệu họ có nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
chơi
đóng
đề Liệu họ có thấy được toàn bộ đời sống tâm lý
độngTrò
vui
chơi
ở vai
trẻ theo
hay chủ
không?
3. Đặc
điểm
TCĐVTCĐ
trẻ emchủ
lứađạo

tuối- mẫu
giáo
của
trẻ bị
ảnhcủa
hưởng
bởi hoạtở động
TCĐVTCĐ
- và có đưa ra được
Trẻ
em
lứa
tuổi
mẫu
giáo
những phương pháp tích cực trong việc tố chức hoạt động vui chơi cho trẻ ?
CấuVới những
trúclý do trên,củangười viếtTCĐVTCĐ
xin nghiên cứu về đề tài: “ Trò chơi
Sự
phát
triển
của
TCĐVTCĐ
đóng vai theo chủ đề
và vai trò của nó đối với sự phát triến tâm lý trẻ em tuổi
Vai
mẫu4.giáo
”. trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển tâm lý trẻ em
tuối mẫu giáo

nghiên cún:
Vai2.tròMục
củađích
TCĐVTCĐ
đối với sự phát triển nhận thức
Vai trò của TCĐVTCĐ đối với sự phát triến ngôn ngữ
Vai trò của TCĐVTCĐ đổi với sự phát triển tình cảm
Vai trò
của rõ TCĐVTCĐ
sự phát
chívai theo chủ đề
- Làm
những vấn đềđốicó với
liên quan
đến tròtriển
chơi ýđóng
Vai
trò
của
TCĐVTCĐ
đối
với
sự
phát
triến
hệ
thống
động
(TCĐVTCĐ) và thấy được vai trò của nó đối với sự phát triển cơ
tâm lý trẻ em lứa

Vai mẫu
trò giáo.
của TCĐVTCĐ đối với sự phát triển cái tôi
tuổi
cái nhìn tông
động vui chơi
ở trẻ.
c. - Giúp
Ketngười lớn có
luận
vàthế về hoạtkiến
nghị
Đưa
ra
một
số
phương
pháp
tổ
chức
hoạt
động
vui
chơi
hiệu
quả ở trẻ.
Danh mục tài liệu tham khảo
3. Đối tưọng nghiên cứu:

Nghiên cứu về TCĐVTCĐ - vai trò của nó đối sự phát triển tâm lý trẻ em

tuổi mẫu giáo.

21


B. NỘI DƯNG

1. Tổng quan các nghiên cún về TCĐVTCĐ ở trẻ em lứa tuổi mẫu

giáo.
1.1. Các nghiên cún về TGĐVTCĐ trên thế giói.

Hoạt động vui chơi mà trung tâm là TCĐVTCĐ chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng trong đời sống trẻ em lứa tuổi mẫu giáo. Chính vì thế, từ lâuTCĐVTCĐ đã thu hút, lôi cuốn sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học
thuộc các lĩnh vực khác nhau nhu:sinh học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục
học...
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - nhiều học thuyết trò chơi xuất hiện.
Trên cơ sở đó, các nhà khoa học phát triẻn TCĐVTCĐ ở trẻ.
Theo N. K. Crupxkaia thì : “ Trẻ có nhu cầu chơi vì trẻ mong muốn hiểu
biết về cuộc sống xung quanh, hơn nữa trẻ mẫu giáo rất thích bắt chước người
lớn, thích được hoạt động tích cực với bạn bề cùng tuối. Hoạt động chơi giúp tre
thỏa mãn hai nhu cầu trên...”
Các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô Viết như: L. Vưgôtski, A. N.
Lêônchiép, A. p. Uxôva...cho rằng: TCĐVTCĐ là sản phẩm sáng tạo của trẻ
dưới ảnh hưởng trục tiếp của môi trường xung quanh. Họ nghiên cứu lịch sử
phát triển của trò chơi trong mối liên quan với chính sự phát triển của xã hội loài
người và với sự thay đổi vị trí của đứa trẻ trong hệ thống các mối quan hệ xã
hội.
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu này đều khắng định một điều không thể
chối cãi : TCĐVTCĐ mang bản chất xã hội rõ rệt. Đúng như nhà tâm lý Pháp là

Henri Walìon (1879 - 1962) trong khi nghiên cứu về TCĐVTCĐ đã chỉ ra tính
phức tạp và đầy mâu thuẫn trong hoạt động vui chơi của trẻ. Trong TCĐVTCĐ,
trẻ tác động lại thế giới bên ngoài nhằm lĩnh hội cho được những năng lực của
con người chứa trong thế giới đó. Trẻ luyện tập được năng lực vận động, cảm
giác và những năng lực trí tuệ, luyện tập những chức năng và các mối quan hệ xã
hội.
1. 2 Các nghiên cứu về TCĐVTCĐ ở Việt Nam

3


Ớ Việt Nam, TCĐVTCĐ ở tuối mẫu giáo đã thu hút đuợc nhiều nghiên
cứu của các nhà tâm lý học. Những công trình nghiên cứu của PGS-TS Nguyễn
Ánh Tuyết, những báo cáo khoa học của cố GS-TS Nguyễn Khắc Viện đã phân
tích làm rõ tầm quan trọng của TCĐVTCĐ ở lứa tuổi mẫu giáo.
Đồng thời, các nhà khoa học chỉ ra cấu trúc và những phương pháp phát
triển TCĐVTCĐ ở trẻ.
2. Các khái niệm cơ bản:

2.1.

Hoạt động chủ đạo:

Cuộc sống của trẻ em ở mỗi giai đoạn thật muôn màu muôn vẻ với những
chuỗi hoạt động khác nhau. Có những dạng hoạt động với lứa tuổi này là chủ đạo
và có ý nghĩa lớn với sự phát triển tâm lý, nhân cách trẻ. Có những dạng hoạt
động khác lại giữ vai trò phụ thuộc và ít có ý nghĩa hơn. Sự phát triển tâm lý trẻ
không phải phụ thuộc vào những hoạt động nói chung mà chủ yếu phụ thuộc vào
hoạt động chủ đạo.
“Hoạt động chủ đạo đó là hoạt động mà sự phát triển của nó quy định

những biến đối chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lý và trong các đặc điểm tâm
lý của nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhất định”
Hoạt động chủ đạo có những đặc điếm sau đây:
+ Là hoạt động có đối tượng mạnh mẽ, chưa hề có trước đó. Chính đối
tượng mới này tạo ra những cái mới (hay những cấu tạo mới) trong tâm lý, tức là
sự phát triển.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sổng tâm lý của trẻ.
Những quá trình tâm lý của trẻ được cải tố, được tô chức lại bằng hoạt động này.
+ Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng diễn ra đồng
thời và tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoan phát triển.
Theo lý luận của Đ. B. Encônin, những tài liệu về tâm lý học trẻ em Việt
Nam thường phân tích hoạt động chủ đạo của trẻ theo lứa tuổi sau:
+ Từ lọt lòng đến khoảng 15 tháng: được gọi là tuối hài nhi với hoạt động
chủ đạo là hoạt động giao tiếp xúc cảm trực tiếp với mẹ và người lớn.

