Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện đông anh, TP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.27 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH THPT Ở HUYỆN ĐÔNG ANH,
TP HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành đƣợc bài khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn tới Khoa Giáo
Dục Chính Trị -Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2 cùng tập thể giảng viên
Khoa Giáo Dục Chính Trị.Đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình dạy học để em
có đƣợc những kiến thức cơ bản. Qua đây, em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới
cô Chu Thị Diệp đã trực tiếphƣớng dẫn chỉ bảo cho em trong xuốt quá trình em
thực hiện bài khóa luận này.Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô của
các trƣờng THPT đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, em cũng xin bày tỏ
lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên trong quá trình em thực hiện bài
khóa luận. Bàikhóa luận của em còn nhiều thiếu xót do còn hạn chế về tài liệu
nghiên cứu, em mong thầy cô góp ý để bài khóa luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN


Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em, các số liệu sử
dụng phân tích trong bài khóa luận có nguồn gốc rõ ràng, đã đƣợc công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong bài do em tự tìm hiểu phân tích
một cách trung thực khách quan.Các kết quả này chƣa từng đƣợc công bố trong
bất kì bài nghiên cứu nào khác. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Ngƣời thực hiện khóa luận

Nguyễn Thị Kiều Oanh


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

BCH TW:

Ban chấp hành Trung Ƣơng

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

GDCD:

Giáo dục công dân

GVCN:

Giáo viên chủ nhiệm

GD& ĐT:


Giáo dục và đào tạo

KHXH:

Khoa học xã hội

Nxb:

Nhà xuất bản

NQ/TW:

Nghị quyết/ Trung Ƣơng

QĐ-TTg:

Quyết định- Thủ tƣớng

PGS:

Phó giáo sƣ

THPT:

Trung học phổ thông

TNCS:

Thanh niên cộng sản


TP:

Thành phố

TS:

Tiến sĩ

SGK:

Sách giáo khoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH THPT ............................................................................................. 6
1.1. Đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT ......... 6
1.2. Các yếu tố cấu thành của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ......... 17
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
THPT Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, TP HÀ NỘI ................................................ 26
2.1. Các yếu tố tác động đến giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện
Đông Anh, TP Hà Nội ................................................................................. 26
2.2. Những kết quả đã đạt đƣợc trong quá trình giáo dục đạo đức. ............ 33
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢGIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở HUYỆN ĐÔNG ANH,
TP HÀ NỘI ..................................................................................................... 46
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh

THPT ........................................................................................................... 46
3.2. Một số giải pháp cần thực hiện đối với công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh các trƣờng THPT ở huyện Đông Anh ................................................. 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 61


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc thì con
ngƣời và sự phát triển đạo đức con ngƣời đƣợc xem là vấn đề trung tâm, tiên
quyết để phát triển, các nhà triết học Trung Hoa xƣa đã nó câu: “Tiên học lễ,
hậu học văn”. Các bậc tiền nhân cách đây 530 năm (1848 - 2014) trên tấm bia
Tiến sĩ đầu tiên đặt ở Văn Miếu Quốc Tử Giám của nƣớc ta đã khắc ghi:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nƣớc mạnh rồi
lên cao, nguyên khí suy thì nƣớc yếu rồi xuống thấp”. Đảng và Nhà nƣớc ta
luôn coi trọng vấn đề giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói
chungvà học sinh, sinh viên trong thời kì đổi mới nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí
Minh cũng đã dạy: “Có tài mà không có đức thì là ngƣời vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Ngƣời còn dạy: “Công tác giáo dục
đạo đức trong nhà trƣờng là một bộ phận rất quan trọng và có tính chất nền
tảng của công tác giáo dục trong nhà trƣờng xã hội chủ nghĩa. Dạy cũng nhƣ
học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài, đức là cái gốc của ngƣời cách mạng,
đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng” (Trích lời dạy của
Bác Hồ- tháng 10/ 1964). Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
“Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con ngƣời Việt Nam…bồi dƣỡng
các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tƣởng
sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con ngƣời Việt
Nam”.
Thấm nhuần tƣ tƣởng đó của Chủ tịch Hồ chí Minh, Nghị quyết Đại hội

Đảng khoá VIII đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Hội nghị lần 2
Ban chấp hành Trung Ƣơng Đảng khoá VIII khẳng định rằng: “Muốn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và
đào tạo, phát huy nguồn lực con ngƣời, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh

1


và bền vững, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh. Phát triển nguồn lực con ngƣời là phát triển đức và tài”.
Tại điều 2 chƣơng I, luật Giáo dục nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2005 đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con ngƣời Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tƣởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi
dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (Trích số 38/2005QH11 ngày
14/06/2005).
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục
tiêu giáo dục ở nhà trƣờng nói chung và nhà trƣờng THPT nói riêng ở nƣớc ta
hiện nay. Giáo dục đạo đức có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân
cách con ngƣời,đƣợc xem là nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nƣớc.
Tuy nhiên, sự ảnh hƣởng của quá trình toàn cầu hoá công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã có những tác động nhất định ảnh hƣởng cả mặt tích cực lẫn
mặt tiêu cực tới nhà trƣờng, tới học sinh.Các em học sinh có điều kiện tiếp
xúc với những nền văn hoá lớn, tiếp cận những tri thức, những nguồn thông
tin hiện đại nhất, tiên tiến nhất. Từ đó lại dẫn đến một điều đáng quan tâm là
các em tiếp xúc với nhiều thông tin và các nền văn hoá khác nhau ảnh hƣởng
tới truyền thống đạo đức của ngƣời Việt Nam. Vì vậy, văn kiện hội nghị ban
chấp hành TƢ lần 2 khóa VIII đã đánh giá: “Một bộ phận học sinh, sinh viên
có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tƣởng, theo lối sông thực dụng,

thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tƣơng lai của bản thân và đất nƣớc”
[4,tr. 22].Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tƣởng giảm sút niềm tin, ít
quan tâm đến tình hình đất nƣớc, sống thực dục xa dời văn hóa, gía trị truyền
thống của dân tộc.

