Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 194 trang )

Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

LỜI GIỚI THIỆU

Để góp phần trao đổi kinh nghiệm đồng thời tìm giải pháp phát huy tốt hơn vai trò quan
trọng của trường thực hành trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm, Viện Nghiên cứu
Giáo dục, mà trực tiếp là Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo: Trường thực hành với vấn đề đào tạo
nghiệp vụ của các trường sư phạm.
Ban tổ chức đã nhận được 32 bài tham luận được gửi tới từ nhiều trường đại học, cao
đẳng sư phạm và trường thực hành trong cả nước. Các báo cáo đã đề cập đến nhiều nội
dung rất phù hợp với chủ đề của Hội thảo, nêu lên những nhận xét sâu sắc về thực trạng, đề
xuất những giải pháp khả thi, những kiến nghị hữu ích nhằm phát huy tốt hơn vai trò, chức
năng của trường thực hành trong nhiệm vụ đào tạo nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm.
Trong Kỷ yếu này, chúng tôi xin được sắp xếp các bài tham luận theo thứ tự ABC của
tên tác giả, trừ báo cáo đề dẫn.
Ban tổ chức xin trân trọng cám ơn các tác giả đã viết bài tham gia Hội thảo; xin cám ơn
các vị đại biểu tham dự Hội thảo, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị để Hội
thảo thành công tốt đẹp.
BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO

1


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Báo cáo đề dẫn Hội thảo



“TRƯỜNG THỰC HÀNH VỚI VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO
NGHIỆP VỤ CỦA CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM”
PGS.TS. Phạm Xuân Hậu
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục, ĐHSP TPHCM

Hội thảo: "Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư
phạm" do Viện Nghiên cứu Giáo dục mà trực tiếp là Trung tâm Phát triển Nghiệp
vụ Sư phạm, thuộc Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã
được sự hưởng ứng của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, giảng viên ở nhiều trường
đai học, cao đẳng sư phạm và đặc biệt được nhiều cán bộ quản lý cùng giáo viên các
trường thực hành sư phạm (THSP) tham gia. Ban tổ chức đã nhận được hơn 30 bản
báo cáo. Các báo cáo này đã cho chúng ta thấy được sự quan tâm chung của nhiều
tác giả đối với thực trạng của các trường THSP hiện nay cũng như những giải pháp,
những kiến nghị để trường THSP có được những đóng góp tích cực cho cơng tác
đào tạo nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm.
Một điều lý thú là hầu như các bản báo cáo đều thống nhất với nhau trong đánh
giá thực trạng, trong đề xuất giải pháp cũng như kiến nghị. Hầu như tác giả nào
cũng khẳng định vai trò quan trọng của trường thực hành trong cơng tác đào tạo
nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm, nhưng thực tế lâu nay trường thực hành chưa tồn
tại đúng như vị trí, chức năng quan trọng vốn có của nó. Lý do của hiện tượng này
có nhiều trong đó có vấn đề nhận thức, tổ chức, quản lý của lãnh đạo các trường đại
học, cao đẳng sư phạm.
Nhìn chung, các trường THSP còn nhiều bất cập, và việc khai thác nó để phục vụ
cho cơng tác đào tạo nghiệp sư phạm (NVSP) vẫn còn nhiều hạn chế. Có những
trường thực hành chưa được các trường sư phạm khai thác hết chức năng, ví dụ: chỉ
đưa sinh viên đến kiến tập, thực tập sư phạm, chưa tiến hành rèn luyện NVSP
thường xun, chưa coi trường THSP như là một cơ sở để triển khai các hoạt động
nghiên cứu khoa học giáo dục.
2



Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Nhiều bản báo cáo được xây dựng trên cơ sở thực tế của các trường, nên đây là
những kinh nghiệm thực tế quý báu mà các trường sư phạm cũng như các trường
thực hành có thể tham khảo và học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi coi đây là một trong
những nội dung quan trọng của Hội thảo. Những nội dung cụ thể, sinh động của các
báo cáo, Ban tổ chức xin mời quý vị đại biểu xem ở Kỷ yếu.
Do thời gian có hạn, chúng tôi xin đề nghị quý vị đại biểu tập trung thảo luận vấn
đề cơ bản sau đây: Làm thế nào để phát huy tốt vai trò của trường thực hành
trong việc đào tạo nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm. Cụ thể:
1. Vấn đề nhận thức, tổ chức, quản lý đối với trường THSP.
2. Vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trường THSP.
3. Vấn đề đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị cho trường THSP.
4. Vấn đề phối kết hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong công tác
đào tạo NVSP.
5. Vần đề chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, giáo viên làm công tác đào tạo NVSP ở
trường thực hành và trường sư phạm.
6. Những vấn đề khác mà các đại biểu thấy cần phải trao đổi thêm.
Xin cám ơn các tác giả đã gửi bài tham gia Hội thảo, xin cảm ơn các vị đại biểu
tham dự Hội thảo. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!

3


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm


Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

VAI TRÒ CỦA TRƯỜNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM
TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
TS. Nguyễn Thò Kim Anh
Bộ môn GDĐB- Trường ĐHSP TPHCM

Nghiệp vụ sư phạm là một trong những nội dung cốt lõi của chương trình đào tạo
giáo viên. Mục đích của nội dung này nhằm hình thành nǎng lực nghề nghiệp cả về
lý luận và thực hành (tay nghề). Khối kiến thức trong nội dung này được cấu thành
bởi những bộ phận sau:
- Tâm lí học cung cấp cho SV những quy luật tâm lý chung và đặc thù của con
người và của HS;
- Hệ thống tri thức về giáo dục học bao gồm những kinh nghiệm về dạy học và
giáo dục con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, đã được khái qt hố thành các
quy luật và tính quy luật;
- Hệ thống thực hành bao gồm những kỹ năng, kỹ xảo giáo dục và dạy học, vǎn
hố giao tiếp và ứng xử đối với học sinh và những lực lượng giáo dục khác.
Trong suốt q trình đào tạo, các nội dung nghiệp vụ sư phạm giúp sinh viên
thích ứng dần với hoạt động của người giáo viên tương lai, được sắp xếp theo một
hệ thống lý thuyết và thực hành - Thực tập sư phạm bao gồm: Tâm lý học, Giáo dục
học, Phương pháp giảng dạy bộ mơn; Thực hành phương pháp giảng dạy bộ mơn;
Kiến tập sư phạm ngắn hạn; Thực tập sư phạm cuối khố; Thực tập nghiệp vụ sư
phạm thường xun. (2)
Các nội dung rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên được tổ chức thực hiện
tại các trường thực hành sư phạm.
Trường thực hành sư phạm: Căn cứ quy chế trường thực hành sư phạm đào tạo
giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ban hành kèm theo Quyết định số
31/1998/QĐ-BGD&ĐT ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã quy định ở Điều 1- Trường thực hành sư phạm cho các trường sư phạm