4


+ Từ 15 tháng đến 3 tuối: được gọi là tuối ấu nhi, với hoạt động chủ đạo
là hoạt động với đồ vật.
+ Từ 3 tuổi đến 6 tuổi: được gọi là tuổi mẫu giáo với hoạt động chủ đạo là
vui chơi mà trò chơi đóng vai theo chủ đề là trung tâm.
+ Từ 6 tuối đến khoảng 12 tuối: được gọi là tuối nhi đồng với hoạt động
chủ đạo là học tập, tương ứng với bậc tiếu học.
+ Từ 12 đến 15 tuổi: được gọi là tuổi thiếu niên, hoạt động chủ đạo là
giao tiếp cá nhân - thân tình, tương ứng với bậc phổ thông cơ sở.
+ Từ 15 tuôi đến khoảng 18 tuối: được gọi là tuối thanh niên với hoạt
động chủ đạo là học tập - nghề nghiệp, tương ứng với bậc phố thông trung học.
Cách chia này có ý nghĩa lớn trong lý luận và thực tiễn. Người lớn cần
nắm vững những hoạt động chủ đạo đối với từng giai đoạn phát triển của trẻ

nhằm hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ hoàn thiện nhân cách, phát triển tâm lý
bình thường.
2. 2. Hoạt động chủ đạo của tré em lứa tuổi mẫu giáo:

Vào tuối mẫu giáo, ở trẻ xuất hiện nhiều hình thức hoạt động phong phú (
như vui chơi, lao động, học tập...) nhưng trong đó vui chơi chính là hoạt động
chủ đạo của trẻ em lứa tuối mẫu giáo.
Hoạt động vui chơi là một trong các loại hình hoạt động của trẻ ở trường
mầm non, là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo được người lớn tố chức, hướng
dẫn nhằm giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu vui chơi và nhận thức, đồng thời nhằm
giáo dục và phát triển toàn diện tâm lý cho trẻ ở lứa tuổi này.
Có thế nói, vui chơi là hoạt động chủ đạo không phải vì trẻ mẫu giáo dành
nhiều thời gian cho nó, mà chính là trò chơi đã gây nên những biến đối về chất
trong tâm lý trẻ, nó chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ và các dạng hoạt
động khác, làm cho chúng mang màu sắc của lứa tuổi mẫu giáo.
Những hình thức trò chơi như trò chơi chức năng, trò chơi xây dựng, trò
chơi có luật, trò chơi đóng kịch...đều xuất hiện ở lứa tuối mẫu giáo. Trẻ mẫu
giáo cũng thích những trò chơi này nhưng hấp dẫn nhất vẫn là trò chơi đóng vai
theo chủ đề - loại trò chơi mang đầy đủ ý nghĩa nhất của hoạt động vui chơi.

5


Hoạt động vui chơi của trẻ mâu giáo có đặc điêm sau:
+ Khác với học tập và lao động, vui chơi là một hoạt động không mang
tính bắt buộc. Vui chơi không phải là hoạt động tạo ra sản phẩm và hành động
chơi không nhất thiết phải tuân theo một phương thức chặt chẽ.
+ Động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động
chứ không phải ở kết quả (A. N. Lêônchep - D. B. Encônin ). Trò chơi mang
tính tự nguyện rất cao. Có vui thì mới chơi, đã chơi thì phải vui. Đó chính là tính

chất đặc biệt của vui chơi. Không ai có thể áp đặt hay chơi hộ trẻ.
+ Vui chơi là một dạng hoạt động mang tính chất tụ’ lập. Trong khi chơi,
trẻ mẫu giáo thể hiện rõ nhất ý thức làm chủ, trẻ hoạt động hết mình, tích cực và
độc lập hơn hẳn. Với những gợi ý của người lớn, trẻ sáng tạo những dạng hoạt
động mới đế thỏa mãn nhu cầu của mình.
+ Trong hoạt động vui chơi, trẻ có nhu cầu chơi với nhau. Các trò chơi
của trẻ không còn mang tính chất riêng lẻ, đơn độc mà có liên quan đến người
khác, tức là trẻ có tính hợp tác với bạn cùng chơi. Sự hợp tác tạo ra nhóm chơi ở
trẻ, một trong những cơ sở xã hội đầu tiên của loài người.
+ Hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo mang tính chất ký hiệu - tượng
trung. Tính chất ký hiệu - tượng trung ở đây là trẻ biết lấy cái này đế thay thế
cho cái khác, có thế là thay thế cho con người, cho các đồ vật hay thay thế cho
những động tác trong hoạt động thực.
Như vậy có nghĩa là trẻ không hoạt động một cách trực tiếp với các đồ vật
mà hoạt động với cái thay thế.
Vì vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo nên cần phải tập trung
sinh lực đế hình thành và hoàn thiện hoạt động ấy ngay tù’ khi nó còn non yếu.
Giáo dục ở giai đoạn này cần phải quan tâm hơn cả đến việc tố chức hoạt động
vui chơi, làm cho hoạt động này có hiệu quả giáo dục và phát triển mạnh mẽ
nhất.
2. 3. Trò choi.

6


Ngay tù' đầu tuôi vườn trẻ, trong hoạt động phối hợp với người lớn, trẻ em
đã lĩnh hội được một số hành động với các đồ chơi rồi về sau tự trẻ tái tạo lại
những hành động đó. Người ta thường gọi những hành động đó là trò chơi.
Trò chơi của trẻ là một hoạt động phản ánh sáng tạo độc đáo, thực hiện
tác động qua lại giữa trẻ với môi trường xung quanh. Qua đó làm thỏa mãn nhu