2


Đứng trƣớc tình hình đó, công tác giáo dục tƣ tƣởng chính trị, đạo đức
lối sống cho học sinh THPT là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và bức thiết
của nhà trƣờng, của gia đình và của toàn xã hội. Nhà trƣờng phải coi trọng
dạy chữ cùng với dạy ngƣời và dạy nghề, cần tăng cƣờng giáo dục đạo đức
cho học sinh nhằm góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh nhà trƣờng, vận dụng vào từng địa phƣơng cụ thể nênem quyết định
lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả việc giáo dụcđạo đức cho học sinh
THPT ở huyện Đông Anh, TP Hà Nội”
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay ở nƣớc ta, việc giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên nói
chung và thanh niên- học sinh nói riêng là một trong những nội dung quan
trọng đƣợc xã hội quan tâm. Đây đƣợc xem là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm cần đƣợc nhà trƣờng chú trọng đến giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống
giúp các em trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.Có rất nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên cả nƣớc nhƣ:
Bài viết đăng trên Tạp chí Triết học của PGS. TS Nguyễn Văn
Phúc,Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp
xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục của tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh (2009),Những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Phan
Bội Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay đã đƣa ra những phƣơng

hƣớng giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo đạo đức lối sông cho học
sinh ở tỉnh Nghệ An. Tác giả Thái Duy Tuyên trong công trình,Những vấn đề
cơ bản của giáo dục hiện đại, đánh giá về thực trạng đã tỏ ra sự lơ là trƣớc sự
sa sút về đạo đức ngày càng gia tăng cả về chất lƣợng và mức độ nguy hại của
một bộ phận học sinh THPT hiện nay. Trong Văn hoá với tự nhiên, tự nhiên

3


với văn hoá do Ban tƣ tƣởng văn hoá Trung ƣơng biên soạn tập hợp nhiều bài
viết nêu lên thực trạng của đạo đức học sinh, sinh viên. Tâm lý học lứa tuổi và
sƣ phạm nói về vai trò của giáo dục đạo đức trong việc giáo dục toàn diện cho
học sinh.
Ngoài các công trình đã nêu ở trên còn có nhiều công trình nghiên cứu
các vấn đềsuy thoái đạo đức của giới trẻ đặc biệt là lứa tuổi học sinh. Song sự
đề cập có tính chất chuyên sâu về thực trạng giáo dục đạo đức, giá trị đạo đức
cho học sinh THPT từng địa phƣơng chƣa đƣợc đề cao mà chỉ là những vấn
đề chung nhất. Trƣớc tình hình đó yêu cầu đặt ra là cần phải nâng cao hơn
nữa chất lƣợng giáo dục đạo đức cho học sinh và đƣợc vận dụng vào nghiên
cứu thực trạng của từng địa phƣơng cụ thể trong cả nƣớc nói chung và học
sinh huyện Đông Anh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở khái quát thực trạng trong công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh ở một số trƣờng THPT trên địa bàn huyện Đông Anh, TP Hà Nội để từ
đó đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục cho học sinh
nói riêng và chất lƣợng đạo đức nói chung, góp phần tạo ra con ngƣời mới
phù hợp với yêu cầu của đất nƣớc trong thời đại mới.
Nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích đánh giá thực trạng của công tác giáo dục đạo đức

cho học sinh trƣờng THPT
Thứ hai, đề xuất một số biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh trƣờng THPT
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng
Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Một số trƣờng THPT trên địa bàn huyện Đông Anh, TP Hà Nội trong 3
năm 2010-2011; 2011-2012; 2012-2013: (trƣờng THPT Cổ Loa, THPT Bắc
Thăng Long, THPT Đông Anh, THPT Liên Hà, THPT Vân Nội…)
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của đề tài
Khóa luận đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận Duy vật biện
chứng và Duy vật lịch sử các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc, các bộ ban
nghành về giáo dục và giáo dục đạo đức.
Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phƣơng pháp
phân tích- tổng hợp, phƣơng pháp logic- lịch sử, phƣơng pháp điều tra xã hội
học.
6. Ý nghĩa
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh
viên, đồng nghiệp đang quan tâm, vận dụng vào giảng dạy nâng cao chất
lƣợng môn GDCD và giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh các trƣờng THPT
trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm 3 chƣơng và 6 tiết.


