Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

VÂN ĐỀ ĐÀO TẠO KHI ỨNG DỤNG KỸ THUẬT- CÔNG NGHỆ MỚI VÀ KHẢ NĂNG TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.38 KB, 15 trang )

Mục lục
I. Mở đầu........................................................................................................................
II. Vấn đề đào tạo khi ứng dụng kỹ thuật- cơng nghệ mới..............................................
1. Vai trị của của công nghệ và đào tạo ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới........................................................................
2. Đào tạo ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới với xu thế thời đại........................................................................................
3. Thực trạng vấn đề đào tạo ứng dụng công nghệ mới.............................................
4. Nhiệm vụ trọng tâm vấn đề đào tạo ứng dụng công nghệ và lợi ích với DN..........
III. Khả năng tài chính của DN khi ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới..........................
1. Hiện trạng khả năng của doanh nghiệp ................................................................
2. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng công nghệ .........................................
IV. Định hướng phát triển đào tạo và ứng dụng cho DN trong thời gian tới..................
1.Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020.....................................
2. Nhiệm vụ................................................................................................................
3. Một số chỉ tiêu cụ thể ............................................................................................
4. Một số giải pháp....................................................................................................
V. Kết luận......................................................................................................................


Đề tài: VÂN ĐỀ ĐÀO TẠO KHI ỨNG DỤNG KỸ THUẬT- CƠNG NGHỆ MỚI VÀ KHẢ NĂNG TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP
I. Mở đầu
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của kỹ thuật và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát
triển của xã hội lồi người. Kỹ thuật và cơng nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội. Trong môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt, công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng và bền vững.Việc đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh là vấn đề sống
còn đối với mỗi doanh nghiệp. Thực tế này đang đặt ra cho chúng ta (cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô) những yêu cầu bức thiết về đổi mới
công nghệ, về sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp và cả quốc gia.
Nước ta với chính sách đi tắt đón đầu, tiếp thu và ứng dụng những công nghệ mới đã đem lại những thành cơng lớn cùng với đó các
doanh nghiệp cũng đã phát triển mạnh đưa những công nghệ mới từ bên ngoài cũng như từ việc nghiên cứu phát minh ra các công nghệ
tiên tiến áp dụng và sản xuất đem lại sự phát triển và cạnh tranh. Việc đào tạo và ứng dụng công nghệ luôn là là vấn đề đối với một
doanh nghiệp, trong xu thế tồn cầu hóa và cơng nghệ phát triển, hàng ngày hằng giờ ln có những cơng nghệ mới ra đời áp dụng vào
thực tiễn, những công nghệ này khi ra đời luôn làm cho những công nghệ đi trước lạc hậu khả năng cạnh tranh và lợi ít mang lại thấp


hơn rất nhiều. Chính vì đó mà khơng một doanh nghiệp nào không chú trong vào đào tạo ứng dụng cơng nghệ, nó mang đến cho doanh
nghiệp sự mới mẻ, năng suất cao hơn chất lượng tốt hơn. Nhưng để áp dụng và phát triển tốt cơng nghệ thì doanh nghiệp cũng cần phải
chú trọng rất nhiều vào việc đào tạo con người, cho dù một doanh nghiệp có những cơng nghệ tốt, chất lượng mà khơng có những con
người đáp ứng cơng nghệ đó thì cũng trở nên lãng phí và khơng phát huy được những cơng nghệ này. Doanh nghiệp cần phải chú trọng
vào việc đào tạo con người vì con người là nhân tố quan trọng trong một doanh nghiệp, khi đào tạo được những con người tốt thì những
cơng nghệ sẽ phát huy được những tác dụng của những thành tựu khoa học công nghệ mang lại.
II. Vấn đề đào tạo khi ứng dụng kỹ thuật- cơng nghệ mới
1. Vai trị của cơng nghệ và đào tạo ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới
Công nghệ chính là yếu tố quyết định sự thịnh vượng hay suy vong của một quốc gia. Trong xã hội hiện đại, vai trị của cơng nghệ
ngày càng tăng lên. Nó đã và đang trở thành hàng hoá được chuyển giao trên thị trường và được bảo hộ bằng pháp luật. Những tiến bộ
như vũ bão của CN trong hai thập kỷ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ Nano, tự
động hoá đã làm đảo lộn tư duy và chiến lược của nhiều nước.
Phát triển công nghệ, ứng dụng hiệu quả nó vào sản xuất, thích ứng và từng bước hồn thiện nó là những điều kiện tiên quyết có ý
nghĩa then chốt cho việc đạt được hiệu suất cao nhất của nguồn vốn vật chất và các nguồn vốn lực khác, đặc biệt là trong giai đoạn cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá.
Năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia trên thị trường quốc tế được định đoạt ngày càng mạnh mẽ bởi trình độ phát triển cơng nghệ
của quốc gia đó. Những xu hướng hiện nay đã chỉ rõ rằng mơ hình thương mại quốc tế được hình thành do sự biến đổi cơng nghệ trong
đó những sản phẩm có đầu tư khoa học – cơng nghệ cao ngày càng chiếm vai trò nổi bật, đặc biệt là trong trao đổi thương mại giữa các
nước cơng nghiệp hố.