cầu vui chơi của trẻ.
Trò chơi với tư cách là một hình thức hoạt động đặc biệt của trẻ em, có
lịch sử phát triển riêng gắn liền với sự biến đối địa vị của đứa trẻ trong xã hội.
Không the gắn liền trò chơi của đứa trẻ với cái gọi là trò chơi của các động vật
“non”. Cái gọi là trò chơi của các “động vật non” là sự luyện tập các hình thức
hành vi bản năng được truyền lại bằng con được di truyền. Hành vi của con
người không có bản chất bản năng, trẻ em lấy nội dung của các trò chơi của
mình từ cuộc sống xung quanh người lớn.
Các loại trò chơi hiện nay của trẻ mâu giáo:
Ớ nước ta, trong những năm 60, trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân
thành hai nhóm:
+ Nhóm 1: Trò chơi phản ánh sinh hoạt.
+ Nhóm 2: Trò chơi vận động.
Trong những năm 70, sự phân loại trò chơi của trẻ mẫu giáo chưa được
thống nhất. Các nhà giáo dục được học và tiếp cận với quan điếm phân loại của
nước nào thì đứng về quan điếm phan loại của nước đó.
Từ những năm 80 trở lại đây, trong các trường mầm non ở nước ta vận
dụng cách phân loại trò chơi theo quan điếm của Liên Xô(cũ). Theo quan điếm
này, trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân thành hai nhóm chính:
+ Nhóm 1 : Nhóm trò chơi sáng tạo, bao gồm:
Trò chơi đóng vai theo chủ đề
Trò chơi xây dựng-lắp ghép
Trò chơi đóng kịch
+ Nhóm 2: Nhóm trò chơi có luật, bao gồm:
Trò chơi học tập

7


Trò chơi lao động

Trò chơi là phương tiện phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, là phương
tiện đế trẻ học làm người.
A. X. Macaruico đã viết: “Trò chơi có một ý nghĩa rất quan trọng đối với
trẻ. Ý nghĩa này chang khác nào ý nghĩa của sự hoạt động sự làm việc và sự
phục vụ đối với người lớn. Đứa trẻ thế hiện như thế nào trong trò chơi thì sau
này trong trường hợp lớn nó cũng thể hiện như thế trong công việc. Vì vậy một
nhà hoạt động trong tương lai trước tiên phải được giáo dục trong trò chơi. Toàn
bộ lịch sử trong một con người là một nhà hoạt động trong hay một cán bộ có
thế quan niệm như là một quá trình phát triển trò chơi, một sự chuyển dịch dần
từ sự tham gia vào trò chơi sang sự chuyển dịch các công việc. Cũng vì vậy mà
ta có quyền gọi trò chơi là trường học của cuộc sống”. (Bài ca sư phạm).
2. 4 Trò choi đóng vai theo chủ đề

TCĐVTCĐ hay còn gọi là trò chơi giả bộ, có tính tượng trung độc đáo,
mô tả lại những sự việc diễn ra trong cuộc sống sinh hoạt của trẻ. Đây là một
hoạt động chủ đạo vui chơi của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, giúp trẻ hình thành kỹ
năng và phát triển nhân cách.
Khi trẻ lên ba tuối trẻ bắt đầu có ý thức về bản thân mình, biết phân biệt
mình với người khác trong cộng đồng nhỏ. Mối quan hệ giữa trẻ em với người
lớn mang tính chất mới (hoạt động cùng nhau được thay thế bằng việc thực hiện
những nhiệm vụ độc lập theo lời chỉ dẫn của người lớn). Quan hệ giữa trẻ và bạn
bè cùng lứa tuổi được hình thành. Trẻ bắt đầu đế ý và bắt chước người lớn về
mọi mặt. Trẻ muốn tự’ khắng định mình bằng cách tập làm người lớn. Nhưng
trên thực tế, trẻ chưa có đủ năng lực, kỹ năng kỹ xảo, cần thiết với những công
việc của người lớn. Mâu thuẫn diễn ra gay gắt giữa một bên là nhu cầu một bên
là khả năng của trẻ ba tuổi.
TCĐVTCĐ ra đời thay thế cho hoạt động với đồ vật ở lứa tuổi vườn trẻ
giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn này. Trò chơi giúp trẻ tái tạo lại đời sổng lao động
của người lớn cùng với những mối quan hệ xã hội, làm trẻ thỏa mãn khát vọng
được sống như người lớn.


8


Trong trò chơi trẻ được phân những vai khác nhau như vai bác sỹ - bệnh
nhân, vai cô giáo - học sinh, vai mẹ con, vai người bán hàng - người mua
hàng....
3. Đặc điểm TC§VTC§ của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo.

Trẻ em thỏa mãn nhu cầu xã hội cơ bản của mình thông qua hoạt động vui
chơi cụ thế là TCĐVTCĐ. Đó là khát vọng vươn tới cuộc sống chung với người
lớn - một cuộc sống không thế thỏa mãn trên hiện thực. Trẻ tự cho mình hợp
nhất lại thành các nhóm trẻ và tổ chức trong các nhóm đó một cuộc sống vui
chơi đặc biệt. Trong cuộc sống đó, mỗi đứa trẻ tự' nhận cho mình một vai trò.
Trò chơi phân vai với tư cách là một hình thức đặc biệt của cuộc sống chung
giữa trẻ em với người lớn, xuất hiện từ địa vị đặc biệt của trẻ trong xã hội do sự
phức tạp hóa nền sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong trò chơi phân vai, sự tái tạo các hành động có đối tượng lùi xuống
hàng thứ yếu, nối lên hàng đầu là sự tái tạo các mối quan hệ xã hội và các chức
năng lao động
3.1.

Trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

Trẻ em lứa tuổi mẫu giáo là những trẻ nằm trong độ tuổi từ 3-6 tuổi.
Ớ lứa tuổi này trẻ có những thay đối về thế chÊt và các hoạt động cơ bản.
+ về thế chất :ở trẻ em nhanh chóng xảy ra sự trưởng thành về hình thái
cũng như não bộ: trọng lượng não tăng từ 1100 gram đến 1300 gram. Vai trò
điều chỉnh và kiếm tra của bán cầu đại não tăng cường đối với các trung tâm ở
dưới vỏ.

Bộ xương được cốt hóa, cơ to ra, cơ quan hô hấp và tuần hoàn phát triến.
Tốc độ những phản xạ có điều kiện tăng nhanh, hệ thống tín hiệu thứ hai và các
bộ máy nhận cảm phát triển nhanh. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
những chức năng tâm lý cấp cao ở trĩ.
+ về các hoạt động cơ bản:
Hoạt động với đồ vật ở tuối ấu nhi được thay thế dần bằng các dạng hoạt
động khác: đó là hoạt động vui chơi, học tập và lao động. Ba dạng hoạt động

9


này thế hiện các trình độ phát triến theo bậc thang khác nhau vủa đời người: lúc
đầu trẻ mới biết vui chơi sau đó học tập và cuối cùng là lao động.
Đặc biệt hoạt động vui chơi mà trung tâm là TCĐVTCĐ được xem là hoạt
động chủ đạo của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo. Nó tạo ra những biến đổi về chất
trong sự phát triến tâm lý trẻ đồng thời còn có tác dụng chi phối những hoạt
động khác.
3. 2. Cấu trúc của Trò choi đóng vai theo chủ đề

TCĐVTCĐ có cấu trúc tương đổi phức tạp. Nó bao gồm chủ đề chơi, nội
dung chơi, vai chơi, hành động chơi, mối quan hệ của trẻ trong trò chơi, đồ chơi,
hoàn cảnh chơi...
3. 2.1. Chủ đề và nội dung TCĐVTCĐ

+ TCĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo phản ánh cuộc sống xung quanh với
những mảng hiện thực phong phú. Các mảng hiồn thực được phản ánh vào trò
chơi được coi là chủ đề của trò chơi.
Trẻ càng tiếp xúc rộng rãi với đời sống bao nhiêu thì chủ đề của trò chơi
càng phong phú bấy nhiêu: có thể là chủ đề gia đình, chủ đề bệnh viện, chủ đề
bán hàng.