5


NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH THPT
1.1. Đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT
1.1.1. Khái niệm và cấu trúc của đạo đức
* Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt đƣợc hình thành và phát
triển cùng với sự phát triển của con ngƣời, nhằm mục đích điều chỉnh hành vi
của con ngƣời với con ngƣời, con ngƣời với xã hội bị chi phối bởi điều kiện
kinh tế, xã hội và lịch sử. Nhờ có đạo đức con ngƣời có sức mạnh chống lại
cái ác, cái xấu, đi ngƣợc lại với lợi ích của xã hội, nhờ có những chuẩn mực
đạo đức con ngƣời mới có thể gìn giữ và phát triển những cái tốt, cái thiện
làm cho cuộc sống phát triển hơn. Để có đƣợc cái nhìn hoàn thiện nhất về đạo
đức thì cách đây hàng nghìn năm, vấn đề đạo đức của con ngƣời đã đƣợc các
nhà xã hội học xem xét và bàn luận.
Đạo đức với tƣ cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tƣ
tƣởng đạo đức xuất hiện cách đây hơn 2600 năm trong triết học Trung Quốc,
Ấn Độ và Hy lạp cổ đại.
Theo quan điểm của các nhà triết học phƣơng Đông cổ đại, đại diện là
Khổng Tử (551-479 ) trong các tác phẩm “Dịch, Thi, Thƣ, Lễ, Nhạc Xuân
Thu) rất xem trọng giáo dục đạo đức, trong những lời giáo huấn của ông đều
nhấn mạnh đến “lý” đó đƣợc xem là cách ứng xử đúng mực. Ngoài ra, ông
còn khuyên học trò của mình “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã
hội phát triển bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con ngƣời giữ đƣợc đạo lý.
Để thực hiện đƣợc ý tƣởng đó, ông đề ra nguyên tắc vua tôi, ông bà, cha mẹ;
con cháu đều phải theo luật nƣớc, phép nhà. Thực ra Khổng Tử không phải là


6


ngƣời đầu tiên bàn đến đạo đức, nhƣng công lao chính của ông đã tổng kết
đƣợc kinh nghiệm thực tiễn của đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây dựng nên
học thuyết về đạo đức. Học thuyết này còn nặng về tƣ tƣởng nho giáo và ý
thức hệ phong kiến, nhƣng nó chứa đựng nhiều vấn đề đạo đức xã hội. Đó là
ý thức đối với bản thân, ý thức đối với xã hội đặt các mối quan hệ của con
ngƣời trong mối quan hệ tƣơng quan xã hội, cách ứng xử và hành vi của con
ngƣời, phẩm hạnh con ngƣời, hạnh phúc con ngƣời.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu ni
sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề đạo đức nhƣng chủ yếu khuyên con
ngƣời sống thiện, biết thƣơng yêu nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Ở phƣơng Tây vấn đề đạo đức đã từ lâu đƣợc nhiều nhà tƣ tƣởng quan
tâm đến.Cho đến nay, ngƣời ta vẫn coi Xoocrat (469-399) là ngƣời đầu tiên
đặt nền móng cho khoa học Đạo đức học, còn Arixtốt (384-322) đã viết bộ
sách Đạo đức học với 10 cuốn trong đó ông đặc biệt quan tâm tới phẩm hạnh
của con ngƣời. Nội dung của phẩm hạnh chính là ở chỗ biết định hƣớng, biết
làm việc thiện. Trong lịch sử Đạo đức học, Êpiquya (341-271) đƣợc xem là
ngƣời đầu tiên đƣa ra phạm trù “lẽ sống” vào đạo đức học.
Trong giáo trình “Đạo đức học” của Trần Đăng Sinh- Nguyễn Thị Thọ,
đạo đức đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con ngƣời trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng đƣợc thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dƣ luận xã hội” [14,tr.6].
Từ định nghĩa về đạo đức chúng ta cần chú ý nhƣ sau:
Một là, đạo đức với tƣ cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.Đạo đức cũng nhƣ các quan

điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của kiến trúc

7


thƣợng tầng. Chế độ kinh tế- xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức
con ngƣời. Các quan điểm này thay đổi theo điều kiện kinh tế- xã hội.
Hai là, đạo đức là một phƣơng thức điều chỉnh hành vi của con ngƣời.
Loài ngƣời đã sáng tạo ra nhiều phƣơng thức điều chỉnh hành vi: phong tục,
tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi
của con ngƣời theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện
thành những khái niệm về thiện và ác vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức bao giơ cũng biểu hiện lợi ích của giai
cấp thống trị. Những khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức là yêu cầu
của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi cá
nhân. Hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những
chuẩn mực cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội. Do vậy việc điều chỉnh
hành vi đạo đức mang tính tự nguyện, xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa
chọn của con ngƣời.
Ba là, đạo đức là một hệ thống các giá trị, các hiện tƣợng đạo đức
thƣờng biểu hiện dƣới hình thức khẳng định, hoặc phủ nhận lợi ích chính
đáng hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là bày tỏ sự tán thành hay phản
đối trƣớc thái độ hay hành vi ứng xử của mỗi cá nhân, giữa cá nhân với cộng
đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy đạo đức là một nội dung hợp thành
hệ thống giá trị xã hội. Sự hợp thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị
đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự
điều chỉnh hành vi đạo đức.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Hình thái ý thức xã hội bao gồm
hệ tƣ tƣởng, triết học, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, khoa
học…Con ngƣời là một thực thể xã hội, sống trong một cộng đồng nhất định.

