Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận phát triển kinh tế biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.57 KB, 11 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở VIỆT NAM
I.

Lợi thế phát triển kinh tế biển

I.1.

Lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế, chính trị

I.1.1.

Vị trí địa lý

Việt Nam nằm ở phía tây biển Đông, có 28 tỉnh thành có biển, với tổng chiều dài bờ
biển hơn 3260 km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Vậy theo ước tính là cứ 100 km 2 là
có 1 km bờ biển, gấp 6 lần trung bình của thế giới (600 km 2 có 1 km bờ biển). Chiều dài
bờ biển của nước ta đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các
lãnh thổ trên thế giới và đứng đầu các nước Đông Dương, trên Thái Lan và xấp xỉ
Malaysia.
Nước ta còn có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với
diện tích trên 1 triệu km2. Ven bờ có khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ, với diện tích khoảng
1700 km2
Biển Việt Nam còn là vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Nam
Á. Vùng biển của nước ta nằm ở trung tâm vùng kinh tế Đông Á, có biên giới với 10
nước và vùng lãnh thổ và là con đường giao lưu thương mại quốc tế quan trọng giữa Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương.
I.1.2.

Kinh tế

Kinh tế biển của Việt Nam phát triển với hai lợi thế quan trọng:


Thứ nhất là tiềm năng tự nhiên to lớn với bờ biển dài, diện tích biển thuộc chủ quyền
rộng, khả năng tiếp cận dễ dàng đến các đại dương, có các nguồn tài nguyên thiên nhiên
giàu có như nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái biển, và cả nguồn khoáng sản…
Thứ hai là vị trí kinh tế chiến lược đặc biệt. Biển Đông nằm trên các luồng giao
thương quốc tế biển chủ yếu của thế giới.
Tuy vậy, lâu nay khi bàn đến lợi thế phát triển kinh tế biển của Việt Nam, chúng ta
vẫn chủ yếu đề cập đến lợi thế thứ nhất nhiều hơn.
I.1.3.

Chính trị

Một trong những lợi thế lớn của Việt Nam đó là có nền chính trị ổn định. Trong thời
đại hiện nay sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần
giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế.


I.2.

Tiềm năng phát triển những ngành, lĩnh vực kinh tế biển

I.2.1.

Tiềm năng về khoáng sản, dầu khí

Tài nguyên khoáng sản dồi dào, cả trong khối nước, trên đáy và trong lòng đất dưới
đáy biển. Trong các vùng biển và thềm lục địa nước ta, nhiều bể trầm tích có triển vọng
dầu khí đã được xác định và trữ lượng than cũng rất đáng kể.
Một số bể trầm tích đã được xác định như Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam
Côn Sơn, Malay - Thổ chu, Tư Chính - Vũng Mây và nhóm bể Trường Sa . Trong đó có
thể kể đến bể Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá là có triển vọng dầu khí và điều

kiện khai thác thuận lợi nhất, với tổng trữ lượng ước tính khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi.
Theo báo cáo của Cục Quản lý thông tin năng lượng Mỹ (EIA) dự đoán Biển Đông
nắm giữ trữ lượng khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đã được chứng
minh và ở dạng tiềm năng. Riêng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) cho biết:
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí đã xác định được trữ lượng dầu khí của các phát hiện
là 1,3 tỷ tấn qui dầu và đã nghiên cứu đánh giá tiềm năng còn lại của Việt Nam ước đạt
2,8 đến 3,6 tỷ tấn quy dầu (số liệu vào tháng 10/2013)
I.2.2.

Tiềm năng về du lịch biển và kinh tế đảo

Du lịch biển và kinh tế đảo đươc dự đoán trong tương lai là một trong những ngành sẽ
có đột phá trong tương lai.
Cho đến nay, cả nước có trên 30 bãi biển và 10 hòn đảo được đầu tư và khai thác phát
triển du lịch, trong đó chủ yếu tập trung vào các khu vực bãi biển có tiềm năng lớn như:
vịnh Hạ Long, Cát Bà, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Nha Trang, Vũng Tàu, Phú Quốc,
Phan Thiết, Mũi Né...
Một số vùng đã tập trung phát triển ngày kinh tế biển như xây dựng Cảng trung
chuyển container quốc tế ở Vịnh Vân Phong, xây dựng khu du lịch biển tại thành phố
Nha Trang – tỉnh Khánh Hòa, phát triển nền kinh tế đảo tại Phú Quốc, …
Dự báo trong tương lai du lịch biển và kinh tế đảo Việt Nam sẽ có thêm nhiều những
bãi biển, vịnh, hải đảo sẽ được thế giới công nhận và hứa hẹn sẽ mang lại nguồn lợi kinh
tế to lớn cho ngành du lịch việt nam nói riêng và kinh tế nước nhà nói chung.
I.2.3.