Cùng với sự phát triến của trẻ, chủ đề chơi không chỉ tăng theo số lượng
mà còn được phức tạp hóa dần và được mở rộng.
Ví dụ: cùng chủ đề trò chơi là sinh hoạt gia đình, nhưng ở trẻ mẫu giáo bé
thế hiện vai chơi khác so với trẻ mẫu giáo lớn.
+ Nội dung của trò chơi là những hoạt động của người lớn mà đứa trẻ
nhận thức được và phản ánh vào trò chơi của mình. Đó là những hành động của
người lớn với các đồ vật với các mối quan hệ giữa họ với nhau, những yếu tố
đạo đức, thẩm mỹ...
Việc tái tạo lại những hành động ấy trở thành nội dung cơ bản trong trò
chơi của trẻ mẫu giáo.

10


3. 2. 2. Vai choi và hành động choi.

+ Vai chơi là một yếu tố quan trọng đế tạo nên trò chơi-Trẻ đóng vai có
nghĩa là tái tạo lại hành động của nguời lớn với các đồ vật trong những mối
quan hệ nhất định với những người xung quanh.
Trong vai chơi, trẻ nhận làm một chức năng xã hội của một người nào đó,
thường là chức năng mang tính chất nghề nghiệp.
Ví dụ: trẻ đóng vai làm người lớn, làm cô giáo, làm người bán hàng.
Đóng vai là con đường giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người xung
quanh.
+ Muốn đóng một vai nào đó trẻ phải biết thực hiện hành động của vai.
Những hành động này xuất phát tù’ hành động thực tế mà trẻ trông thấy trong đời
sống hiện thực hay được nghe kể lại.
Ví dụ: trẻ vào vai bác sỹ phải biết khám bệnh, trẻ đóng vai cô giáo phải
biết giảng bài...
Những thao tác của hành động phụ thuộc vào đồ chơi của trẻ. Do đó cả

hành động chơi và thao tác chơi phải phù hợp với điều kiện thực tế. Vai trong
trò chơi quy định hành động của trẻ đối với đồ vật và cả hành động của trẻ đối
với bạn cùng chơi.
Những hành động của trẻ chỉ là những hành động mô phỏng, nó không
hoàn toàn giống như hành động của người lớn. Do đó hành động chơi không đòi
hởi phải có thao tác đúng kỹ thuật - nó mang tính khái quát và tính ước lệ cao.
3. 2. 3. Nhũng mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò choi

Trong TCĐVTCĐ có hai mối quan hệ qua lại giữa những trẻ em cùng
tham gia trò chơi: quan hệ chơi và quan hệ thực.
+Những quan hệ chơi: đó là những quan hệ qua lại của các vai trong trò
chơi theo một chủ đề nhất định, mô phỏng mối quan hệ của người lớn trong xã
hội. Đó là những quan hệ mà trẻ quan tâm và trở thành đối tượng trong hành
động của chúng.
Ví dụ : Quan hệ giữa bác sỹ và bệnh nhân
Quan hệ giữa nguời mua hàng và nguời bán hàng

11


+Nhũ?ĩg quan hệ thực: Đó là những quan hệ qua lại giữa những trẻ cùng,
là người tham gia trò chơi, những người bạn cùng thực hiện một công việc
chung.
Trẻ tập hợp nhau thành nhóm để bàn bạc với nhau về chủ đề chơi, việc
phân vai, thỏa thuạn về luật chơi và giải quyết các vấn đề xảy ra trong quá trình
chơi.
Trong TCĐVTCĐ các quan hệ xã hội được bộc lộ-việc thực hiện hành
động của vai chơi là phải tạo ra các mối quan hệ với các vai khác nhau. Sức
sống của TC§VTC§ là ở chỗ nó tạo ra được mối quan hệ giữa các vai. Đó chính
là bản chất xã hội của trò chơi.

Những mối quan hệ xã hội được mô phỏng vào trò chơi có một điểm đáng
lưu ý là nó làm nảy sinh luật lệ hành động của các vai buộc phải tuân theo. Như
vậy luật lệ hành động của các vai được nảy sinh từ những mối quan hệ được xác
lập giữa những trẻ em tham gia vào trò chơi.
3. 2. 4. Đồ chơi và hoàn cảnh choi

Đồ chơi là phương tiện vật chất dùng trong khi chơi nó không mang ý
nghĩa đời sống hàng ngày. Trong đồ chơi thế hiện tính chất điển hình của đồ vật.
Chính hình dáng tống quát của đồ chơi giúp trẻ có thế tái tạo và thế hiện những
hành động tương xứng đối với đồ vật ấy.
Có 2 loại đồ chơi:
+Loại thứ nhất:, những đồ chơi do người lớn làm cho trẻ, mô phỏng theo
những đồ vật thực (búp bê, ô tô, cái bút...)
+Loại thứ hai: những vật thay thế cho những vật thực (cái gậy thay cho
thanh kiếm, cái chối thay cho con ngựa...)
Do chơi chỉ là vật thay thế nên khi trẻ thao tác với đồ vật thay thế thì
những thao tác này không tương ứng với những hành động thực, tù’ đó buộc trẻ
phải tưởng tượng ra hoàn cảnh chơi. Hay nói cách khác hoạt động chơi của trẻ
đã tạo ra kết quả là hoàn cảnh chơi tưởng tượng (A. N. Leoncheep).
3. 3. Sự phát triến của trò choi đóng vai theo chủ đề