4


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở bao gồm trường mầm non,
trường tiểu học và trung học cơ sở thuộc hệ thống giáo dục quốc dân vừa làm chức
năng của một trường học thực hiện đầy đủ nhiệm vụ dạy - học và giáo dục theo kế
hoạch được giao; vừa được chọn làm cơ sở thực hành của trường sư phạm để tạo ra
môi trường sư phạm nhằm góp phần hình thành nhân cách người giáo viên và
phương pháp dạy - học và giáo dục cho học sinh.
Nhiệm vụ của Trường thực hành Sư phạm là bồi dưỡng giáo viên các bậc học,
cấp học của trường sư phạm (Điều 2). Theo Điều 3 của Quy chế Trường thực hành
Sư phạm thì Trường thực hành sư phạm phải có các điều kiện:
- Là trường tiên tiến, trường trọng điểm của địa phương;
- Có đội ngũ cán bộ quản lý tốt, có đội ngũ giáo viên đồng bộ và có kinh nghiệm
sư phạm;
- Có cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo dạy - học và giáo dục của trường và
hoạt động thực hành sư phạm của giáo sinh;
- Có quy mô và bậc học, cấp học phù hợp với yêu cầu thực hành sư phạm của
trường sư phạm;
- Có vị trí thuận tiện cho giáo sinh sư phạm thường xuyên đến thực hành sư
phạm.
Hoạt động dạy - học và giáo dục ở trường thực hành sư phạm thực hiện theo các
quy chế, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của Sở Giáo dục - Đào tạo về
mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp dạy học và giáo dục, kiểm
tra đánh giá của bậc học, cấp học. Hoạt động thực hành sư phạm, nghiên cứu, thực
nghiệm khoa học giáo dục do trường sư phạm và trường thực hành sư phạm xây

dựng và thực hiện thống nhất theo kế hoạch năm học sau khi được các cấp quản lý
giáo dục và đào tạo phê duyệt. Trường thực hành sư phạm có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với trường sư phạm tổ chức, hướng dẫn, nhận xét, đánh giá, rút kinh
nghiệm các hoạt động thực hành sư phạm của giáo sinh theo kế hoạch đã định; tham
gia các hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm khoa học giáo dục phục vụ cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của trường sư phạm.
5


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm khoa học giáo dục ở trường thực hành sư
phạm bao gồm:
-Cùng với trường sư phạm thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục;
-Vận dụng kinh nghiệm, thực nghiệm các sáng kiến, các kết luận khoa học giáo
dục đã được nghiệm thu;
-Đề xuất các ý kiến góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, cải tiến việc tổ chức
quá trình đào tạo của trường sư phạm.
Hoạt động thực hành sư phạm của giáo sinh bao gồm:
-Tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục của trường phổ thông, mầm non;
-Quan sát, tìm hiểu các hoạt động dạy - học và giáo dục ở các khối lớp trong
trường phổ thông, mầm non (giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng đối với mầm non);
-Tìm hiểu và thực hành các khâu chuẩn bị dạy học và giáo dục của giáo viên
trường phổ thông, mầm non;
-Dự một số hoạt động mẫu về dạy học và giáo dục của giáo viên trường phổ
thông, mầm non;
-Tập dượt một số hoạt động có chọn lọc về dạy học và giáo dục.
Các yêu cầu của giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm: Có phẩm chất chính

trị, đạo đức, tác phong tốt; có năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững; Có khả năng
hướng dẫn giáo sinh thực hành sư phạm; Trình độ đào tạo phải đạt chuẩn trở lên,
theo quy định đối với từng cấp học; Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, chương trình
đào tạo của toàn cấp học; Có thời gian công tác tối thiểu từ 3 năm trở lên. Ngoài các
nhiệm vụ của người giáo viên theo bậc học, cấp học được nêu trong các văn bản
quy định của Nhà nước, giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm còn có các nhiệm
vụ sau đây: Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nhiệm vụ của người giáo viên hướng dẫn
giáo sinh thực hành sư phạm theo kế hoạch được phân công của hiệu trưởng nhà
trường:
- Hướng dẫn tìm hiểu đối tượng giáo dục và môi trường sư phạm;

6


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

-Hướng dẫn quan sát các giờ dạy - học (giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng đối
với mầm non);
-Thực hiện các hoạt động làm mẫu về dạy - học và giáo dục (giáo dục, chăm sóc
và nuôi dưỡng đối với mầm non);
-Hướng dẫn quan sát và thực hành công tác ngoại khoá, hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ, chủ nhiệm lớp, phụ trách Đoàn, Đội;
Giáo viên của trường thực hành sư phạm có nhiệm vụ tham gia nghiên cứu các
đề tài khoa học, vận dụng kinh nghiệm, thực nghiệm các sáng kiến, các kết luận
khoa học về đề tài thực hành sư phạm; Đề xuất các ý kiến nhằm củng cố, nâng cao
chất lượng, cải tiến phương pháp đào tạo, nội dung đào tạo của trường sư phạm;
Nhận xét đánh giá kết quả thực hành sư phạm cho giáo sinh thuộc phạm vi trách
nhiệm của mình; Kiến nghị, đề xuất với các cấp có thẩm quyền về những vấn đề

liên quan đến thực hành sư phạm.
Về tổ chức và quản lý trường thực hành sư phạm thì việc lựa chọn trường mầm
non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở làm trường thực hành sư phạm do Hiệu
trưởng trường sư phạm chủ động thoả thuận với Hiệu trưởng trường dự kiến lựa
chọn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Quản lý và chỉ đạo chuyên
môn của trường thực hành sư phạm theo phân cấp hiện hành của Bộ Giáo dục và
Đào tạo đối với từng bậc học, cấp học. Hoạt động thực hành sư phạm trong trường
thực hành sư phạm do trường sư phạm trực tiếp chỉ đạo kế hoạch và quản lý về
chuyên môn.
Về cơ sở vật chất trường thực hành sư phạm, ngoài các điều kiện đảm bảo các
quy định về cơ sở vật chất đối với một trường bình thường theo bậc học, cấp học có
cùng quy mô đào tạo, trường thực hành sư phạm cần có thêm các điều kiện sau đây:
- Phòng học có diện tích đủ để cho giáo sinh thực hành sư phạm;
- Có phòng nghiệp vụ được trang bị các phương tiện nghe nhìn, bàn, ghế, bảng
để tổ chức các hoạt động thực hành sư phạm; tổ chức các hoạt động ngoại khoá, rút
kinh nghiệm về thực hành sư phạm và trưng bày các mẫu sản phẩm dạy và học;
7


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

- Có thư viện, đủ sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, sách tham khảo...
cho giáo viên;
- Có phòng thí nghiệm, thực hành được trang bị đầy đủ thiết bị, phục vụ cho thí
nghiệm, thực hành các môn học trong trường thực hành sư phạm;
- Có sân chơi, bãi tập đủ rộng để tổ chức các hoạt động vui chơi, ngoại khoá, thể
dục thể thao.(4).
Trong thực tế các trường thực hành sư phạm hiện đang tập trung rèn luyện

nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên qua thực tập sư phạm. Các trường thực hành đã
chuẩn bị các điều kiện tốt nhất để hỗ trợ sinh viên ăn, ở, sinh hoạt trong thời gian
thực tập tại trường; tổ chức các buổi báo cáo về tình hình hoạt động của trường nói
chung và tình hình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; tổ chức các buổi dạy mẫu cho
sinh viên dự; yêu cầu sinh viên soạn giáo án, tập giảng, giảng dạy thực tế trên lớp;
kiểm tra, đánh giá giáo án, các buổi tập giảng, thực hành giảng dạy của sinh viên; tổ
chức cho sinh viên tìm hiểu và tham gia các hoạt động giáo dục khác, tham gia công
tác giáo viên chủ nhiệm lớp, các hoạt động đoàn thể của trường hoặc của địa
phương và tổ chức đánh giá toàn diện nội dung thực tập của sinh viên tại trường.
Riêng các giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm đã giúp sinh viên tìm hiểu về
tình hình lớp, công tác quản lý lớp; thực tế giảng dạy bộ môn ở lớp, về việc soạn
giáo án, tập giảng, dự giờ sinh viên giảng dạy, sửa chữa các sai sót của sinh viên và
trực tiếp đánh giá kết quả thực tập của sinh viên và tận tâm hướng dẫn sinh viên về
thực tế thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh của mình (3). Vì vậy, việc
tổ chức thực tập sư phạm đã mang lại nhiều lợi ích cho các trường sư phạm lẫn các
trường thực hành sư phạm :
- Các trường sư phạm có cơ hội mở rộng thêm thực tế ở các địa phương để bổ
sung vào quá trình đào tạo về lý thuyết nghiệp vụ sư phạm, so sánh kết quả việc
thực hiện các nội dung đã giảng dạy ở các địa phương khác nhau so với yêu cầu đã
đề ra.
- Các trường thực hành sư phạm tự chấn chỉnh lại các hoạt động giảng dạy, sinh
hoạt của mình theo đúng quy định; có thêm lực lượng sinh viên hỗ trợ các hoạt
động phong trào của trường; có điều kiện tiếp cận nhanh và vận dụng các nghiên
8