Mọi hoạt động của con ngƣời luôn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau,
do đó con ngƣời có hai đặc tính là tính tự giác và tính xã hội, chúng quy định

8


và chế ƣớc lẫn nhau. Trong quá trình quan hệ qua lại tác động lẫn nhau tính tự
giác và tính xã hội của con ngƣời đã đƣa ra những yêu cầu cho bản thân con
ngƣời, những yêu cầu đó đƣợc gọi là những chuẩn mực đạo đức. Chuẩn mực
đạo đức là yêu cầu do con ngƣời đƣa ra cho mình trong quan hệ với ngƣời
khác và với xã hội. Hệ thống những chuẩn mực đó do con ngƣời đề ra và tự
giác tuân theo trong qua trình giao tiếp với ngƣời khác và với xã hội. Theo
giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sƣ phạm của tác giả Lê Văn
Hồng (chủ biên) thì quan niệm rằng: Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực
biểu hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích của bản thân và lợi ích của
ngƣời khác và của toàn xã hội[6,tr.141].
Những chuẩn mực hành vi đạo đức của con ngƣời ra đời đều bị chi phối
và thay đổ theo hình thái kinh tế xã hội, chế độ chính trị khác nhau. Những
chuẩn mực đạo đức quyết định hành vi, cử chỉ của cá nhân hƣớng con ngƣời
đến cái thiện và tránh cái ác.
Theo tài liệu“Giáo dục công dân lớp 10”- Nxb Giáo dục, của một nhóm
tác giả do Mai Văn Bính tổng chủ biên thì “Đạo đức là hệ thống các quy tắc,
chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con ngƣời tự giác điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”[2,tr.63].
Nhƣ vậy đạo đức không phải là cái có sẵn, cũng không phải là do thiên
định mà đạo đức là sản phẩm quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa cá
nhân con ngƣời với tập thể, với cộng đồng xã hội bởi đạo đức bắt nguồn từ
tồn tại xã hội, từ lao động sản xuất của con ngƣời, từ bản chất của con ngƣời
luôn hƣớng đến các giá trị chân, thiện, mỹ để hoàn thiện chính mình. Để đạt
đƣợc con ngƣời trƣớc hết phải hoàn thiện về đạo đức và nhân cách.

Để đánh giá con ngƣời có đạo đức hay không ngƣời ta căn cứ vào hành
vi của ngƣời đó, quyết định trực tiếp đến hành vi đó là đạo đức. Vậy đạo đức
đƣợc hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao

9


gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, ngững quy tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ
đó con ngƣời tự giác điều chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con ngƣời và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con
ngƣời với con ngƣời và con ngƣời với xã hội.
Đạo đức mang bản chất của giai cấp đồng thời mang tính nhân loại.Khi
xã hội phân chia thành giai cấp thì đạo đức cũng mang bản chất giai cấp sâu
sắc đƣợc thể hiện đao đức xã hội chia làm hai nền đạo đức khác nhau, đối lập
nhau.Đạo đức của giai cấp thống trị chi phối mọi hoạt động trong đời sống xã
hội, đạo đức của giai cấp bị trị tồn tại và bi đạo đức của giai cấp thống trị chi
phối.Ngoài ra, đạo đức còn mang tính nhân loại sâu sắc thể hiện ở hình thức
đơn giản là những quy tắc thông thƣờng trong cuộc sống, hình thức cao hơn là
những giá trị đạo đức tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử. Đạo đức còn chức
đựng nhiều chức năng nhƣ giáo dục, điều chỉnh hành vi đạo đức, nhận thức.
Nhƣ vậy khái niệm đạo đức đƣợc tiếp cận trên nhiều góc độ nhƣng có
thể hiểu một cách khái quát: khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm
trù chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật…Các quan điểm đạo
đức chuẩn mực chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp yêu cầu
phát triển của xã hội,tạo nên tính cách tốt đẹp ở mỗi con ngƣời và nhân loại.
Đạo đức đƣợc phản ánh dƣới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực,
quy tắc điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con ngƣời trong các mối quan
hệ giữa con ngƣời với tự nhiên, xã hội, lao động con ngƣời và với chính bản
thân mình. Đạo đức chính là những những phẩm chất nhân cách của con

ngƣời khác và với chính bản thân mình, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí,
hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con
ngƣời- tự nhiên, với xã hội, con ngƣời với con ngƣời.

10


* Cấu trúc của đạo đức
Khi nhìn nhận về cấu trúc của đạo đức chúng ta nhìn nhận nó dƣới
nhiều góc độ khác nhau.Mỗi góc độ của đạo đức đều cho chúng ta cái nhìn
mới mẻ về cấu trúc của đạo đức.Trong mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động
thì hệ thống đạo đức đƣợc hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực
tiễn đạo đức. Trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời thì đƣợc nhìn
nhận là quan hệ đạo đức. Nếu trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng,
cái đơn nhất và cái đặc thù thì đạo đức đƣợc tạo nên từ đạo đức xã hội và
đạo đức cá nhân.
Cấu trúc của đạo đức đƣợc thể hiện là sự thống nhất biện chứng giữa ý
thức đạo đức và thực tiễn đạo đức, mọi ý thức đạo đức đều đƣợc thể hiện thông
qua thực tiễn đạo đức và biểu hiện dƣới dạng những quan hệ đạo đức trong xã
hội. Ý thức đạo đức là sự ý thức về những chuẩn mực đạo đức, những nguyên
tắc đạo đức xã hội đặt ra và những cảm xúc, tình cảm của con ngƣời nó giúp
cho con ngƣời nhận thức đƣợc những hành vi của bản thân là đúng hay sai để
từ đó hƣớng con ngƣời đến những giá trị tốt đẹp. Thực tiễn đạo đức là hoạt
động của con ngƣời do ảnh hƣởng của niềm tin, ý thức đạo đức. Thực tiễn đạo
đức còn là nơi kiểm tra tính đúng đắn của mọi ý thức đạo đức.
Ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức có mối quan hệ biện chứng tác động
và bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con ngƣời, của một giai
cấp, của một chế độ xã hội và của một thời đại lịch sử. Ý thức đạo đức phả
đực thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn
ngừa cái ác.Nếu không có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức không đạt đến