12


+ Từ thao tác với đồ vật, đồ chơi của trẻ tuối ấu nhi phát triến thành
TCĐVTCĐ ở tuổi mẫu giáo.
Cuối tuổi nhà trẻ, ở trẻ xuất hiện chơi mô phỏng, chơi thao tác. Trẻ bắt
chuớc một số thao tác của người lớn như cho ăn, cho con uống, lau mặt...Tất cả
những hành động mô phỏng này được diến ra trong hoàn cảnh tưởng tượng nhò'
các đồ chơi thay thế. Đây là giai đoạn chuấn bị cho sự ra đời của TCĐVTCĐ ở

tuổi mẫu giáo.
Vào ba tuổi, TCĐVTCĐ đề xuất hiện. Ớ giai đoạn đầu tiên có khi trẻ có
vai, có khi trẻ chưa có vai, chỉ đơn thuần là hành động mô phỏng theo một vai
nào đó mà trẻ thích, trẻ chưa tự xác định được mình đóng vai gì. Nhưng tình
trạng này nhanh chóng chuyến sang giai đoạn phát triển mới, trẻ biết nhận vai và
hành động phù hợp với vai trẻ nhận. Trẻ chưa thể chơi lâu với một vai nào mà
thường bị lôi cuốn bởi các đồ chơi hấp dẫn. Chính vì thế trong một buổi chơi trẻ
thường đóng một số vai.
+ Đen cuối ba tuổi - đầu bốn tuổi: trẻ mong muốn thể hiện vai chơi mình
đóng bằng nội dung phong phú hơn như: quan hệ, đối xử và đời sống tình cảm
phù hợp với vai chơi. Trẻ thường chơi thành các nhóm nhỏ - nhưng đơn giản là
cùng nhau mô phỏng mối quan hệ nối bật của người lớn mà trẻ nhận thức được,
ơ trẻ chưa có sự bàn bạc thảo luận trong nhóm chơi.
+ Tuổi mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi): các nhóm chơi được hình thành ở giai
đoạn trước được củng cố bền vững hơn, số trẻ trong mỗi nhóm đông hơn (4, 5
đến 6 trẻ ). Các thành viên trong nhóm đã biết cùng thảo luận, bàn bạc về chủ
đề, nội dung, phân vai thế hiện và tìm đồ chơi thay thế đế the hiện ý đồ chơi.
Trẻ còn phản ánh đời sổng tình cảm của vai chơi, phản ánh mối quan hệ
xã hội của vai mà mình đã nhận, đặc biệt là trẻ thế hiện được một số tiêu chuẩn
đạo đức đặc trung của vai hơn.
+ Đen tuổi cuối mẫu giáo nhỡ - giai đoạn đầu của tuổi mẫu giáo lớn:
những ấn tượng và xúc cảm của trẻ về cuộc sống sinh hoạt của người lớn cũng
trở nên phong phú hơn. Bắt đầu có sự xuất hiện của tập thể chơi nhỏ trên cơ sở

13


hợp nhất các nhóm chơi nhỏ có nội dung chơi gần nhau, (nhu nhóm gia đình
hợp với nhóm lóp mẫu giáo).
Đen giai đoạn 2 và giai đoạn 3của tuổi mẫu giáo lớn- số nhóm trong tập

thể tăng dần, các mối quan hệ chơi đuợc mở rộng hơn, nội dung chơi phong phú
hơn và giống thật hơn. Lúc này tập thế chơi nhỏ không còn đáp ứng nhu cầu
chơi của trẻ nữa và tập thế chơi chung đã được ra đời - đây là giai đoạn phát
triển cao nhất của TCĐVTCĐ. Tính tự nguyện, tính độc lập và sáng tạo của trẻ
trong khi chơi được thể hiện hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó.
Như vậy sự xuất hiện và phát triến của TCĐVTCĐ ở tuối mẫu giáo đã
phản ánh sự phát triển về nhận thức và về tâm lý xã hội nói chung của trẻ lứa
tuổi này.
4. Vai trò của TCĐVTCĐ đối vói sự phát triển tâm lý trẻ em lửa tuối
mẫu giáo.

4.1. Vai trò của TCĐVTCĐ đối với sự phát triển nhận thức:

Ớ tuổi mẫu giáo, đây là thời kì phát triển mạnh mẽ hoạt động nhận thức
của trẻ : Đó là sự định hướng của trẻ vào các thuộc tính và các quan hệ bên
ngoài của sự vật, hiện tượng (cảm giác, tri giác), đó là những bước thay đổi mới
trong quá trình tư duy và tưởng tượng. Hoạt động vui chơi, mà trung tâm là
TCĐVTCĐ có vai trò quan trọng đối với sự nhận thức của trẻ.
Đe đảm nhận được các vai chơi, đòi hỏi trẻ phải quan sát và mô tả đối
tượng có trình tự’ và tỉ mỉ hơn.
Ví dụ: trẻ quan sát thấy bác sĩ phải mặc áo blu trắng, tai đeo ống nghe và
các thao tác khám bệnh của bác sĩ.
Với các đồ vật chơi, ban đầu trẻ cầm nắm đồ vật lên tay, xoay trở mọi
phía, ngắm nhìn, sờ mó cấn thận và chú ý đến những đặc điếm nổi bật nhất của
nó. Dần dần trong trò chơi đế thay thế cho các đồ vật thật, trẻ không cần cầm đồ
vật lên tay nữa mà chỉ cần tri giác thôi cũng có thể mô tả khá đầy đủ thuộc tính
của đối tượng. Từ đó trẻ nhận thấy các sự vật có các đặc điếm tương giống với
vật thật trẻ muốn thay thế.

14



Ví dụ trẻ quan sát thấy chiếc gậy dài nhở tương giống với hình dáng của
thanh kiếm.
Từ việc nhận biết, nắm vũng những thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện
tượng. Thông qua TCĐVTCĐ, trẻ kết hợp với những hành động thực tiễn. Hai
thành phần này tác động lẫn nhau, hỗ trợ nhau tạo ra hành động nhận cảm của
trẻ. Hành động đó ngày càng có tố chức, có hiệu quả hơn, đủ đế tạo ra cho trẻ
một hình ảnh tương đối đầy đủ về đối tượng.
Như vậy, sự hoàn thiện hành động nhận cảm của trẻ là sự biến đối hành
động định hướng bên ngoài thành các hành động tri giác. Nói cách khác, hành
động nhận cảm của trẻ em lứa tuổi trên mẫu giáo được hình thành theo cơ chế
chuyến vào trong, thông qua trò chơi của trẻ -TCĐVTCĐ.
+ Đổi với sự phát triển của tư duy
Đen tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản: đó là sự
chuyến tư duy tù' bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong. Thực chất đó là
việc chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành những hành động
định hướng bên trong, theo cơ chế nhập tâm dựa vào những hình ảnh của sự vật
và hiện tượng trong cuộc sống. Cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực
quan -hành động sang kiếu tư duy hình tượng.
Việc chuyến từ tư duy trục quan hành động sang tư duy trục quan hình
tượng là nhờ trẻ tích cực hoạt động với các đồ vật. Quan trọng hơn đó là do việc
nảy sinh hoạt động vui chơi với TCĐVTCĐ là chủ đạo. Loại trò chơi này giúp
trẻ hình thành chức năng kí hiệu - tượng trưng của ý thức. Chức năng này được
thế hiện ở khả năng dùng một vật này thay thế cho một vật khác và hành động
với vật thay thế như là hành động với vật thật.
Ví dụ: trẻ lấy cái chối dùng làm ngựa - và hành động với ngựa như thật.
Lúc đầu, chức năng kí hiệu liền với hoạt động thực tiễn, giúp con người đi
sâu khám phá bản chất sự việc về một mặt nào đấy. Ớ trẻ em sự nắm vững các
hoạt động với đồ vật và sau đó là sự tách rời hành động ra khỏi đồ vật là những

tiền đề cho chức năng kí hiệu được nảy sinh. Và khi một hành động được thực
hiện không phải đối với đồ vật thật mà với đồ vật thay thế thì hành động đó mất