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.


cứu sư phạm của các trường Sư phạm vào hoạt động giảng dạy; và cung cấp các
thông tin hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.(1)
Tuy nhiên, vai trò thực tế của các trường thực hành sư phạm hiện nay trong việc
thực hiện chương trình các môn nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
thường xuyên và thực tập sư phạm cho sinh viên vẫn còn nhiều vấn đề cần trao đổi
và phân tích.
Quy trình thực hiện, tổ chức chương trình các môn nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên phụ thuộc vào các trường sư phạm mà đặc biệt là
khoa sư phạm hoặc khoa tâm lý- giáo dục hoặc các tổ phương pháp giảng dạy của
các khoa sư phạm. Các trường sư phạm thường không nắm bắt kịp sự chuyển biến,
phát triển về nhiều phương diện ở các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông.
Hoạt động đổi mới giáo dục mầm non đã bắt đầu từ năm 1999 đến nay; giáo dục
tiểu học, trung học cơ sở cũng đang chuyển mình cùng với các Dự án Giáo dục tiểu
học, Trung học cơ sở nhưng ở các trường sư phạm dường như các nghiên cứu khoa
học về lý luận và thực tiễn ở nhà trường phổ thông chưa được quan tâm. Mặc dù
những nghiên cứu này trước hết là phục vụ trực tiếp cho công tác đào tạo giáo viên,
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên và sau đó có tác dụng tích cực đến quá
trình đổi mới của giáo dục phổ thông. Vì vậy, thực tế cho thấy quá trình đổi mới
giáo dục phổ thông đang trở thành áp lực cho việc đổi mới đào tạo giáo viên ở các
trường sư phạm (1).
Công tác kiến tập bộ môn do các giảng viên sư phạm lên kế hoạch theo quy định
của phòng đào tạo là 1-2 buổi đối với học phần 3 đvht hoặc 4 đvht và 2 tiết thực
hành tính bằng 1 tiết lý thuyết. Công tác kiến tập ở các trường thực hành đòi hỏi
giảng viên phải chuẩn bị nhiều công việc như liên hệ với trường thực hành về thời
gian, nội dung kiến tập; chuẩn bị nội dung kiến tập cho sinh viên; tổ chức phân tích,
bình giảng cho sinh viên; duyệt kinh phí kiến tập… Công tác kiến tập bộ môn đòi
hỏi nhiều thời gian, công sức vả lại chỉ được tính bằng một nửa tiết lý thuyết nên
các giảng viên sư phạm chọn cách giảng lý thuyết suông, trả lời các câu hỏi của sinh
viên là phương pháp rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Lý do khác là một số trường
thực hành sư phạm có thái độ e ngại nhận các đoàn giáo sinh đến kiến tập, thực tập

9


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

sư phạm thường xuyên vì sợ ảnh hưởng đến nề nếp, đến hoạt động chuyên môn và
đến kết quả học tập của học sinh.
Ngoài ra, theo Quy chế về trường thực hành thì trình độ đào tạo của giáo viên
hướng dẫn thực tập phải đạt chuẩn trở lên, theo quy định đối với từng cấp học
nhưng trên thực tế vẫn tồn tại những trường hợp giáo viên phổ thông có trình độ
trung cấp hoặc cao đẳng hướng dẫn thực tập sinh viên đại học đặc biết đối với
những ngành học còn mới mẽ như giáo dục mầm non, giáo dục đặc biệt.
Để kết thúc bài viết này, tôi chia sẻ với các quý vị đại biểu về mô hình “đào tạo
giáo viên kiểu mới” mà Đại học An Giang đang thử nghiệm. Chẳng hạn, việc kiến
tập tại các trường phổ thông không hiệu quả và tiết kiệm bằng việc tổ chức các tiết
dạy mẫu tại trường. Đại học An Giang mời các giáo viên phổ thông giỏi, cùng thiết
kế, xây dựng, thực hiện những giờ lên lớp phổ thông ngay tại giảng đường ĐH.
Việc đánh giá kết quả thực tập phải do Trường Sư phạm đảm nhận nhằm tránh tình
trạng kết quả đánh giá thực tập của sinh viên luôn rất cao nhưng khi sinh viên tốt
nghiệp, đưa về trường, lại không dám nhận. Trường Sư phạm không khoán trắng
mọi việc về chuyên môn cho giáo viên phổ thông, không gửi sinh viên thực tập một
cách đại trà và chia đều như trước đây. Phải khảo sát lại thực lực các trường phổ
thông, và gửi sinh vịên theo đúng điểm mạnh và nhu cầu thực tế. Và trường sư
phạm cử giảng viên xuống trực tiếp dự giờ thực tập cùng giáo viên phổ thông đánh
giá kết quả thực tập.
Tài liệu tham khảo
1.PGS.TS.Võ Xuân Đàn. Gắn với thực tiễn phổ thông-phương pháp đào tạo
nghiệp vụ sư phạm có giá trị bền vững.

2. GS.TSKH Nguyễn Vǎn Hộ (ĐHSP ĐH Thái Nguyên): "Hình thành khả nǎng
thích ứng về tay nghề cho SVSP trong quá trình đào tạo".
3.Ths.Lê Văn Ngoan. Về công tác phối hợp với trường tổ chức thực tập sư phạm
cho sinh viên trường đại học sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.
4. Quyết định số 31/1998/QĐ-BGD&ĐT ngày 20 tháng 5 năm 1998 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Trường thực hành sư phạm.

10


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

TRƯỜNG TRUNG HỌC THỰC HÀNH VỚI CÔNG TÁC
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM
TS. Nguyễn Thò Ảnh
Hiệu trưởng Trường THTH - Trường ĐHSP TPHCM

Dạy học vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Nó khơng chỉ đòi hỏi người hành
nghề đáp ứng u cầu về tri thức và đặc biệt còn đòi hỏi người thầy một năng lực sư phạm.
“Trăm hay khơng bằng tay quen” câu tục ngữ ấy chỉ ra rằng, trong quy trình đào tạo sinh
viên sư phạm, những người sẽ làm thầy, ngồi việc trang bị hay làm cho họ có năng lực tự
trang bị những tri thức khoa học về chun ngành, về phương pháp giảng dạy, cần đặc biệt
coi trọng việc giúp cho sinh viên hình thành và phát triển năng lực sư phạm để cho họ được
rèn về kỷ thuật và cả thủ thuật quản lý, tổ chức hoạt động giáo dục.
Trách nhiệm nặng nề nhưng cao cả ấy thuộc về quy trình đào tạo về nghiệp vụ sư phạm
của Trường Đại học Sư phạm mà Trường Trung học Thực hành có nghĩa vụ ủng hộ và góp
phần. Trường THTH nằm trong bộ máy đào tạo của Trường ĐHSP. Một trong những nhiệm
vụ quan trọng của THTH, như tên gọi của nó đã cho thấy và cũng là một trong những mục

tiêu thành lập trường, là hoạt động thực hành, tức góp phần vào quy trình đào tạo nghiệp vụ
cho sinh viên ĐHSP.
Trong khn khổ bài viết ngắn này, qua thực tế thi hành nghĩa vụ về cơng tác thực hành,
chúng tơi xin trình bày những vấn đề sau đây:
1. Chức năng, nhiệm vụ của Trường THTH đối với sứ mệnh đào tạo người thầy của
Trường THTH.
2.