giá trị. Thực tiễn đạo đức thể hiện nhƣ sự tƣơng trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa
hiệp, hành động nghĩa vụ…Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức
của con ngƣời đƣợc nảy sinh trên cơ sở ý thức đạo đức[14,tr. 11].
Cơ sở đƣợc xem là để hình thành nên ý thức đạo đức là các quan hệ xã
hội, chúng tồn tại khách qua và luôn luôn biến đổi theo sự phát triển và thay
11


đổi qua các thời kì lịch sử. Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác
định giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa cá nhân và xã hội về đạo đức.
Ngoài ra, cấu trúc đạo đức còn bao gồm đạo đức xã hội và đạo đức cá
nhân. Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng ngƣời xác
định và phƣơng thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng
nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện xã hội ấy, chúng đƣợc hình thành trên
cơ sở cộng đồng về lợi ích và hoạt động của cá nhân tồn tại trong cộng đồng.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ trong một cộng đồng,
phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của cá nhân ấy. Trong quá trình nhận
thức cá nhân thu nhận đạo đức xã hội nhƣ là hệ thống kinh nghiệm xã hội, tƣ
tƣởng, chuẩn mực đạo đức đã đƣợc hình thành và phát triển trong cộng đồng,
biến chúng thành kinh nghiệm của bản thân. Đạo đức xã hội và đạo đức cá
nhân là sự thống nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và
cái đặc thù. Mọi hành vi cá nhân đều biểu hiện những bản chất của đạo đức xã
hội. Dƣới sự tác động của đạo đức xã hội thì mỗi cá nhân có sự ảnh hƣởng
khác nhau, có ngƣời ảnh hƣởng tích cực nhƣng bên cạnh đó cũng có những
nguời ảnh hƣởng tiêu cực. Đạo đức xã hội mang đặc trƣng và trở thành cái
chung của một giai cấp, một cộng đồng xã hội, một thời đại lịch sử cụ thể,
đƣợc biểu hiện và củng cố bằng những phong tục, tập quán truyền thống.
1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT
* Giáo dục đạo đức và cấu trúc của quá trình giáo dục đạo đức
Trong sự vận động và phát triển của cơ chế thị trƣờng, hội nhập quốc tế

và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đây đƣợc xem là những nhân tố mới tác
động mạnh mẽ nhất đến truyền thống đạo đức của dân tộc.Tuy nhiên trong sự
vận động và phát triển của sự tiến bộ không thể thiếu đi vai trò và chức năng
của đạo đức. Đạo đức rất cần thiết đối với những con ngƣời của thời đại mới
vừa có đức vừa có tài.

12


Xuất phát từ việc đề cao vai trò, chức năng giáo dục của đạo đức đối với
sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân hay của toàn xã hội, vấn đề giáo dục
đạo đức đƣợc đặt ra. Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng là một
hoạt động chuyên môn của xã hội nhằn hình thành và phát triển nhân cách
con ngƣời theo những yêu cầu của xã hội trong tƣng giai đoạn lịch sử nhất
định. Trong sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức của học sinh thì
giáo dục giữ vai trò chủ đạo, ngoài ra nó còn đƣợc xem là sự tác động đến lứa
tuổi thanh niên về mặt tƣ tƣởng tình cảm, hành vi, đạo đức… nhằm hình
thành thái độ niềm tin, thói quen cƣ xử đúng đắn trong gia đình nhà trƣờng và
toàn xã hội. Giáo dục đạo đức vạch ra phƣơng hƣớng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách.Vì giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định,
hình thành một mẫu ngƣời cụ thể cho xã hội.
Ngày nay bên cạnh những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc thì một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên không có lý tƣởng sống, hay
có lối sống không lành mạnh chỉ biết hƣởng thụ không biết lao động, chạy
theo đồng tiền…Vì vậy công cuộc giáo dục đặc biệt là giáo dục đạo đức mới
là một việc làm vô cùng cần thiết, quan trọng.
Giáo dục đạo đức đƣợc xem là một bộ phận của quá trình giáo dục. Là
quá trình tác động tới ngƣời học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm, niềm
tin đạo đức, đích cuối cùng và quan trọng nhất là tạo lập đƣợc thói quen và
hành vi đạo đức tốt. Hƣớng con ngƣời vào những phẩm chất đạo đức tốt đẹp.

Quá trình giáo dục bao gồm việc tự giáo dục và giáo dục lại.
Tự giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có ý thức của mỗi cá
nhân để tự hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của bản thân theo những
định hƣớng giá trị nhất định. Đây đƣợc xem là yếu tố quan trọng giúp cho học
sinh có thể tự đánh giá, kiểm tra hành vi của bản thân đã phù hợp với những
chuẩn mực của nhà trƣờng của xã hội.