15


đi ý nghĩa thực tiễn của nó. Khi đó nó trở thành một hình ảnh, một kí hiệu của
hành động có thực. Hiện tượng này xảy ra nhiều trong TCĐVTCĐ của trẻ.
Chẳng hạn: khi trẻ dùng cái chổi để đánh đàn. Ở đây xuất hiện hai loại kí
hiệu: kí hiệu của hành động - tức là hành động đánh đàn giả vờ và kí hiệu đồ vật
- tóc là cái đàn giả vò’ (cái chối).
TCĐVTCĐ làm xuất hiện ở trẻ nhiều hệ thống kí hiệu: hệ thống kí hiệu
về đồ vật, hệ thống kí hiệu về hành động, hệ thống kí hiệu về con người. Việc
nảy sinh các hệ thống kí hiệu này không phải là tiền đề mà là kết quả của việc
nắm vũng hành động với đồ vật thay thế diễn ra trong TCĐVTCĐ. Một khi đứa
trẻ nhận ra được điều này thì cũng chính lúc ấy, chức năng kí hiệu được sinh
trong ý thức trẻ. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của trẻ với
môi trường xung quanh.
+Đổi với sự phát triền của trí tưởng tượng
Trí tưởng tượng của trẻ em tuối mẫu giáo được hình thành chủ yếu qua
TCĐVTCĐ. Trong khi chơi, trẻ hoạt động sôi nổi, chơi hết mình và chủ động
như chính cuộc sống của mình vậy.
Trí tưởng tượng được nảy sinh bắt đầu khi đứa trẻ biết dùng vật thay thế
trong trò chơi với một loạt hoạt động mang tính chất kí hiệu tượng trung. Việc
thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác trong trò chơi dẫn đến chồ làm nảy sinh
khả năng bổ sung, thay thế các sự vật, tình huống, các sự kiện thực bằng việc
xây dựng lên những biểu tượng mới tù’ những biếu tượng đã tích lũy được - tức
là nảy sinh trí tưởng tượng.
Ví dụ: Cái gối được trẻ tượng tượng thành em bé, dãy ghế được tưởng
tượng thành đoàn tàu...

Các vai chơi càng phong phú bao nhiêu thì sức tìm tòi, trí tưởng tượng
của trẻ cũng phong phú bấy nhiêu. Bằng trí tưởng tượng trong khi chơi, trẻ có
thế làm được mọi việc và có thể là bất cứ cái gì mình muốn. Trẻ có thể làm bác
sĩ, làm cô giáo, làm chú bộ đội, làm bệnh nhân...thậm chí trẻ có thế tưởng tượng
mình là siêu nhân bay vào vũ trụ.

16


Trong thời gian đầu trí tưởng tượng của trẻ không tách khởi tri giác đối
tượng và hành động chơi với các đối tượng ấy. Em bé nhảy và kẹp đôi chân vào
cái gậy, lập tức em bé trở thành kị sĩ và cái gậy trở thành con ngựa. Dần dần, các
em không cần đến chỗ dựa bên ngoài nữa mà chuyển vào trí tượng tượng ngầm
trong đầu. Chang hạn có những em đang chơi và hình dung ra rằng mình đang là
một công chúa sống trong cung điện lộng lẫy.
Trí tưởng tượng trong khi chơi của trẻ được biểu hiện thường xuyên, bay
bổng và rộng khắp. Sự làm việc không mệt mỏi của trí tưởng tượng là một trong
những con đường dẫn trẻ đến chỗ nhận thức và tìm hiếu thế giới xung quanh, nó
vượt ra khỏi giới hạn và kinh nghiệm cá nhân chật hẹp của trẻ. Nó nuôi dưìng,
hình thành trong đầu trẻ những ước mơ cao đẹp về cuộc sống sau này.
4. 2. Vai trò của TCĐVTCĐ đối vói sự phát triến ngôn ngữ.

Trong suốt lứa tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ được tục phát triển mạnh.
Vốn từ được mở rộng (từ 300-400 tù’ ở lứa tuối ấu nhi lên đến 3000 - 4000 tù’ ở
lứa tuổi mẫu giáo), cấu trúc ngữ pháp được hoàn thiện dần, trẻ phát âm chính
xác hơn.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo diễn ra trong mèi quan hệ phức
tạp hóa hoạt động của trẻ, trong TCĐVTCĐ - khi trẻ giao tiếp với những người
xung quanh và với các bạn cùng chơi.
Trẻ chơi cùng các bạn trong nhóm. Đe đảm nhận tốt vai chơi và để các

bạn hiếu được mục đích vai chơi, trẻ phải nắm vững ý nghĩa của từ vựng thông
dụng, phát âm gần đúng cách phát âm của người lớn. Đặc biệt, trẻ phải biết cách
dùng ngữ điệu phù họp với hoàn cảnh giao tiếp và nắm được hệ thống ngũ’ pháp
phức tạp. (Quy luật ngôn ngũ’, nói năng mạch lạc, thoải mái).
Ví dụ: khi trẻ đóng vai là cô giáo, trẻ biết mình là cô giáo nên nói năng
phải dịu dàng, rõ rpng học sinh mới dế hiểu.
Tuy nhiên thông qua các vai chơi, trẻ chủ yếu nắm vững phong cách ngôn
ngữ sinh hoạt và chỉ ở một mức độ nào đó là phong cách nghệ thuật. Cho nên
đứa trẻ phải học thêm nhiều ở nhà trường, ở sách báo...đế nắm vững sâu sắc
hơn tiếng mẹ đẻ của mình.

17


4. 3. Vai trò của TCĐVTCĐ đối vói sự phát triển tình cảm.