Thực trạng trong q trình thực thi.

3.

Kiến nghị.

I. Vấn đề thứ nhất: Chức năng, nhiệm vụ của Trường THTH đối với sứ mệnh đào
tạo người thầy của Trường THTH.
Trường Trung học Thực hành được thành lập theo Quyết định số 115/QĐ/ĐHQG/TCCB
do Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 13/05/1999.

11


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Trường nằm trong hệ thống Trường Đại học Sư phạm, mà từ tháng 6 năm 2002 được Bộ
GD&ĐT cho phép xây dựng thành Trường Đại học Sư phạm trọng điểm. Một trong các quy
trình đào tạo của Trường Đại học Sư phạm trọng điểm là “Xây dựng cơ chế gắn với hoạt
động đào tạo, nghiên cứu giảng dạy của Trường Đại học Sư phạm với hoạt động Trường

Thực hành” (Đề án xây dựng Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh thành
Trường Đại học Sư phạm trọng điểm). Cơ chế làm việc này vừa góp phần giúp cho sinh
viên có khả năng gắn lý luân với thực tiễn, vừa giúp sinh viên hoàn thành các đề tài nghiên
cứu có liên quan đến giáo dục phổ thông - nghề nghiệp của họ sau này. Bên cạnh đó, nó còn
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục, nghiên cứu về chương trình và nội dung
các bộ môn ở Trường Đại học, là dịp chứng tỏ vai trò “cái máy” của Trường Đại học Sư
phạm.
Phương châm của Trường Trung học Thực hành là:
a.

Trường kiểu mẫu: Đạt chuẩn quốc gia về trình độ giáo viên, cơ sở vật chất, trang

thiết bị để các Trường phổ thông khác lấy đó làm chuẩn phấn đấu.
b. Trường chất lượng cao: Bảo đảm mục tiêu giáo dục toàn diện với chất lượng cao.
c.

Cơ sở thực nghiệm thực hành: Ứng dụng các thành tựu khoa học giáo dục, tiến tới

xây dựng và thể nghiệm về chương trình và sách giáo khoa.
Căn cứ trên vai trò của mình đối với sự phát triển của Trường Đại học Sư phạm trọng
điểm, Trường Trung học Thực hành xác định 3 hoạt động cơ bản là hoạt động giáo dục, hoạt
động thực hành sư phạm và hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục.
1. Về hoạt động giáo dục:
Trường Trung học Thực hành là Trường Trung học Phổ thông thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân loại hình công lập (trong công lập có bán công). Trường chịu sự quản lý về chuyên
môn của Sở GD&ĐT, thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh các lớp 10, 11, 12 với nội dung
chương trình của Bộ GD&ĐT ban hành. Mục tiêu công tác của Trường là đảm bảo tính giáo
dục toàn diện. Cho nên, về nội dung và phân phối chương trình phải đảm bảo như các
trường Trung học Phổ thông khác. Từ năm học 2005 – 2006, Trường có mở thêm 03 lớp
chuyên (Toán, Văn, Tiếng Pháp). Mục tiêu của các lớp này là phải giáo dục học sinh vừa

đảm bảo tính toàn diện vừa đảm bảo tính chuyên sâu để từ đó có thể góp phần tạo nguồn
tuyển sinh cho Trường Đại học Sư phạm nói riêng, các Trường Đại học phía Nam nói
12


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

chung. Hơn nữa còn có thể cung cấp cho xã hội những con người có khả năng thích ứng cao,
đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của cuộc sống.
2. Về hoạt động thực hành sư phạm:
Trường Trung học Thực hành là địa chỉ thuận tiện và đáng tin cậy cho sinh viên Trường
Đại học Sư phạm thực tập sư phạm, là nơi tổ chức các giờ giảng mẫu cho sinh viên, do
những giáo viên giàu kinh nghiệm, vững tay nghề đứng lớp, giúp họ hoàn thành bước đầu
những kỷ năng giáo dục và các bước lên lớp.
3. Về hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục:
Là nơi thử nghiệm và ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học của các khoa trong
Trường Đại học Sư phạm và các nghành giáo dục trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo
kế hoạch của Trường Đại học Sư phạm.
II. Vấn đề thứ hai: Thực trạng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
Ba nhiệm vụ đã trình bày ở trên liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ thứ hai phản ánh
mục tiêu thành lập Trường Trung học Thực hành còn nhiệm vụ thứ nhất và thứ ba được hiểu
như là điều kiện, phương tiện để thực hiện được mục tiêu trên.
Trong quá trình thực hiện, Trường Trung học Thực hành xác định nhiệm vụ nào cũng
quan trọng và phải được tiến hành đồng thời. Tuy nhiên, do vị trí và đặc điểm của mình cho
phép Trường Trung học Thực hành có thể thực hiện 3 nhiệm vụ nói trên một cách chủ động
hoặc không chủ động.
Năm học 2006 – 2007 Trường Trung học Thực hành bước sang tuổi thứ tám, đối với lịch
sử phát triển của một ngôi trường, nhất là ngôi trường rất mới về cơ chế tổ chức và hoạt

động, 7 năm là một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng có lẽ cũng đủ để nhìn lại hoạt động
phục vụ công tác nghiệp vụ sư phạm, để định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Để đảm nhiệm tốt chức năng thực hành sư phạm, Trường Trung học Thực hành đã thỏa
mãn những điều kiện cụ thể sau đây:
1. Hoạt động giáo dục học sinh bậc Trung học Phổ thông đạt chất lượng cao về học lực
cũng như về hạnh kiểm.
2. Luôn tạo điều kiện tốt nhất để tổ chức những hành động thực hành sư phạm cho sinh
viên Trường Đại học Sư phạm khi được yêu cầu.
13


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Về nhiệm vụ cụ thể thứ nhất, Trường Trung học Thực hành đã thực hiện đạt hiệu quả
đáng tin cậy.
Đây là những số liệu cụ thể:


Về Kế quả học tập của học sinh trong 07 năm qua ( 1999 – 2006):
Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém


4.258

797

2.156

1.139

148

18

Tỉ lệ %

18,72%

50,63%

26,75%

3,48%

0,42%

Tổng số học
sinh




Về hạnh kiểm của học sinh trong 07 năm qua ( 1999 – 2006 ):
Tốt

Khá

TB

Yếu

Kém

4.258

2.848

1.070

269

70

1

Tỉ lệ %

66,89%

25,13%

6,32%


1,64%

0,02%

Tổng số học
sinh

Chỉ là phía đối tác, để thực hiện tốt nhiệm vụ thứ 2, Trường Trung học Thực hành rất cần
sự chủ động về kế hoạch, nội dung cũng như cách thức tiến hành cơng tác nghiệp vụ sư
phạm từ phòng Đào tạo, từ các Khoa. Thế nhưng qua 7 năm hoạt động, đến nay Trường
Trung học Thực hành vẫn chỉ là một trong nhiều địa chỉ để Trường Đại học Sư phạm gửi
sinh viên đến thực, kiến tập. Trường Đại học Sư phạm và các Khoa trong cơng tác này chưa
khai thác và tận dụng hết tiềm năng của Trường Trung học Thực hành.
Điều này cũng đồng thời Trường Đại học Sư phạm và các Khoa chưa tạo điều kiện giúp
Trường Trung học Thực hành thực hiện nhiệm vụ của mình.
III. Kiến nghị: Trường Đại học Sư phạm nên có kế hoạch cụ thể đối với từng khoa, nhất
là với từng bộ mơn phương pháp giảng dạy để có thể tận dụng ưu thế “ sân nhà ” trong việc
tổ chức thực, kiến tập cho sinh viên cho hiệu quả hơn.
Chẳng hạn, thay vì đưa sinh viên xuống Trường Trung học Thực hành kiến tập, thực tập
sư phạm 01 lần/năm giống như bất kỳ Trường Trung học Phổ thơng nào khác, nên có kế
hoạch để sinh viên được đến trường này thường xun (nhất là với sinh viên kiến tập), xen
kẽ với lịch học tập hàng tháng. Giảng viên tổ bộ mơn phương pháp giảng dạy đi kèm dự giờ
và rút ra kinh nghiệm từng tiết dự giờ cho sinh viên .v.v.
14


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TRƯỜNG
THSP TRONG HOẠT ĐỘNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ Ở
TRƯỜNG CĐSP
Nguyễn Thế Bình – Nguyễn Thò Minh Hà
Trường CĐ Sư phạm Ninh BÌnh

Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (NVSP) là một hoạt động cơ bản trong q trình
đào tạo, một bộ phận cấu thành của nội dung và phương pháp đào tạo ở các trường
sư phạm. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành phẩm chất và
năng lực nghề nghiệp cho sinh viên, đặc biệt đối với sinh viên các trường sư phạm
đào tạo giáo viên Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở. Đây là một q trình trải
dài suốt khóa đào tạo, bao gồm nhiều nội dung như rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
thường xun, kiến tập sư phạm, thực tập sư phạm, cùng với sự tham gia và hỗ trợ
đắc lực, khơng thể thiếu của các trường thực hành sư phạm. Ngày 20/5/1998, Bộ
trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành Quy chế trường thực hành sư phạm cho
các trường sư phạm đào tạo giáo viên Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở. Từ đó
đến nay các trường cao đẳng sư phạm đã có chỗ dựa về mặt pháp lý, sự thống nhất
chung trong việc tổ chức triển khai hoạt động thực hành sư phạm cũng như việc
củng cố, xây dựng các trường thực hành sư phạm.
Sự nghiệp đổi mới giáo dục phổ thơng hiện nay đang đặt ra những u cầu cao
đối với cơng tác rèn luyện NVSP cho sinh viên. Để đáp ứng u cầu cao đó, ngồi
sự cố gắng cải tiến, đổi mới nội dung, phương pháp rèn NVSP của các trường sư
phạm, còn phải kể đến vai trò khơng thể thiếu và sự cố gắng cao độ của các trường
thực hành sư phạm trong việc góp phần thực hiện mục tiêu, chương trình các mơn
nghiệp vụ sư phạm, trong việc rèn luyện NVSP thường xun và thực tập sư phạm
cho sinh viên. Tuy nhiên, qua thực tế chỉ đạo nhiều năm cơng tác rèn luyện NVSP,
trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp ở các trường sư phạm, giáo viên và cán bộ quản
lý các trường thực hành, thăm dò ý kiến giảng viên và sinh viên, chúng tơi nhận
thấy vai trò của các trường thực hành trong cơng tác rèn luyện NVSP hiện nay chưa

thực sự ngang tầm với vị trí, nhiệm vụ của nó trong cơng tác đào tạo giáo viên tại
các trường cao đẳng sư phạm. Ngun nhân của thực trạng trên chủ yếu thuộc về
15


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

nhận thức và cách thức tổ chức các hoạt động phối hợp giữa trường sư phạm với
các cấp quản lý giáo dục địa phương, giữa trường sư phạm với trường thực hành.
Để góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động rèn nghề cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng
cao vai trò của trường thực hành sư phạm trong hoạt động rèn luyện NVSP như sau:
1. Tăng cường các hoạt động giáo dục giúp cho cán bộ, giảng viên, giáo viên
các trường thực hành sư phạm và sinh viên nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí,
vai trò của trường thực hành sư phạm với việc rèn luyện NVSP.
Trước hết, các trường sư phạm phải coi trọng và đặt công tác rèn luyện NVSP lên
ngang hàng với công tác giảng dạy chuyên môn để giảng viên và sinh viên thấy hết
được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn luyện NVSP đối với việc dạy và học
nghề dạy học, từ đó có thái độ đúng đắn với việc rèn luyện NVSP và dạy, học rèn
luyện NVSP có hiệu quả. Các trường sư phạm cần tổ chức triển khai sâu rộng quy
chế trường thực hành sư phạm cho toàn thể giảng viên, sinh viên và giáo viên
trường thực hành sư phạm bằng những hình thức khác nhau như tổ chức học tập,
phổ biến, quán triệt trong trường sư phạm; giao lưu, tọa đàm, trao đổi,... giữa trường
sư phạm và trường thực hành sư phạm. Những hoạt động này sẽ có tác dụng giúp
cho mọi thành viên tham gia rèn luyện NVSP nắm được các vấn đề cơ bản về
trường thực hành được quy định trong quy chế để qua đó có nhận thức đúng và đầy
đủ về vị trí, vai trò của trường thực hành sư phạm với việc rèn nghề cho sinh viên.
Ngoài ra các trường sư phạm cần phải có quy định cụ thể thời gian, nội dung phải đi

thực tế ở trường thực hành sư phạm cho giảng viên, đặc biệt là với giảng viên trẻ.
2. Thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố các trường thực hành sư
phạm:
Trường sư phạm nên thường xuyên rà soát lại các trường thực hành sư phạm đã
có về mọi mặt, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất để trường có thể
đáp ứng tốt nhiệm vụ thực hành sư phạm. Cần phải nắm chắc đội ngũ giáo viên của
trường thực hành sư phạm về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất của người
giáo viên, về năng lực hướng dẫn thực hành sư phạm để trên cơ sở đó đề xuất kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên hiện có, đồng thời chú ý bổ sung giáo
viên theo các tiêu chuẩn giáo viên hướng dẫn thực hành theo quy chế trường thực
16


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

hành sư phạm để ngày càng nâng cao chất lượng đội ngũ. Quan tâm tạo điều kiện để
các trường thực hành sư phạm có đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, thư viện cho dạy,
học và thực thi nhiệm vụ thực hành cùng với việc đưa hoạt động của các trường
thực hành sư phạm đi vào nề nếp theo quy chế. Đối với các trường phổ thông, mầm
non không đủ điều kiện và cũng không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thực hành sư
phạm thì mạnh dạn đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định thôi làm chức
năng hướng dẫn thực hành sư phạm của các trường phổ thông, mầm non đó.
Theo quy chế trường thực hành sư phạm, mỗi trường sư phạm đào tạo giáo viên
Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở phải có trường thực hành trực thuộc đặt trong
trường sư phạm hoặc ngoài trường sư phạm. Mỗi hình thức trường thực hành như
vậy đều có những điểm mạnh và những hạn chế nhất định đối với việc tổ chức triển
khai các hoạt động rèn luyện NVSP. Hình thức trường thực hành trực thuộc và đặt
trong trường sư phạm thuận lợi cho cả giảng viên và sinh viên trong việc đi lại, chủ