13


Do ảnh hƣởng của môi trƣờng sống, xã hội, gia đình, nhà trƣờng và do
những thiếu xót, sai lầm trong phƣơng pháp, điều kiện giáo dục một bộ phận
thanh thiếu niên đã hình thành những ý nghĩ, tình cảm sai lệch, đi ngƣợc lại
những quy định mang tính chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội và đời
sống. Những biểu hiện sai lệch về hành vi nhƣ vậy cần phải đƣợc giáo dục lại,
uốn nắn để trở thành ngƣời tốt. Quá trình giáo dục lại là một quá trình đan xen
với quá trình giáo dục nhằm thay đổi những phẩm chất nhân cách không phù
hợp do ảnh hƣởng xấu của môi trƣờng đã hình thành ở học sinh và xây dựng
những phẩm chất đúng đắn của con ngƣời. Nói cách khác, giáo dục lại là sự
cải tạo những khiếm khuyết về đạo đức lối sống, bồi bổ những giá trị mới và
phát triển nhân cách toàn diện.
Trong giáo dục đạo đức chứa đựng những đặc điểm của quá trình giáo
dục.Giáo dục đạo đức có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình dạy học trên lớp và
dạy học giáo dục ngoài giờ lên lớp. Những kiến thức mà học sinh tiếp thu
đƣợc trong quá trình học tập ở trên lớp sẽ đƣợc vận dụng vào thực tế cuộc
sống. Những hoạt động ngoại khóa giúp các em củng cố những môn văn hóa,
khoa học, trực tiếp rèn luyện kĩ năng thực hành , mở rộng kiến thức, phẩm
chất đạo đức của học sinh. Có định hƣớng thống nhất các yêu cầu, mục đích
giáo dục giữa các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trƣờng.Mang tính biện
chứng, tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển phức tạp trong quá

trình phát triển, biến đổi về nhân cách của học sinh về mặt đạo đức. Quá trình
giáo dục đạo đức chứa đựng trong bản thân nó rất nhiều mâu thuân cơ bản:
mâu thuẫn giữa cái tốt và cái xấu, hành vi đạo đức đúng với chuẩn mực hay
trái với chuẩn mực đạo đức. Bên cạnh đó giáo dục đạo đức mang tính tƣơng
tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tƣợng đƣợc giáo dục.
Trong quá trình giáo dục thì cấu trúc của quá trình giáo dục bao gồm:
mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung phƣơng pháp giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo

14


đức trang bị những tri thức cần thiết về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức văn hóa,
kinh tế, pháp luật, văn hóa xã hội cho học sinh, để từ đó hình thành nên thái
độ đúng đắn. Giáo dục đạo đức góp phần giáo dục ý thức, tình cảm niềm tin,
hành vi thói quen đạo đức
* Vai trò của việc giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT
Điều 2 chƣơng I của Luật Giáo dục đã ghi: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con ngƣời việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Đảng ta cũng đã khẳng định quan điềm về phát triển giáo dục trong
chiến lƣợc phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010: “Giáo dục con ngƣời Việt
Nam phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ và thẩm mỹ...
góp phần làm cho dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhƣ vậy, giáo dục đạo đức là một mặt giáo dục bắt buộc, một bộ phận
cấu thành của quá trình giáo dục trong trƣờng học. Giáo dục đạo đức đƣợc
xem là nền tảng, gốc rễ tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo
dục khác. Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT phụ thuộc vào nhiều yếu tố

nhƣng chủ yếu là vai trò của giáo dục, sự điều chỉnh hành vi của xã hội và chủ
thể đạo đức, khả năng nhận thức của học sinh.
Thứ nhất,Giáo dục đạo đức nhằm hình thành cho học sinh hệ thống
những quan điểm nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội. Trong xã hội, đạo
đức đƣợc coi là thƣớc đo, thang giá trị của con ngƣời trong mọi thời đại, góp
phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu của xã
hội. Từ thực tế cuộc sống và công cuộc giáo dục đạo đức trong nhà trƣờng
THPT cho ta thấy rằng; đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng, tồn tại khách

15


quan nhằm hình thành cho hoc sinh hệ thống những chuẩn mực đạo đức xã
hội nhằm điều chỉnh hành vi quan hệ ứng xử của bản thân. Trong nhà trƣờng
công cuộc giáo dục đạo đức cho học sinh đƣợc thể hiện thông qua nội dung
của những bài học mang tính giáo dục cao, luôn hƣớng đến những giá trị đạo
đức tốt đẹp, sống thiện, sống có ích.
Thứ hai, giáo dục đạo đức cho học sinh giúp cho các em đánh giá đúng
những hiện tƣợng đạo đức xã hội và sự điều chỉnh hành vi của bản thân
mình theo đúng chuẩn mực xã hội thông qua những quy tắc, đạo đức khuyến
khích hay ngăn cấm những hành vi của cá nhân. Ngày nay, con ngƣời sống
thực dụng chỉ biết hƣởng thụ không biết lao động, có lối sống vị kỉ, thiếu
văn hóa mà một bộ phận không nhỏ là thanh niên. Phải chăng lối sống đó đã
ăn sâu vào suy nghĩ và hành động của các bạn trẻ, từ thực tế đó đã hình
thành nên những hành vi đạo đức thấp kém, suy nghĩ lệch lạc biến mình trở
thành những kẻ vô trách nhiệm, thiếu lƣơng tâm...Muốn trở thành những
công dân có ích cho xã hội thì bản thân cá nhân học sinh phải tự giác đánh
giá những hành vi của bản thân mình đã đúng chƣa, có phù hợp với những
quy định của xã hội không?.
Thứ ba, Giáo dục đạo đức có vai trò góp phần làm tăng tính tích cực của