Đổi mới công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị
phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức độ an
toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới cơng nghệ,
chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt. Đổi mới công nghệ sẽ mang lại hiệu quả rất thiết thực, nhất là trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì cơng nghệ được xem là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ nhất. Đổi mới công nghệ sẽ tạo ra
những sản phẩm tiên tiến hơn, chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn, năng suất cao hơn, chi phí sản xuất giảm, hạ được giá thành sản phẩm,
ưu thế cạnh tranh trên thị trường ngày càng tốt hơn.
Hiện trạng công nghệ trong một nền kinh tế có thể được đánh giá là kém phát triển, nếu như nó khơng có khả năng trợ giúp cho 4
yếu tố cơ bản của phát triển là: a/ Các phương tiện sản xuất hiện đại. b/ Các tri thức có ích và khả năng tiếp thu. c/ Tổ chức và quản lý

hiệu quả. d/ Các kỹ năng và khả năng kỹ thuật. Nếu thiếu những yếu tố này thì cần phải đầu tư cho nâng cao công nghệ, thu nhập và
truyền bá thông tin, đổi mới cơ cấu tổ chức cho giáo dục và đào tạo nhằm thúc đẩy hoạt động cơng nghệ.
Vì kinh tế ln ln phát triển, nên vai trị của cơng nghệ cũng ln thay đổi. Ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mức tăng
trưởng dường như phụ thuộc cứng nhắc vào khả năng tiếp thu và sử dụng một cách hiệu quả công nghệ. Tiếp thu cơng nghệ nước ngồi
tạo ra một bước rất quan trọng để cải tiến khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, cũng như quốc tế. Những tiếp thu cơng nghệ
như vậy, cần được nhìn nhận là sự bổ sung hơn là sự cạnh tranh với những nỗ lực quốc gia trong việc phát triển công nghệ. Tiếp thu
cơng nghệ nước ngồi: đầu tư trực tiếp của nước ngồi: nhập khẩu, hàng hố tư liệu sản xuất, hợp đồng Li-xăng và các phương tiện
khơng chính thức như “kỹ thuật ngược” (hay sao chép mẫu có cải biên) và khảo sát ở nước ngồi. Một khi cơng nghệ đã được thu nhận,
nhiệm vụ tiếp theo là đảm bảo quá trình triển khai rộng rãi chúng. Quá trình này phụ thuộc vào một loạt yếu tố, bao gồm: lợi nhuận
mong muốn và mạo hiểm, các yêu cầu về nghiên cứu ứng dụng và khả năng nghiên cứu của các hãng, chi phí phát triển, nghiên cứu thị
trường và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp, khả năng có được của các nguồn kỹ thuật, tài chính và các nguồn khác. Cơng nghệ
mới là kết quả của q trình cơng nghiệp hố và đồng thời là một trong những động lực chính của q trình cơng nghiệp hố. Việc phát
triển công nghệ mới là yếu tố quan trọng làm thay đổi trực tiếp hay gián tiếp phạm vi phương thức sản xuất cơng nghiệp, góp phần phân
cơng lại lao động trong sự phát triển công nghiệp. Công nghệ mới thực hiện những đột phá quan trọng có tác động mạnh mẽ đến q
trình cơng nghiệp hố, có thể nói phát triển công nghiệp trong tương lai trên cơ sở của công nghệ mới.
Các biện pháp hỗ trợ như khuyến khích tài chính là cần thiết để thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động nghiên cứu và phát triển, nâng
cao trình độ cơng nghệ thơng qua kiểm tra chất lượng, thử nghiệm và huấn luyện công nghệ. Yếu tố quyết định khả năng công nghệ và
khả năng cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế là số người có khả năng quyết định mọi vấn đề công nghệ. Trong phương diện này,
đầu tư đào tạo nhân lực kỹ thuật là quan trọng, đặc biệt là đầu tư phát triển hệ thống giáo dục khoa học kết hợp với trương trình huấn
luyện thực tế một cách hiệu quả và linh hoạt. Trong giai đoạn phát triển tương đối cao, khi một quốc gia đã đuổi kịp các nước có nền
cơng nghệ tiên tiến ít hơn (ít nhất là trong một số lĩnh vực lựa chọn) thì khả năng phát triển cơng nghệ mới (tức là đổi mới công nghệ)
trở thành nhân tố cơ bản để đạt được thành công trong cạnh tranh. Tới một thời điểm nào đó, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ phụ thuộc
mạnh mẽ vào các tiến bộ khoa học và công nghệ thể hiện qua số các nhà khoa học và kỹ sư, đặc biệt là số các nhà khoa học và kỹ sư
trong khu vực sản xuất, cũng như mức chi phí cho nghiên cứu và phát triển có thể đáp ứng được.
2. Đào tạo ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới với xu thế thời đại


Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong giai đoạn ngày nay cùng với làn sóng vĩ đại của đổi mới công nghệ đang tổ chức lại
một cách cơ bản đời sống xã hội con người về mọi mặt từ kinh tế đến văn hóa, với xu thế lớn mang tính tồn cầu sẽ là hiện tượng xã hội
thơng tin phát triển và xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới, mà trong các thập kỷ tới các nước khơng tính đến trong q trình phát

triển kinh tế nước mình sẽ khó có thể tồn tại và đứng vững.
Trong xã hội thông tin, phương thức sản xuất dựa trên nền công nghiệp vừa và nhỏ tác động nhanh, tiêu tốn ít năng lượng nhờ sử
dụng các thiết bị vi điện tử, công nghệ sinh học và vật liệu mới. Tin học với chức năng là xử lý tự động thơng tin nhờ máy tính, sẽ trở
thành một bộ phận hữu cơ của cuộc sống hàng ngày. Thông tin và tri thức trở thành yếu tố đầu vào của sản xuất, nó là nguồn lực đặc
biệt, khơng những có khả năng tự sinh sản. Xã hội thơng tin tiềm lực cao phát triển theo hai hướng : 1/ Tin học hóa và tự động hóa sản
xuất, 2 / Hiện đại hóa các nghành dịch vụ.
Xã hội hóa thơng tin sẽ đòi hỏi một cuộc cách mạng về giáo dục và nâng cao tiềm năng trí tuệ và sản sinh ra kiến thức mới cho phát
triển, đồng thời phải đáp ứng nhu cầu phổ cập tin học như là một sự phổ cập văn hóa lần thứ hai, coi đó là một kết quả chủ yếu của nền
giáo dục hiện đại, mặt khác nó có tác dụng đổi mới sâu sắc cơ cấu của khu vực sản xuất. Tin học hóa doanh nghiệp sẽ dẫn đến một nền
kinh tế thất nghiệp, mà đòi hỏi đào tạo lại, sử dụng lao động linh hoạt hơn, xuất hiện những nghề mới. Cuối thập kỷ 80 Nhật sử dụng
8000 người máy công nghiệp (robốt), tỷ lệ thất nghiệp 2%, CHLB Đức dùng 3000 robot nhưng tỷ lệ thất nghiệp là 4%. Trong xã hội
nông nghiệp sơ khai, con người đã từng phải cần 90% lực lượng lao động để sản xuất ra 100% lương thực, nhưng ở xã hội cơng nghiệp
hóa phát triển cao (ở Mỹ) cũng để sản xuất ra số lương thực đó chỉ cần ít hơn 3% lực lượng lao động.
Cùng với thương mại, tài chính, xu thế tồn cầu cũng tác động đến các lĩnh vực công nghệ sản xuất. Ngày càng có sự nhất thể hóa
giữa nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất - kinh doanh. Có xu thế tồn cầu (Mỹ Nhật và Tây Âu). Các siêu cường
kinh tế đang đua nhau nắm giữ các nền “cơng nghệ bình minh” như vi điện tử, máy tính, phần mềm, cáp quang, viễn thơng, người máy,
năng lượng thay thế, vũ trụ, đại dương: và cũng nhận thức rõ sự thách thức về phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, dễ thích ứng.
Yếu tố giáo dục và đào tạo sẽ là một nguồn lực chủ yếu tạo thế cạnh tranh của các nước khi bước vào thế kỷ 21. Chính các nước đang
phát triển có nền kinh tế thành cơng đang sử dụng cơ hội này dựa trên sự phát triển nền “kinh tế kiến thức” để đột phá vào các công
nghệ cao mà không phải đầu tư quá lớn. Để thực hiện tốt chính sách khoa học – cơng nghệ quốc gia, ngồi vấn đề nhận thức, cơ chế
chính sách, một vấn đề cực kỳ quan trọng là phải đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo trong nước theo hướng hòa nhập quốc tế, trẻ hóa
đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành của đất nước.
3. Thực trạng vấn đề đào tạo ứng dụng công nghệ mới
3.1. Những thành tựu
a) Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo đươc nguồn nhân lực quan trọng
đáp ứng cho hoạt động KH & CN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri
thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH & CN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi
thành phần kinh tế. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phịng thí nghiệm, các trung tâm thông tin KH & CN

, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
với sản xuất – kinh doanh.


b) Khoa học và cơng nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cơng nghệ vật liệu, tự động hố, cơng nghệ cơ
khí- chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo
vệ mơi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thơng văn hố tốt đẹp của dân tộc.
c) Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Thực hiện Luật Khoa học và Cơng nghệ, các chương trình, đề tài, dự án KH & CN đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã
hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH & CN đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức KH & CN đã mở rộng từ nghiên cứu- phát triển đến sản xuất và dịch vụ KH & CN. Quyền tự chủ của các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động KH & CN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động
KH & CN được mở rộng.
Vốn huy động cho KH & CN từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất – kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các
nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hố nguồn vốn đầu tư cho KH & CN. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến
nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian.
d) Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày các được nâng cao.
Hoạt động tích cực của các tổ chức KH & CN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác
động của KH & CN đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KH & CN trong thời gian qua đã tăng
lên rõ rệt. Hoạt động KH & CN ngày càng được xã hội hoá.
3.2. Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu
* Những yếu kém
a) Nguồn nhân lực công nghệ cao qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu.
Nguồn nhân lực cơng nghệ cao cịn thiếu nhiều, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ để có thể chuyển kiến thức thành cơng
nghệ, chuyển kết quả nghiên cứu trong phịng thí nghiệm thành quy trình sản xuất… Thực tế này khiến DN Việt Nam đi sau hàng chục
năm so với nhiều nước đang phát triển.
b) Năng lực khoa học và cơng nghệ cịn nhiều yếu kém.

- Đội ngũ cán bộ KH & CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các “ tổng công trình sư”, đặc biệt là thiếu cán bộ KH & CN trẻ kế cận có
trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH & CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
- Đầu tư của xã hội cho KH & CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các Viện nghiên cứu,
trường đại học nhìn chung cịn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành.
- Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH & CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh
vực KH & CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH & CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Hệ thống dịch vụ KH & CN, bao gồm thông tin KH & CN, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường –
chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế. Thiếu
sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH & CN, giáo dục - đào tạo và sản xuất – kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giũa các tổ chức