động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, bố trí giờ dạy, giờ thực hành cho sinh
viên và các hoạt động giáo dục nghiệp vụ khác. Song, vấn đề quản lý chuyên môn
của các Phòng Giáo dục - Đào tạo với trường thực hành, biên chế đội ngũ giáo viên,
cơ sở vật chất, tài chính,...là những vấn đề cần phải tính toán đối với các trường sư
phạm chủ quản, nhất là với các trường sư phạm địa phương. Hình thức trường thực
hành ngoài trường sư phạm có ưu điểm là lựa chọn được những trường mạnh cả về
đội ngũ và cơ sở vật chất từ các trường phổ thông và mầm non bên ngoài, đáp ứng
được các yêu cầu của trường thực hành sư phạm và không bị ràng buộc bởi các
khâu tài chính, biên chế tổ chức đội ngũ,...Tuy nhiên, loại hình này lại không thuận
lợi về đi lại, bị động trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch rèn luyện
NVSP,...Vì vậy các trường sư phạm phải tuỳ thuộc điều kiện của mình, của sự phát
triển giáo dục phổ thông, mầm non ở địa phương để khi tiếp tục phát triển hệ thống
các trường thực hành sư phạm có thể quyết định lựa chọn cho mình phương án
thành lập hay phát triển các trường thực hành sư phạm một cách hợp lý nhất.
Việc xây dựng và củng cố các trường thực hành sư phạm, theo chúng tôi không
nên chỉ bó gọn trong một vài trường phổ thông và mầm non đã được công nhận là
trường thực hành sư phạm theo hai hình thức đã nêu ở trên, mà tuỳ thuộc địa
phương nơi trường đóng, có thể lựa chọn các trường thực hành sư phạm "vệ tinh"
17


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

có đặc trưng vùng, miền khác nhau để tạo thành mạng lưới các trường thực hành sư
phạm nhằm đáp ứng tính đa dạng của thực tế giáo dục phổ thông, mầm non ở địa
phương cho sinh viên. Việc lựa chọn này đương nhiên phải đáp ứng được các điều
kiện của trường thực hành sư phạm.
3. Xây dựng hợp lý các mối quan hệ giữa trường sư phạm với các cấp quản

lý giáo dục ở địa phương và với trường thực hành sư phạm.
3.1. Mối quan hệ giữa trường sư phạm với Sở Giáo dục - Đào tạo và các phòng
Giáo dục - Đào tạo:
Các trường Phổ thông và Mầm non thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, vì vậy
chịu sự quản lý và chỉ đạo của Phòng Giáo dục - Đào tạo các huyện (thị xã) và Sở
Giáo dục - Đào tạo địa phương. Phòng Giáo dục - Đào tạo các huyện (thị xã) là cơ
quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân huyện (thị xã) quản lý nhà nước đối với các
trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở trên địa bàn, đồng thời chịu sự kiểm
tra, giám sát về chuyên môn của Sở Giáo dục - đào tạo địa phương. Chính vì thế mà
việc quản lý, chỉ đạo việc củng cố, xây dựng các trường thực hành sư phạm, cũng
như các hoạt động thực hành sư phạm diễn ra tại các trường này phải đảm bảo được
mối quan hệ chặt chẽ với các Phòng Giáo dục - Đào tạo có trường phổ thông, mầm
non được chọn làm trường thực hành và với Sở Giáo dục - Đào tạo địa phương.
Trong mối quan hệ này cần phải tuân thủ các quy định đã được ghi trong Quy chế
trường thực hành sư phạm và tranh thủ được sự hỗ trợ của Phòng Giáo dục - Đào
tạo các huyện (thị xã), của Sở Giáo dục - Đào tạo đối với hoạt động đào tạo giáo
viên của trường sư phạm.
3.2. Mối quan hệ giữa trường sư phạm với các trường thực hành sư phạm:
Đây là mối quan hệ phối hợp hoạt động đào tạo, trong đó trường sư phạm là cơ
sở đào tạo chính, trường thực hành sư phạm là cơ sở tham gia và tạo điều kiện cho
hoạt động rèn nghề của sinh viên theo yêu cầu cụ thể của trường sư phạm. Vì vậy, ở
mối quan hệ này phải tôn trọng tính "độc lập" của trường thực hành trong chuyên
môn của họ và không được làm ảnh hưởng tới chất lượng dạy - học và giáo dục của
trường thực hành sư phạm.

18


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm


Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Ở mối quan hệ này, tất cả các hoạt động thực hành sư phạm trong trường thực
hành phải được thực hiện theo kế hoạch hàng năm do hai trường cùng thống nhất
xây dựng và thoả thuận. Vì vậy, kế hoạch rèn luyện NVSP của trường sư phạm
càng cụ thể, chi tiết đến từng nội dung, từng môn học là điều rất cần thiết. Kết thúc
mỗi học kỳ cần có sự gặp gỡ giữa hai trường để đánh giá rút kinh nghiệm việc thực
hiện kế hoạch rèn NVSP ở trường thực hành sư phạm, nếu cần có thể điều chỉnh kế
hoạch cho phù hợp.
Các khoa, các bộ môn, tổ bộ môn và giảng viên của trường sư phạm cần có sự
phối hợp, giao lưu, trao đổi chặt chẽ với trường, các tổ chuyên môn và giáo viên của
trường thực hành sư phạm để hướng dẫn, giúp đỡ cho trường và cho giáo viên của
trường thực hành về kỹ năng hướng dẫn thực hành sư phạm và các kiến thức, các
hoạt động chuyên môn khác. Làm được điều này là tạo được sự thống nhất, gắn bó,
giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau giữa hai trường và chắc chắn sẽ có kết quả tốt đến hoạt
động rèn luyện NVSP cho sinh viên.
Trường sư phạm cần đảm bảo đầy đủ và kịp thời các chế độ chính sách theo quy
định cho lãnh đạo, giáo viên của trường thực hành. Cần tham mưu cho tỉnh, các
phòng giáo dục huyện (thị xã) ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp các trường thực
hành sư phạm trên địa bàn về đội ngũ và về cơ sở vật chất. Các trường sư phạm nên
thường xuyên đầu tư xây dựng và cung cấp, hỗ trợ những phương tiện kỹ thuật thiết
yếu nhất phục vụ cho hoạt động học tập của học sinh và thực hành sư phạm của sinh
viên tại trường thực hành, tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên kết hợp hài hoà giữa
học lý thuyết và thực hành.
Xây dựng mối quan hệ giữa trường sư phạm và trường thực hành sư phạm phải
trên cơ sở hiểu lẫn nhau, giúp đỡ và hỗ trợ cho nhau trong công việc chung cũng
như các hoạt động chuyên môn riêng của mỗi trường. Mối quan hệ này chỉ được
xây dựng vững chắc khi tất cả lãnh đạo, giảng viên, giáo viên của hai trường thực
sự nhận thức được vai trò của trường thực hành sư phạm trong sự nghiệp đào tạo
giáo viên và có ý thức xây dựng, vun đắp thường xuyên trong các hoạt động thực

thi nhiệm vụ của mình cùng với sự tự giác, ý thức xây dựng của sinh viên.