cá nhân. Bản thân con ngƣời khi sinh ra không có ai là xấu Hồ Chí Minh đã
khẳng định rằng: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà
nên”giáo dục giúp cho học sinh hình thành và nhận thức đƣợc đâu là hành vi
tốt, đâu là hành vi xấu. Nếu nhƣ khi các em học sinh thực hiện hành vi đạo
đức tốt thì bản thân các em thấy hạnh phúc, ngƣời đƣợc giúp đỡ cũng cảm
thấy hạnh phúc, thấy cuộc sống đẹp hơn có ý nghĩa hơn. Giáo dục đạo đức
giúp thức tỉnh bản chất tốt đẹp bên trong mỗi cá nhân, là động cơ có sức mạnh
thôi thúc các em đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu, giữ gìn và phát
huy cái tiến bộ, tốt đẹp.

16


Tóm lại, vai trò của giáo dục đạo đức chính là góp phần định hƣớng,
hình thành và phát triển nhân cách của các em học sinh. Bằng việc đề ra
những chuẩn mực đạo đức để học sinh tự nguyện, tự giác thực hiện nhờ quá
trình nhận thức giúp cho học sinh định hƣớng mọi hành vi của bản thân, cung
cấp cho học sinh những kiến thức thực tiễn về đạo đức để từ đó học sinh có
thể nhận thức đƣợc cái tốt.
1.2. Các yếu tố cấu thành của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.2.1. Chủ thể giáo dục đạo đức
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT đƣợc thực hiện chủ yếu dƣới
vai trò tác động trực tiếp của ngƣời giáo viên.Giáo viên là ngƣời cung cấp tri
thức cho học sinh và luôn đƣợc mọi ngƣời nhìn nhận là ngƣời có trình độ
chuyên môn cao.Vì vậy, giáo viên phải không ngừng trau dồi tri thức chuyên
môn.Giáo dục đạo đức là một việc làm quan trọng mà ngƣời giáo viên cần
phải thực hiện trong công tác giáo dục của mình. Bằng sự hiểu biết về tri thức
ngƣời thầy giáo, cô giáo cần phải tìm hiểu tâm lý lứa tuổi, đặc điểm tình cảm,
hoàn cảnh gia đình, tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy- trò. Tất cả những nhân
tố đó góp phần to lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh.Bên cạnh đó

để hình thành và hoàn thiện hơn nữa nhân cách của học sinh thì ngƣời giáo
viên cần phải kết hợp các phƣơng pháp giảng giải phù hợp nhằm mục đích
cung cấp tri thức đạo đức cho học sinh.
Các trƣờng THPT trên địa bàn huyện cũng đƣợc củng cố và xây dựng hệ
thống phòng ban chức năng, chúng cũng có sự tác động vô cùng to lớn đến sự
phát triển nhân cách của học sinh nhƣ: phòng thƣ viện; cung cấp tri thức tài
liệu giúp cho các em tránh xa tệ nạn xã hội, hay nhƣ những hoạt động của
Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, các câu lạc bô do nhà trƣờng tổ
chức nhƣ: Trƣờng THPT Vân Nội có các câu lậc bộ Guitar, câu lạc bộ Mỹ
thuật… Trƣờng THPT Cổ Loa có câu lạc bộ bóng rổ…Chúng giúp các em có
thêm nhiều hiểu biết về các lĩnh vực mà các em yêu thích.
17


Ngoài ra, quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh còn là quá trình tự
giáo dục. Do đặc điểm của đạo đức, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức của các khái niệm, nguyên
lý, nguyên tắc chuẩn mực đạo đức xã hội, tri thức khoa học, mà phải gắn liền
với những cảm xúc, những rung cảm sâu sắc.
Chính vì vậy quá trình giáo dục đạo đức phải gắn với quá trình tự giáo
dục.Với vai trò vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình giáo dục quá
trình tự giáo dục là một trong những biện pháp có hiệu quả tích cực đến hình
thành đạo đức cho học sinh. Quá trình này làm cho yêu cầu của xã hội trở
thành nhu cầu bên trong của mỗi học sinh tạo nên động lực cho các em vƣợt
qua khó khăn để điều chỉnh hành vi đạo đức.
1.2.2. Học sinh- Đối tượng của giáo dục đạo đức
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 19
tuổi, ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Nhƣ vậy,
học sinh THPT là lứa tuổi cuối của tuổi vị thành niên giai đoạn này các em
phát triển mạnh về thể chất, tâm lý, sinh lý.Đây là thời kì các em bắt đầu phát

triển từ lúc dậy thì và kết thúc khi bƣớc vào tuổi ngƣời lớn, các em luôn có xu
hƣớng tự khẳng định mình, có ý thức vƣơn lên làm chủ bản thân. Ở giai đoạn
này, sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của ngƣời lớn làm các em luôn luôn cảm
thấy khó chịu, bực bội và dễ nổi nóng, lúc này cái “tôi” ngày càng đầy đủ
hơn. Trong quá trình phát triển, các em muốn tìm tòi, phát hiện, khám phá
những điều chƣa biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự khẳng định
mình và muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc của bố mẹ, gia đình và những ngƣời
lớn tuổi.
Tuổi vị thành niên mang tính chất tập thể, sự giao tiếp với bạn bè là một
nhu cầu rất lớn của các em, các em có xu hƣớng tụ tập thành từng nhóm có
cùng sở thích, phù hợp với tình hình để vui chơi, đùa nghịch.Thời kì này, quá