Ớ tuổi mẫu giáo, tình cảm chi phối tất cả các mặt trong hoạt động tâm lý
đứa trẻ. Nó có sự chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú, vừa sâu sắc hon những
giai đoạn lứa tuổi trước đó.
Tình cảm của con người chỉ được nảy sinh trong những mối quan hệ giữa
người và người, mà ở trẻ mẫu giáo mối quan hệ ấy được mở rộng một cách đáng
kế thông qua các vai chơi trong TCĐVTCĐ.
TCĐVTCĐ giúp trẻ được hóa mình vào những vai trò khác nhau và trẻ
gửi gắm tất cả mọi tình cảm, cảm xúc của bản thân vào vai trò ấy. Những tình
cảm của trẻ được thế hiện một cách độc đáo: trẻ rất âu yếm khi bế một em bé,
rất đồng cảm với người ốm khi làm bác sĩ hay chăm lo cho học sinh khi làm một
cô giáo...
Tất cả những điều đó là cơ hội tốt cho sự giáo dục những tình cảm đạo
đức, tình cảm thấm mĩ, lòng nhân ái ở trẻ - Đây chính là cơ sở quan trọng của sự
phát triển nhân phẩm sau này.

Đồng thời, sự phát triến tình cảm ở trẻ mẫu giáo không chỉ thể hiện ở thái
độ với người xung quanh mà còn thể hiện ở thái độ đối với bản thân mình. Khi
đảm nhận một vai xã hội - trẻ đã biết lĩnh hội các chuấn mực, quy tắc hành vi. . .
, đã biết phấn khởi khi người lớn khen ngợi ( nếu thể hiện tốt vai chơi ) hay
buồn rầu khi bị nhắc nhở.
Với sự hình thành sự tự' ý thức ở lứa tuối mẫu giáo, trẻ bắt đầu gây ra
niềm vui sướng tự hào, nỗi đau khổ, xấu hổ khi chỉ có một mình đứa trẻ mà
không cần sự có mặt của người lớn.
Luật lệ trong các trò chơi giúp trẻ điều khiển được những cảm xúc bột
phát của bản thân mình, biết thế hiện sắc thái tình cảm một cách tế nhị như bằng
ánh mắt, nụ cười, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, giọng nói...
Cho nên, ở thời điểm mà nhân cách vừa mới được hình thành - người lớn
cần giáo dục cho trẻ một lối sống đẹp, uốn nắn ngay tù' đầu, tránh đế lại những
di chứng, những dấu ấn không đẹp trong tâm hồn trẻ.
4. 4. Vai trò của TCĐVTCĐ đối vói sự phát triển ý chí.

18


Ý chí xuất hiện ở trẻ em lứa tuối mẫu giáo nhu là một sự điều chỉnh có ý
thức đối với hành vi của bản thân.
Thông qua TCĐVTCĐ - mà cụ thể là luật của trò chơi - ở trẻ mẫu giáo đã
hình thành khả năng bắt những hành động của mình phải phục tùng một nhiệm
vụ nào đó và khắc phục những khó khăn đế đáp ứng yêu cầu của nguời lớn hay
của bạn bè cùng trong nhóm chơi.
Ví dụ: Khi được phân vai làm chú bộ đội, trẻ phải hoàn thành được nhiệm
vụ đứng gác...
Đe the hiện tốt vai chơi, trẻ mẫu giáo cũng đã bắt đầu điều khiến hoạt
động tâm chí của mình như chú ý, trí nhớ... từ chỗ không chủ định sang chủ
định. Chẳng hạn như biết tập trung quan sát cô giáo, không lơ dâng nhìn đi chỗ

khác, nhớ những thao tác lên lớp của cô đế khi đóng vai cô giáo được tốt hơn.
Những hệ thống thứ bậc được hình thành trong TCĐVTCĐ làm cho trẻ
phải có cuộc đấu tranh đế chọn ra cách giải quyết, điều đó dẫn tới khả năng tụ’
chủ, tự kiềm chế nguyện vọng và ham muốn của mình được hình thành. Và điều
đó cũng có nghĩa là trẻ đã phát triển được ý chí.
Hành động ý chí ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong “ bức
tranh” hành vi của trẻ ở tuối mẫu giáo khi có những điều kiện giáo dục tốt.
Người lớn cần tạo ra những tình huống trong TCĐVTCĐ, buộc trẻ phải lựa chọn
cách giải quyết, qua đó ý chí mới được phát triển
4. 5. Vai trò của TCĐVTCĐ đối vói sự phát triển hệ thống động cơ
của trẻ.

Trong suốt thời kỳ mẫu giáo, ở trẻ diễn ra những biến đối căn bản trong
hành vi: chuyến từ hành vi bột phát sang hành vi mang tính chất xã hội hay hành
vi mang tính chất nhân cách. Đó cũng là quá trình nảy sinh động cơ ở trẻ.
+ Trước hết, đó là những động cơ gắn liền với ý thích muốn được như
người lớn. Nguyện vọng này biến thành động cơ, dẫn trẻ tới việc sắm vai trong
những trò chơi ĐVTCĐ.
Trong khi chơi TCĐVTCĐ, trẻ ham muốn, thích thú thực sự không phải
là do kết quả trò chơi mang lại mà chính nằm ngay ở quá trình chơi. Những

19


động cơ gắn liền với quá trình chơi có tác động khá mạnh mẽ thúc đây hành vi
của trẻ. Nó làm cho toàn bộ hành vi của trẻ mang một sắc thái riêng, nét độc đáo
riêng của tuổi mẫu giáo.
Trẻ tham gia vào TCĐVTCĐ víi động cơ nhằm làm cho người lớn vui
lBng và yêu mến bắt đầu xuất hiện, thúc đây hành động tích cực ở trẻ. Đồng
thời, TCĐVTCĐ giúp trẻ hình thành những động cơ “ vì xã hội”, muốn làm một

cái gì đó cho người khác, mang lại lợi ích cho người khác.
Ví dụ: Trẻ nhận vai làm bác sĩ mong muốn chữa bệnh cho người nghèo,
như vậy sự xuất hiện TCĐVTCĐ giúp trẻ hình thành hệ thống động cơ : có thế
kể đến như là động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ muốn nhận thức,
muốn khám phá về thế giới xung quanh, động cơ thi đua, động cơ xã hội ...
+ TCĐVTCĐ còn giúp trẻ hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của
các động cơ, hay còn gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. §ây là một cấu tạo
tâm lý mới trong sự phát triến nhân cách của trẻ mẫu giáo.
Các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng của mồi động cơ đó
đối với bản thân đứa trẻ. Những động cơ này thường không tồn tại song song. Ớ
mỗi đứa trẻ, lại có một động cơ nào đó được đưa lên hàng đầu, chiếm vị trí ưu
thế.
Ví dụ: có trẻ thích nhận vai bác sĩ vì bản thân công việc làm bé thích
(được mặc áo blu trắng, được đeo ống khám bệnh, khám bệnh. . . ), có bé thì
thích được khám bệnh, giúp đỡ người ốm. . .
Hệ thống động cơ của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người
lớn và ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc.
4. 6. Vai trò của TCĐVTCĐ đối với sự phát triển “cái tôi” ỏ' trẻ.