Tiềm năng về khai thác nuôi trồng và chế biến hải sản

Vùng biển Đông của Việt Nam được đánh giá là một trong những vùng biển có trữ
lượng hải sản phong phú và đa dạng. Ngoài ra, trải dài khắp đất nước là hệ thống vịnh,



vùng, đầm, phá, cửa sống dày đặc. Đây chính là những khu vực tiềm năng cho phát
triển giao thông, du lịch và nuôi trồng thủy sản.
Về nguồn lợi hải sản và tài nguyên sinh vật biển, hiện nay, vùng biển Việt Nam có
khoảng 2.040 loài cá, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng 110 loài. Biển nước ta có
khoảng trên 1.500 loài nhiễm thể, riêng tôm có 100 loài. Rạn san hô với khoảng 350 loài
thuộc 72 giống san hô. Có 15 loài cỏ biển sống trong các thảm cỏ có tổng diện tích
5.583ha.
Theo Tổng cục thống kê, sản lượng thuỷ sản năm 2013 ước tính đạt 5918,6 nghìn tấn,
tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 4400 nghìn tấn, tôm đạt 704 nghìn
tấn. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1037 nghìn ha. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả
năm ước tính đạt 3210 nghìn tấn, tăng 3,2% so với năm trước
I.2.4.

Tiềm năng về vận tải biển và cảng biển

Với lợi thế địa lý, Việt Nam có khả năng phát triển các cảng biển quốc tế cũng như
mở rộng giao thông đường biển.
Theo dự đoán của các chuyên gia sẽ có 2/3 số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của thế
giới phải đi qua vùng biển Đông trong 5 - 10 năm tới. Biển Đông cũng sẽ thu hút số
lượng lớn các nhà kinh doanh và khách du lịch di chuyển bằng tàu biển.
Nếu đi đúng hướng, trong tương lai, Việt Nam có thể trở thành một trong những trung
tâm trung chuyển và cảng biển lớn của thế giới, như các cảng biển của Singapore và
Hongkong…
Cả nước hiện có 44 cảng biển (14 cảng biển loại I, 17 cảng biển loại II và 13 cảng
biển loại III) với 219 bến cảng có 373 cầu cảng, tổng chiều dài khoảng 43,6km, năng lực
thông qua hơn 430 triệu tấn/năm; có 39 luồng vào cảng quốc gia và 10 luồng vào cảng
chuyên dụng.
II.


Thách thức phát triển kinh tế biển

Không thể phủ nhận, Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với các nước trong khu vực về
kinh tế biển. Tuy thế, ngành kinh tế biển của Việt Nam vẫn còn non trẻ và phải đối mặt
với nhiều thách thức.
Một là, quy mô kinh tế biển chua tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm
hàng năm còn chưa tương xứng với tiềm năng biển. So với các nước chỉ đạt bằng 1/20
Trung Quốc, 1/94 Nhật Bản, 1/7 Hàn Quốc, 1/20 Thế Giới.


Hai là, tình hình sử dụng biển và hải đảo còn thiếu bền vững do khai thác tự phát , đa
dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy hải sản đang giảm sút khá nghiêm trọng. Chỉ hơn
15 năm trở lại đây, diện tích các rạn san hô giảm đến gần 20%. Nguồn lợi hải sản giảm
nhanh, nhiều vùng biển ven bờ bị suy kiệt. Chất lượng nước biển có xu hướng suy giảm,
nhiều vùng ven biển bị ô nhiễm nặng.
Việc đẩy mạnh khai thác dầu khí chưa quan tâm đến việc bảo vệ môi trường nên dễ
gây nên hậu quả xấu, tác động nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên biển.
Ba là, các ngành kinh tế liên quan trực tiếp đến kinh tế biển như chế biến sản phẩm
dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công
nghiệp , các dịch vụ kinh tế biển và ven biển chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng,
hình thành và quy mô còn nhỏ.
Bốn là, chưa đảm bảo được cuộc sống cho cư dân ven biển. Đời sống của một bộ
phận dân cư ven biển, hải đảo thường xuyên gặp khó khăn, rủi ro thiên tai, mức độ an
sinh thấp.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý vùng bờ còn thụ động, chưa làm
rõ vấn đề sở hữu, sử dụng đất ven biển và mặt nước biển ven bờ cho mọi người dân.
Năm là, ngành du lịch biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có tính cạnh
tranh cao so với khu vực và quốc tế.
Sáu là, cơ sở hạ tầng cho kinh tế biển còn yếu kém. Việt Nam vẫn chưa có đường bộ
cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven

biển. Các sân bay vên biển và trên một số đảo còn bé. Khu kinh tế khu công nghiệp ven
biển còn đang bắt đầu xây dựng. Cơ sở nghiên cứu khoa học, quan trắc, dự báo, cứu hộ
còn thô sơ.
Bảy là, thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho phát triển kinh tế biển. Chất
lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp về trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ
và kinh nghiệm quản lý khi nền kinh tế hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
III.

Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế biển

III.1.

Quan điểm của Đảng về kinh tế biển

Quan điểm của Đảng về kinh tế được chú trọng và phát triển qua các kỳ đại hội khác
nhau. Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ quan điểm của Đảng
về kinh tế biển.


Đối với ngành nuôi trồng thủy sản, cần phát triển theo hướng đa dạng trong quy
hoạch, phát huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công
nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi
trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản
xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện
đại hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ
phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
Ngành kinh tế biển phát triển theo định hướng Chiến lược biển đến năm 2020 đã đề
ra ở Hội nghị Trung ương 4, khóa X năm 2007. Theo đó, việc phát triển kinh tế biển phải
theo sát các mục tiêu sau:
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát

huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong
phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an
ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển,
hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển
trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực
bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước.
Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh
về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên
biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh;
phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng
GDP của cả nước.
Ngoài ra, tại Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã nhấn mạnh
them việc xây dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị
ven biển phải gắn với phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, khai thác, chế biến
dầu khí, vận tải biển, du lịch biển. Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ
gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia. Đẩy mạnh
việc điều tra cơ bản đối với một số loại tài nguyên biển quan trọng.


III.2.

Mục tiêu phát triển kinh tế biển trong thời kỳ hiện nay

Theo sát quan điểm về Chiến lược biển đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra

một số mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ hiện nay như sau.
Thứ nhất, mở rộng phạm vi khai thác biển, nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế biển và vùng ven biển. Mở rộng quy mô và nâng cao hơn tỷ trọng GDP
của kinh tế biển và ven biển, qua đó đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế vững mạnh về
biển với tỷ trọng kinh tế biển đạt từ 53%-55% GDP. Xây dựng cơ cấu ngành nghề hiện
đại, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu
kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, nâng tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển và vùng ven biển trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, tạo nguồn
tích lũy lớn cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời có giá trị xuât khẩu cao và ổn định.
Thứ ba, phát triển nhanh kinh tế - xã hội ở một số trung tâm đô thị ven biển và hải
đảo, làm căn cứ hậu cần đủ mạnh để khai thác các vùng biển khơi. Trên cơ sở đó nâng
cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân vùng biển, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo.
Theo quy hoạch, đến năm 2020 kinh tế hàng hải sẽ đứng thứ hai và sau năm 2020, sẽ
đứng đầu trong 5 lĩnh vực phát triển kinh tế biển và góp phần củng cố quốc phòng, an
ninh. Riêng khu kinh tế ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 15%-20%
và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3 – 1,5 triệu người.
IV.

Một số định hướng chủ yếu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển

1.1.

Phát triển kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển, gắn phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển

Việc xây dựng và phát triển kinh tế biển phải phát huy được thế mạnh đặc thù của lợi
thế về biển.
Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển cần được đẩy mạnh. Phát triển kinh tế
biển phải gắn với bảo vệ môi trường biển. Phát triển khoa học - công nghệ biển; xây

dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với việc phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng
tuyến đường ven biển, trong đó có một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên
biển. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế để
ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc lập, chủ


quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ
các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng
trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Việc xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là hải quân, không quân, cảnh sát biển,
biên phòng, dân quân tự vệ biển mạnh phải làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các
thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.
1.2.

Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển

Sáu khu kinh tế nổi bật, cần tập trung phát triển của nước ta là:
-

Khu kinh tế Chu Lai – Dung Quất
Khu kinh tế Đình Vũ
Khu kinh tế Nghi Sơn
Khu kinh tế Vũng Áng
Khu kinh tế đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới

Đến năm 2020, cần phải phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven
biển gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản;
phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp

tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.
Phát triển khu kinh tế phải gắn với quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa
phương và của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lấy hiệu quả kinh tế - xã
hội, bảo đảm phát triển môi trường bền vững làm thước đo cao nhất, vừa hướng tới hiện
đại vừa bảo đảm sử dụng hiệu quả cả quỹ đất, mặt nước và không gian khu kinh tế.
Tùy từng giai đoạn khác nhau mà ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển khác nhau.
Các nhiệm vụ quan trọng như xây dựng kế hoạch đầu tư phải có định hướng. Các dự án,
công trình nòng cốt và có tính chiến lược phải có kế hoạch rõ ràng.
1.3.

Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo
thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ biển

Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực biển,
hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu
cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi…
1.4.

Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông biển. Phát triển kinh tế
đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo


Tập trung cải tạo hệ thống cảng biển, trùng tu luồng tàu đảm bảo điều kiện khai thác
đồng bộ và hiệu quả cùng các cảng biển; phát triển đồng bộ mạng giao thông đường sắt,
đường bộ, đường thủy nội địa để đảm bảo kết nối cảng với các cảng cạn, trung tâm phân
phối hàng hóa, khu kinh tế, khu công nghiệp, các cảng, bến thủy nội địa…, tạo điều kiện
hàng đi, đến cảng thuận lợi, nâng cao hiệu quả khai thác cảng
Phát triển bến cảng tại các huyện đảo với quy mô phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội để vận tải hàng hóa, hàng khách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng.

Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải biển, đáp ứng nhu cầu vận tải biển nội địa, nâng
cao thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu đạt 27 – 30%, kết hợp chở thuê hàng
hóa nước ngoài trên các tuyến vận tải biển xa.
Phát triển đội tàu biển Việt Nam theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển các loại tàu
chuyên dùng (tàu container, hàng rời, dầu…) và tàu trọng tải lớn. Từng bước trẻ hóa đội
tàu biển Việt Nam đến năm 2020 đạt độ tuổi bình quân 12 năm.
Phát triển cân đối công nghiệp đóng và sửa chữa tàu. Nhanh chóng tiếp cận công nghệ
hiện đại, chú trọng đầu tư chiều sâu để phát huy hiệu quả cơ sở đóng, sửa chữa tàu hiện
có kể cả công nghiệp phụ trợ.
V.

Một số giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển

V.1.

Tuyên truyền, giáo dục , nâng cao nhận thức toàn dân tầm quan trọng kinh tế
biển đặc biệt là trong điều kiện vừa hội nhập, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh như
hiện nay

Nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với
phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba
mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp, hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phong phú; kết hợp chặt
chẽ giữa tiến hành thường xuyên với tuyên truyền theo chuyên đề, sự kiện, phù hợp với
từng thời điểm và sát với đối tượng tuyên truyền, giáo dục.
V.2.

Kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ
quyền và an ninh trên biển


Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị Bộ đội
Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng, Dân quân tự vệ biển ‒ những lực lượng
đóng vai trò nòng cốt thực thi pháp luật, quản lý, bảo vệ biển, đảo. Trong đó, chú trọng


giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ ý thức, trách nhiệm, tình yêu
quê hương, biển, đảo.
Xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
bảo vệ biển; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gắn với phát triển
kinh tế biển. Mục tiêu kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh nhằm khẳng định
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên biển của tổ quốc; khai thác, sử dụng nguồn lợi của quốc
gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Tích cực khơi dậy truyền thống yêu nước của các tầng lớp nhân dân, làm cơ sở để
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nói chung
và bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng
V.3.

Phát triển khoa học – công nghệ biển

Tiềm lực khoa học - công nghệ biển cần đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, phục vụ
hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu và hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, phục vụ công tác điều tra cơ
bản, dự báo thiên tai và khai thác tài nguyên biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa
học - công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai
đoạn phát triển mới của đất nước.
Bên cạnh việc nhập khẩu các sản phẩm công nghệ từ nước ngoài hay mua bản quyền
các sản phẩm kỹ thuật đắt tiền, Việt Nam cần ủng hộ để phát triển nhiều hơn các đề tài
nghiên cứu khoa học kỹ thuật và hỗ trợ để ứng dụng các đề tài nghiên cứu ấy vào trong
thực tiễn tại các vùng ven biển ở nước ta.
Ngoài ra, để phát triển kinh tế biển tối ưu, các nhà nghiên cứu các đề tài khoa học kỹ

thuật cũng cần hỗ trợ vốn nhiều hơn để ứng dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh
vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của
biển.
V.4.

Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước về biển và kinh tế biển

Chú trọng và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tổng hợp
biển, đảo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật nhằm phục vụ quản lý tổng hợp dải
ven bờ biển, tạo nền tảng về pháp lý và tổ chức nhằm xây dựng cơ chế điều phối hợp tác
đa ngành để giải quyết đồng bộ các quan hệ khác nhau trong khai thác, sử dụng biển, đảo
cũng như triển khai có hiệu quả quản lý tổng hợp dải ven biển.


Thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương để tăng cường năng lực quản lý tổng
hợp biển và hải đảo; tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ với các nước và các tổ chức
quốc tế.
V.5.

Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên biển

Chính phủ cần có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ môi
trường biển tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc tăng cường quản lý nhà nước về biển
và hải đảo nói chung và môi trường biển nói riêng; tạo điều kiện cho việc phát triển các
ngành kinh tế biển hiệu quả và bền vững; thúc đẩy bảo vệ môi trường và sinh thái biển.
Tăng cường quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi đổ ra
biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt động kinh tế biển. Tăng cường kiểm soát
và sẵn sàng ứng phó các sự cố môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc.
V.6.


Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho các ngành
kinh tế biển

Đẩy mạnh công tác thống kê, dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực.
Tổ chức đào tạo theo ngành nghề phù hợp.
Xác định rõ tiêu chuẩn đào tạo.
Đa dạng hóa phương thức đào tạo
V.7.

Đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng các vùng ven biển, quần đảo, huyện
đảo

Đầu tư hệ thống các công trình điện phân phối, đường dây trung thế, hạ thế, trạm biến
áp và máy phát điện cho các xã đảo tạo điều kiện sống thuận lợi cho nhân dân các vùng
ven biển, đặc biệt hải đảo.
Đầu tư hệ thống cung cấp nước, xây dựng hồ chứa, nhà máy nước nhằm nâng cao tỷ
lệ hộ sử dụng nước sạch ở các vùng ven biển và xã đảo.
Đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy hải sản, sản xuất tập trung, áp dụng
công nghệ tiên tiến tạo lượng hàng hóa lớn và nguyên liệu ổn định cho nghề cá.
Xây dựng hệ thống trường học các cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông
trung học, cao đẳng phục vụ nhu cầu học hành cho nhân dân vùng ven biển và hải đảo.
Đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông cho các vùng ven biển .


Đầu tư hệ thống cảng biển, cảng hàng không ở các vùng ven biển hợp lí phục vụ
thương mại, vận chuyển, du lịch để phát huy tiềm năng kinh tế của các vùng.
Xây dựng mới, củng cố hệ thống đê biển vững chắc, hệ thống cảnh báo sớm sóng
thần, dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng ngập mặn để dự báo và tránh thiên tai, bảo
vệ môi trường sinh thái và tài nguyên ven biển
V.8.


Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế

Quy hoạch lại các vùng chuyên nuôi trồng thủy sản theo quy trình công nghiệp, theo
hướng sản xuất hàng hóa, đảm bảo có hiệu quả cao và bền vững. Đẩy mạnh sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp, bao gồm cả thủy hải sản vùng ven bờ, đây là ngành sản xuất có
thế mạnh về tự nhiên, lao động tiềm năng phát triển. Gắn với các mục tiêu bảo vệ môi
trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững và cảnh quan cho phát triển du lịch biển.
Đối với ngành du lịch biển cần tập trung ưu tiên công tác lập quy hoạch phát triển.
Cần tập trung định hướng xác định các sản phẩm đặc thù có sức cạnh tranh cao trong
vùng và khu vực. Xác định rõ đâu là thị trường trọng điểm, đâu là thị trường tiềm năng để
có bước phát triển phù hợp.
Tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch cần được phân bố theo lãnh thổ không gian, tuỳ
thuộc vào tiềm năng của mỗi vùng và khả năng tổ chức hoạt động du lịch của vùng đó
Nâng cao nhận thức về du lịch trong các cấp, các ngành và nhân dân; tạo lập và nâng
cao hình ảnh của du lịch Việt Nam nói chung và vùng biển nói riêng trong khu vực và
trên thế giới để qua đó thu hút khách du lịch và nguồn vốn đầu tư vào du lịch.



×