18


trình phát triển sinh lý ảnh hƣởng nhiều đến tính cách của các em. Các em dễ
bị lôi kéo, dễ bị kích động, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế yếu, có tính
tình không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi nhiệt tình nhƣng hễ có trở
ngại lại dễ chán nản, buông xuôi. Các em rất hiếu thắng hoặc tự ti và dễ dàng
đi đến những hành động thiếu suy nghĩ chín chắn, đôi lúc vi phạm nhƣng
không làm chủ đƣợc bản thân.
Cùng bƣớc vào lứa tuổi vị thành niên nên học sinh trên địa bàn huyện
Đông Anh cũng phát triển những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nhƣ ở
trên.Nhƣng bên cạnh đó những đặc điểm đó còn mang những đặc thù riêng
của từng xã trong địa phƣơng. Do sự phát triển của điều kiện kinh tế- xã hội
của địa phƣơng, nơi đây đƣợc xem là cửa ngõ giao lƣu phía Bắc của TP Hà
Nội, tập trung hai khu công nghiệp lớn Bắc Thăng Long, khu công nghiệp
Đông Anh của thành phố, sự phát triển của những khu công nghiệp kéo theo
đó là nhiều hệ lụy nhƣ kinh tế, chính trị, môi trƣờng và tác động mạnh mẽ
nhất là đạo đức con ngƣời chính vì lẽ đó đã tác động ảnh hƣởng không nhỏ

đến điều kiện kinh tế của từng hộ gia đình trong vùng. Do đặc thù của học
sinh ở ngoại thành TP, thị trấn, nên ít nhiều cũng chịu tác động của các hiện
tƣợng tiêu cực, các tệ nạn xã hội trong nền kinh tế thị trƣờng của đô thị. Đời
sống kinh tế phát triển, nhiều gia đình không quan tâm đến việc học của con
em mình,phải chăng nếu có quan tâm thì bằng việc trang bị cho các em những
phƣơng tiện hiện đại nhất nhƣ: điện thọai, máy tính….Nuông chiều phó mặc
cho nhà trƣờng, thậm chí nhiều phụ huynh còn bất lực trƣớc con cái, chƣa có
phƣơng pháp giáo dục đúng khoa học, nặng về bạo lực. Một số ít học sinh còn
có nhận thức ỷ lại vào bố mẹ.Chính sự không quan tâm buông lỏng việc giáo
dục của gia đình và phó mặc cho nhà trƣờng và xã hội đã đƣa các em đến con
đƣờng phạm tội hay có những hành vi trái ngƣợc lại với chuẩn mực của xã
hội, vi phạm những nội quy của nhà trƣờng. Xuất phát từ đặc thù địa phƣơng

19


và tâm sinh lý của học sinh trong vùng nên việc nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh trên địa bàn huyện Đông Anh là vô cùng quan trong và
cần thiết trong giai đoạn hiện nay.Ngoài ra chúng ta cũng cần đến vai trò của
thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và toàn xã hội thƣờng xuyên quan tâm, động
viên, định hƣớng cho các em có những suy nghĩ và hành động đúng đắn.
1.2.3. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Ngày nay trong nhà trƣờng THPT giáo dục đạo đức cho học sinh là giúp
các em phát triển nhân cách toàn diện hơn về mặt đạo đức và trí tuệ, xây dựng
cho các em có những phẩm chất đạo đức XHCN. Các giá trị, nội dung giáo
dục đạo đức cơ bản cần giáo dục cho học sinh THPT ở nƣớc ta nói chung và
các trƣờng THPT huyện Đông Ạnh nói riêng, đáp ứng mục tiêu giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ phục vụ đất nƣớc giáo dục lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, giáo dục lòng yêu nƣớc XHCN, lòng nhân ái và tinh thần tập thể
XHCN.Giáo dục đạo đức mới cho học sinh THPT đó là đạo đức mới trong gia

đình, đạo đức mới trong học tập, đạo đức mới trong giao tiếp. Ý thức cộng
đồng, tinh thần khoa dung, chống chủ nghĩa cá nhân. Biểu hiện cụ thể, sinh
động là bằng nhiều hình thức giáo dục cho học sinh ý thức tập thể, phong trào
“uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, phụng dƣỡng những ngƣời có
công với cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, bảo vệ của công, giữ
vững kỷ cƣơng, nội quy, quy chế ở trƣờng trong học tập và trong thi cử, tuân
thủ kỉ luật học đƣờng, ý thức chấp hành pháp luật của nhà nƣớc.
Về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh THPT gồm một số nội dung
chủ yếu sau: Thứ nhất, Giáo dục đạo đức gia đình đƣợc thể hiện trong nội
dung nhiều môn học. Nhƣng nội dung giáo dục chủ yếu đƣợc đề cập trong các
bộ môn KHXH và đặc biệt là bộ môn GDCD.
Bản chất mỗi con ngƣời sinh ra là thánh thiện, là tốt. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà

20


×