19


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

TRƯỜNG THỰC HÀNH SƯ PHẠM TRONG VIỆC ĐÀO
TẠO NVSP CHO SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CĐSP ĐÀ LẠTHIỆN TRẠNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP
ThS. GVC. Nguyễn Đình Chắt
Phòng ĐT-BD-NCKH, Trường CĐSP Đà Lạt

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo NVSP cho sinh viên sư phạm là đào tạo nghề dạy học. Muốn hình
thành kĩ năng nghề dạy học cho sinh viên phải có đối tượng thực, có mơi trường
thực để thực hành và phải có nơi tổ chức học đi đơi với thực hành nghề dạy học một
cách thuận tiện. Nơi thích hợp nhất là trường thực hành sư phạm của trường sư
phạm.
Trường sư phạm khơng chỉ là nơi đào tạo giáo viên mà còn là trung tâm
NCKHGD của địa phương đó. Những nghiên cứu về cải tiến PPDH, những sáng
kiến vể đổi mới PPGD trẻ em phải có nơi để thực nghiệm giáo dục. Nơi thích hợp là
trường thực hành sư phạm của trường sư phạm.
Trường sư phạm cần phải biết những thầy cơ giáo ở các trường học mầm non và
phổ thơng đang cần gì để giúp họ tự tin đổi mới PPDH & GD. Muốn vậy cần xác
lập được cơ chế hợp tác giữa Sư phạm và Phổ thơng. Nơi có thể là cầu nối đầu tiên
để làm việc đó là trường thực hành của trường sư phạm.
Chính vì vậy, ngày 20 tháng 5 năm 1998, Bộ GD & ĐT ban hành quy chế trường
thực hành cho các trường sư phạm đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và THCS là

để giải quyết những vấn đề nêu ra ở trên.
II. TRƯỜNG THSP CỦA TRƯỜNG CĐSP ĐÀ LẠT
Trường CĐSP Đà Lạt thành lập ngày 6-10-1976 và bản thân nó đã có 01 trường
cấp 1 và 01 trường cấp 2 nằm trong trường và trở thành trường thực hành sư phạm
của trường (có trước quy chế về trường thực hành sư phạm của Bộ GD & ĐT).
Những năm này, việc tổ chức thực hành sư phạm thường xun cho sinh viên rất
thuận lợi và hiệu quả.
20


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

Từ năm học 1989 -1990, trường THSP mầm non Lâm Đồng, trường THSP Lâm
Đồng đào tạo giáo viên tiểu học sát nhập vào trường CĐSP Đà Lạt. Trường CĐSP
Đà Lạt trở thành trường CĐSP đào tạo GV từ mầm non đến THCS.
Nhưng cũng từ năm này, trường thực hành cấp 1 và cấp 2 của trường đã đựơc
tách ra trở thành trường phổ thông trực thuộc phòng GD Đà Lạt không còn là
trường thực hành của trường SP. Đây là một quyết định sai lầm của cấp quản lý.
Ngày 17/9/1998 giám đốc sở GD & ĐT Lâm Đồng ký quyết định trường THCS
Quang Trung, trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm và trường mầm non Anh Đào (đều
nằm trên địa bàn TP Đà Lạt ) là trường thực hành của trường CĐSP Đà Lạt.
III. CÁI ĐƯỢC VÀ CÁI CHƯA ĐƯỢC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA
TRƯỜNG SP & TRƯỜNG THSP
1. Các trường thực hành sư phạm đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc rèn
luyện NVSP cho sinh viên. Cụ thể:
- Đó là nơi sinh viên có thể đến trường để quan sát các hoạt động học tập, vui
chơi của học sinh, quan sát các biểu hiện tâm lý của học sinh để hoàn thành các bài
tập tâm lý học lứa tuổi.

- Là nơi sinh viên có thể tổ chức các thực nghiệm giáo dục nghiên cứu tâm lý học
sinh, thử nghiệm những sáng kiến đổi mới phương pháp giáo dục và dạy học .
- Là nơi sinh viên làm quen và thử nghiệm những phương pháp, thủ thuật giao
tiếp với trẻ em, thể nghiệm những cảm xúc là giáo viên khi tiếp xúc với học sinh và
cha mẹ học sinh.
- Là nơi sinh viên quan sát toàn bộ hoạt động của một nhà trường, hoạt động của
học sinh, hoạt động của giáo viên, hoạt động của các bộ phận khác trong một nhà
trường.
- Là nơi có đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn, có kinh nghiệm nghề
nghiệp vững vàng để sinh viên dự giờ mẫu, hướng dẫn sinh viên soạn giáo án, tập
giảng bài, thực tập chủ nhiệm v.v…
Tóm lại, trường thực hành sư phạm là một bộ phận quan trọng của trường sư
phạm có vai trò khép kín quá trình đào tạo nghề dạy học cho sinh viên, giúp sinh
viên có tâm thế nghề nghiệp vững vàng.
21


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

2. Từ thực tiễn về trường thực hành sư phạm của trường CĐSP Đà Lạt, chúng tôi
nhận thấy trường thực hành sư phạm nằm trong biên chế của trường sư phạm có
những ưu thế mà trường thực hành khác không có:
- Trường thực hành đặt dưới sự điều hành của BGH thống nhất, do đó BGH và
giáo viên của trường thực hành nhận thức rõ trách nhiệm hướng dẫn sinh viên
THSP là nhiệm vụ của mình, không có “tâm lý” làm hộ hay làm thêm.
- Sinh viên có thể lên giảng đường học một buổi, một buổi có thể tiếp xúc với
học sinh, với lớp, với giáo viên PT để thực hiện các bài tập nghiên cứu tâm lý học
sinh, thực hành các bài tập quan sát hoạt động vui chơi, học tập của học sinh và toàn

bộ hoạt động giáo dục và dạy học của một nhà trường phổ thông.
- Sinh viên có điều kiện thuận tiện để tiến hành các thực nghiệm giáo dục trên
đối tượng là học sinh PT. Các giảng viên dạy phương pháp dạy học bộ môn của
trường sư phạm có đối tượng, có thời gian và không gian để thể nghiệm những
nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học của mình mà không mất thời gian xin
giấy tờ đi liên hệ ở các trường PT để thực nghiệm khoa học.
- Việc xây dựng kế hoạch năm học của trường thực hành sư phạm theo sự chỉ đạo
của phòng GD và Sở GD. Nhưng vì là trường thực hành của trường sư phạm nên
việc xây dựng kế hoạch năm học của trường thực hành luôn chủ động, thống nhất
kế hoạch đào tạo NVSP với trường sư phạm và chỉ đạo hoạt động chuyên môn của
trường thực hành phù hợp với yêu cầu rèn luyện NVSP cho sinh viên. Vì vậy giúp
sinh viên và giảng viên sư phạm rút ngắn đựơc thời gian từ giảng đường, từ tiếp thu
lý luận giáo dục và dạy học đến học sinh, lớp học ở phổ thông. Như vậy “học và
hành” nghề dạy học có cơ hội thực hiện.
- Kinh phí hoạt động của trường thực hành đã đựơc cấp trong ngân sách của
trường nên việc chi trả cho hoạt động hướng dẫn sinh viên thực hành sư phạm là
thuận lợi. Cơ sở vật chất phục vụ dạy học được sử dụng chung, tiết kiệm và khai
thác hiệu quả.
3. Trường thực hành không nằm trong biên chế của trường CĐSP Đà Lạt cũng có
thể thực hiện được những nhiệm vụ trên nhưng gặp khó khăn hơn:

22


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

- Giảng viên sư phạm và sinh viên không thể tiếp xúc với giáo viên và học sinh ở
trường thực hành một cách thường xuyên và tự nhiên, không thể đến trường bất kỳ

lúc nào để quan sát học sinh, tiến hành thực nghiệm giáo dục vì trường thực hành
không thuộc trường CĐSP nên muốn đến trường phải được sự đồng ý của cấp quản
lý giáo dục thông qua thủ tục hành chính rườm rà, mất nhiều cửa, nhiều thời gian.
- Các giáo viên của trường thực hành có tâm lý chung là giúp đỡ trường sư phạm
chứ không phải là nhiệm vụ của mình nên không tránh khỏi sự thiếu nhiệt tình khi
được phân công hướng dẫn sinh viên thực hành sư phạm.
- Sự không tương thích giữa phương pháp dạy học và giáo dục mà sinh viên đựơc
học ở trường sư phạm và ở trường phổ thông sẽ khó phát hiện, do đó trường sư
phạm chậm đổi mới phương pháp đào tạo.
- Sự chỉ đạo việc đánh giá, nhận xét sinh viên thực hành, thực tập sư phạm giữa
trường CĐSP và trường thực hành là khó thống nhất dẫn đến những kết quả thực
hành, thực tập sư phạm và kết quả học tập, rèn luyện NVSP tại trường sư phạm của
sinh viên có độ chênh lệch chưa hợp lý.
- Các trường thực hành cũng như các trường phổ thông khác thường có sĩ số học
sinh đông, do vậy việc tiếp nhận sinh viên đến dự giờ mẫu gặp khó khăn. Trường
thực hành không thuộc biên chế của trường sư phạm nên không chủ động trong việc
biên chế sĩ số lớp hợp lý hoặc chuẩn bị bàn ghế cho nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên
THSP.
4. Từ thực tiễn quản lý và phối hợp giữa trường CĐSP và trường thực hành trong
việc đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên từ năm 1976 đến nay, chúng tôi nhận
thấy có những khó khăn sau:
-. Xét về mặt chủ trương của ngành thì đây là mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở
đào tạo giáo viên và nơi sử dụng giáo viên, là một biểu hiện của mối quan hệ gắn bó
Sư phạm - Phổ thông. Nhưng trong thực tế, mối quan hệ này mang nặng tính quan
liêu, hành chính. Đối với trường thực hành sư phạm không thuộc biên chế của
trường sư phạm thì đây là mối quan hệ giữa 2 đơn vị giáo dục trong ngành do 2 cấp
quản lý khác nhau, vì vậy trường thực hành nhận nhiệm vụ này là do sự phân công
của cấp trên và như là một sự “giúp đỡ” trường sư phạm.
23



Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

- Mặt khác kinh phí chi trả cho hoạt động hướng dẫn thực hành sư phạm của
BGH và giáo viên trường thực hành sư phạm được quy định trong văn bản của Bộ
GD & ĐT, của tài chính. Những quy định này rất lạc hậu và không đủ để tái sản
xuất sức lao động cho giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm cho sinh viên (Quy
định trong điều 11, 12 “Quy chế trường thực hành sư phạm” của Bộ GD & ĐT ban
hành ngày 20 tháng 5 năm 1998).
Cũng trong quy chế này (điều 20) trường sư phạm hỗ trợ trường thực hành sư
phạm về kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học, sách giáo
khoa v.v.. Nhưng trong thực tế, về mặt tài chính trường sư phạm không có khoản
chi dành riêng cho việc này. Vì vậy, mối quan hệ giữa trường sư phạm và trường
thực hành chưa được ‘mặn nồng”.
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TRƯỜNG THSP
TRONG VIỆC ĐÀO TẠO NVSP CHO SINH VIÊN
- Nhận thức đúng về việc đào tạo NVSP cho sinh viên trong trường sư phạm là
hoạt động trung tâm, cần được ưu tiên quan tâm.
Chương trình khung đào tạo sư phạm có 3 khối kiến thức: Kiến thức giáo dục
đại cương, kiến thức giáo dục chuyên nghiệp và kiến thức NVSP cốt lõi. Các học
phần tạo nên khối kiến thức NVSP cốt lõi gồm: Tâm lý học, Giáo dục học, Phương
pháp dạy học bộ môn, TTSP 2, TTSP 3, rèn luyện NVSPTX. Trong các trường sư
phạm, những HP trên do các giảng viên TL-GD và PPDHBM đảm nhiệm.
Tư duy quản lý của các nhà quản lý các trường SP chưa nhận thức rõ ràng sắc
thái của đào tạo sư phạm nên họ quan tâm nhiều đến mở rộng quy mô đào tạo, đa
ngành đào tạo và xem việc đào tạo kiến thức NVSP cốt lõi như các khối kiến thức
khác. Điều đó dẫn đến các nhà quản lý không tạo điều kiện và không đầu tư mạnh
cho việc đào tạo NVSP, đào tạo cho sinh viên PPGD (cách) mà chú ý nhiều hơn đến

việc đào tạo kiến thức để dạy (cái).
Trường SP không xây dựng được một kế hoạch bài bản đào tạo NVSP cho sinh
viên để khẳng định với xã hội rằng, muốn đi dạy học thì phải học nghề dạy học nên
việc phát huy vai trò của trường THSP đã có chưa được quan tâm đúng mức. Còn

24


Trung tâm Phát triển Nghiệp vụ Sư phạm

Trường thực hành với vấn đề đào tạo nghiệp vụ của các trường sư phạm.

những trường chưa có trường THSP thì đó cũng không phải là nỗi bức xúc lắm của
nhà quản lý.
Vì thế, phong trào RLNVSP của sinh viên sư phạm không mạnh, hình thức, làm
cho có để thực hiện chương trình đào tạo
Từ thực tiễn trên, chúng tôi nhận thấy các trường SP cần nhận thức lại vấn đề này
xem đào tạo NVSP cho sinh viên là “thương hiệu”, trụ cột của nhà trường. Có thay
đổi nhận thức thì mới có sự thay đổi trong hành động. Muốn vậy cần:
- Lựa chọn những giảng viên có trình độ chuyên môn khá, vững vàng, có kinh
nghiệm giảng dạy, có thời gian nghiên cứu bổ sung kiến thức về PPDH để giảng
dạy các học phần PPDHBM.
- Trong trường sư phạm nên thành lập Khoa đào tạo NVSP (hoặc Tổ NVSP) với
đội ngũ giáo viên cơ hữu là GV TL-GD và các giảng viên dạy PPDHBM. Không
nên thành lập Khoa TL-GD hoặc Tổ TL-GD. Trong phòng Đào tạo của trường sư
phạm có bộ phận chuyên trách đào tạo NVSP.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo NVSP tỉ mỉ cho toàn bộ khoá học với cơ sở vật chất
và thiết bị dạy học tương ứng trong đó có cả kế hoạch hoạt động của trường thực
hành sư phạm. Lấy kế hoạch này là xương sống để xây dựng kế hoạch đào tạo
chung của nhà trường.

- Trường sư phạm và trường thực hành phối hợp xây dựng kế hoạch thực hành,
thực tập và rèn luyện NVSP cho sinh viên trong cả năm học và được thể hiện bằng
những hợp đồng trách nhiệm. Theo kế hoạch này, sinh viên và GV của trường sư
phạm có thể liên hệ THSP bất kỳ lúc nào mà không cần phải thông qua thủ tục hành
chính là đại diện nhà trường sư phạm đi liên hệ trước.
- Sĩ số học sinh trong một lớp của trường thực hành phải ít hơn sĩ số HS trung
bình của các trường khác cùng cấp. Cơ sở vật chất phải đựơc đầu tư tốt hơn các
trường không phải là trường thực hành sư phạm. Muốn vậy, các trường sư phạm
phải chủ động làm việc với Phòng GD và Sở GD & ĐT để thống nhất và có các
quyết định hợp lý.
- Xây dựng cơ chế, lập kế hoạch để giáo viên sư phạm có thể tham gia dạy học ở
trường thực hành để thể nghiệm các sáng kiến, các nghiên cứu đổi mới PPDH.
25


×