Từ 3 tuổi, biếu hiện về “cái tôi” của trẻ đã hình thành. Trong suốt tuổi
mẫu giáo, “cái tôi” phát triển mạnh và dần dần trở thành ý thức về bản thân.
TCĐVTCĐ giữ vai trò tích cực trong quá trình hình thành sự tự ý thức của trẻ
mẫu giáo.

20


Trước tiên, trẻ muốn tự' khắng định mình, muốn tách ra khỏi người lớn và
“làm người lớn”. TCĐVTCĐ với các vai trò khác nhau đã thỏa mãn nhu cầu đó
của trẻ.

Khi nhập vào những mối quan hệ trong trò choi, điều quan trọng là trẻ
phát hiện ra mình trong nhóm bạn bè cùng chơi. Ke cả trong quan hệ thực cũng
như trong quan hệ chơi, trẻ có dịp so sánh, đối chiếu mình với các bạn, trẻ thấy
được vị trí cna mình trong nhóm chơi. Từ đó, giúp trẻ điều chỉnh hành vi bản
thân sao cho phù hợp với mục đích chơi chung.
Thông qua việc thế hiện các trò chơi, ý thức bản ngã của trẻ còn được thế
hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành công và thất bại của mình, về những
ưu điểm và khuyết điếm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự phát triển giới tính cũng bộc lộ “cái tôi” của trẻ.
Trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết rõ ràng nếu mình là
trai hay gái thì phải hành động như thế nào cho phù họp. TCĐVTCĐ phản ánh
rất rõ ràng điều này: các bé trai thường đóng vai bộ đội, công an, bảo vệ, siêu
nhân. . . các bé gái thường đóng vai cô giáo, vai nội trợ, vai bán hàng. . . Trong
khi nhận xét nhau qua các vai chơi: trẻ cũng biếu hiện giới tính khá rõ: trẻ
thường nói: “con trai mà lại khóc nhè”, hay “ con gái mà lại đánh nhau”. . .
Ý thức bản ngã ( cái tôi) được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiến, điều
chỉnh hành vi của mình dần phù hợp với những chuẩn mực, quy tắc xã hội.
Đồng thời, cho phép trẻ thực hiện các hành động có chủ tâm hơn.

c. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Vui chơi - mà trung tâm là TCĐVTCĐ thực sự là hoạt động chủ đạo của
trẻ em lứa tuối mẫu giáo. Thông qua việc đảm nhận các vai chơi, trẻ dần hoàn
thiện mọi mặt với đời sống tâm lý của bản thân. Trẻ nhận biết thế giới xung
quanh một cách xuất sắc hơn và bước đầu tham gia vào cuộc sống của người
lớn.
Mỗi vai chơi của trẻ trong TCĐVTCĐ thế hiện một địa vị xã hội nhất
định và được gắn vào những hoàn cảnh cụ thể. Trẻ mẫu giáo từ những bài học

21



đầu tiên của cuộc sống trở thành người theo một con đường riêng của mình với
những đặc điểm mà chỉ riêng mình mới có.
TCĐVTCĐ có vai trò quan trọng trong việc đặt những viên gạch đầu tiên,
xây dựng một nhân cách hoàn thiện, một sự phát triển tâm lý bình thường cho
trẻ mẫu giáo sau này.
Thấy được vai trò của TCĐVTCĐ đối với sự phát triến tâm lý trẻ em lứa
tuổi mẫu giáo, gia đình và các trường mầm non cần tạo điều kiện để trẻ được
tham gia vào các hoạt động vui chơi, một nhu cầu không thế thiếu của trẻ.
Người lớn cần tố chức, cần tạo ra những hoàn cảnh có vấn đề trong trò
chơi đế trẻ tự giải quyết.
Cụ thể:
- Người lớn không nên quan tâm đến kết quả mà quan tâm đến quá trình.
Tức là trong quá trình chơi, trẻ đã chơi những gì, đã hoạt động như thế nào.
- Cha mẹ tham gia cùng. Neu trẻ yêu cầu cha mẹ đóng vai theo yêu cầu
của trẻ, tốt nhất hãy hỏi lý do, nghe giải thích và đồng ý làm theo những yêu cầu
đó.
- Không chơi thay trẻ. Hãy để trẻ tự chơi, không nên vì thấy trẻ đóng vai
chưa đạt mà cha mẹ đóng thay trẻ hay điều khiến hoạt động của trẻ. Hãy lắng
nghe và giúp đỡ trẻ khi trẻ gặp khó khăn.
Khi tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ, người lớn cần đưa vào đó những
bài học giáo dục có tác động tích cực tới sự phát triến tâm lý trẻ.
“ Nen từ đứa trẻ 5 tuối đến người lớn, khoảng cách chỉ là một bước thì từ
đức trẻ sơ sinh đến đứa trẻ 5 tuôi là một khoảng dài kinh khủng”. ( L. N.
Tonxtoi).

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Châu, 2000. Giáo dục học mầm non. NXBĐHQGHN
2. Nguyễn Văn Đồng, 2004. Tâm lý học phát triển. NXBCTQG
3. Truơng Thị Khánh Hà. Luận văn thác sĩ khoa học TLH: Nghiên cứu trình độ
phát triển tu duy trực quan - hình tuợng của trẻ em cuối mẫu giáo, truớc khi
buớc vào lóp 1.
4. NH. Levitop, 1972. Tõm lý học trẻ em và tõm lý học sư phạm. NXB Đà
Nang
5. Thái Phong Minh, 2001. Lịch sử trũ chơi. NXB Tổng hợp TPHCM.
6. V. X. MuKhina, 1980. Tõm lý học mẫu giỏo (tập 1 ). NXBGD
7. Vũ Thị Nho, 2000. Tâm lý học phỏt triển. NXBQGHN.
8. Maurice Tieche, 2000. Phương pháp giáo dục trẻ con. NXB Đà Nằng.
9. Nguyễn Ánh Tuyết, 2007. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non. NXBĐHSP
10. Nguyễn Ánh Tuyết, 1990. Tâm lý học trẻ em. NXBGD -BGD&§T
11. Nguyễn Khắc Viện, 1978. Ng©y th- NXBPN
12. Trang web: Chametainamg. com

23



×