nghiên cứu – phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp. Giữa doanh nghiệp và nhà khoa học, các viện nghiên cứu, còn rất thiếu sự
gắn kết, và thiếu cả những tổ chức trung gian hỗ trợ cung – cầu để hình thành thị trường cơng nghệ. Hiện nay hầu hết các doanh
nghiệp ở nước ta là vừa và nhỏ, mà thực chất là nhỏ và siêu nhỏ, nên thiếu kinh nghiệm và những nguồn lực cần thiết để đầu tư cải tiến
công nghệ.
- So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta cịn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động KH & CN: tỷ
lệ cán bộ nghiên cứu KH & CN trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu –
phát triển theo chuẩn mực quốc tế cịn ít.
Nhìn chung, năng lực KH & CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết
chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế – xã hội.
c) Trình độ cơng nghệ của nhiều ngành sản xuất cịn thấp và lạc hậu.
Ngồi những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thơng, dầu khí, hàng điện tử
tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ cơng nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ công
nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
d) Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, cịn mang nặng tính hành chính.
- Quản lý hoạt động KH & CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản
phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ KH & CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát
triển kinh tế- xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Cơ chế quản lý các tổ chức KH & CN không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Các tổ chức KH & CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy
tính năng động, sáng tạo.
- Việc quản lý cán bộ KH & CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động KH & CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển
và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ KH & CN được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm
trong khn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ KH & CN và chính sách thu hút, trọng dụng
nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, khơng khuyến khích cán bộ KH & CN tồn tâm với sự nghiệp KH& CN.
- Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH & CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn
ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức KH & CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu
quả còn hạn chế.
- Thị trường KH & CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu KH & CN còn bị hạn chế
do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, cơng tác quản lý nhà nước về KH & CN còn chưa đổi mới kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.

* Những nguyên nhân chủ yếu
a) Đường lối chính sách phát triển KH & CN của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực
tiễn.


- Quan điểm KH & CN là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên
thực tế chưa được các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội.
- Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KH & CN chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm
pháp luật; việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả cịn hạn chế.
b) Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý KH & CN các cấp còn yếu kém
- Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói quen của khơng ít cán bộ KH & CN đã tạo ra sức ỳ không dễ
khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về đổi mới quản lý KH & CN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.
- Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động KH & CN mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như: các lĩnh vực
KH & CN trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu mang tính cơng ích v.v..; cũng như chưa có cơ chế thị trường, như nghiên cứu ứng dụng và
phát triển công nghệ, dịch vụ KH & CN.
- Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống KH & CN chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho

công tác quản lý các tổ chức KH & CN cịn mang nặng tính hành chính.
- Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến về gắn kết giữa nghiên cứu KH & CN với giáo dục - đào tạo và sản
xuất – kinh doanh.
c) Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp.
- Đầu tư xây dựng tiềm lực KH & CN trong thời gian dài còn chưa được trú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng
điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở hạ tầng KH & CN lạc hậu, hiệu quả đầu tư thấp.
- Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh vực KH & CN ưu tiên, đặc biệt là cán bộ KH & CN đầu
ngành, các “ tổng cơng trình sư”
d) Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học và công nghệ:
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay cịn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH & CN
và đổi mới công nghệ. Thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để gắn kết giữa KH & CN với sản xuất- kinh doanh và khuyến khích doanh
nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu KH & CN. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng khơng tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho KH & CN.
3.3. Cơ hội và thách thức
a) Cơ hội
Trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hố quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp
thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngồi để nhanh chóng tăng cường
năng lực KH & CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH & CN hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những cơng nghệ hiện đại để rút
ngắn quá trình CNH, HĐH và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có chiến lược
phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.


Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển KH&CN trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ
tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển KH&CN, đồng thời thúc đẩy đổi mới
công nghệ và ứng dụng thành tựu KH&CN trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và
quốc tế.
)
Thách thức

Mục tiêu Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 là hình thành và phát triển khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất
sản phẩm, cung ứng dịch vục công nghệ cao thuộc Danh mục sản phẩm cơng nghệ cao được khuyến khích phát triển; hình thành 200
doanh nghiệp nơng nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các vùng kinh tế trọng điểm. Đây quả thực là thách thức và cũng là áp lực lớn
đối với việc đào tạo nhân lực cho các ngành công nghệ cao đối với DN
Trong bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về KH&CN và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và
tranh thủ các nguồn lực bên ngồi tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và năng lực KH&CN của quốc gia. Thách thức lớn hiện nay là phải nâng
cao nhanh chóng năng lực KH&CN để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn, trong điều kiện nước ta cịn nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp,
trình độ phát triển kinh tế và KH&CN cịn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực.
Trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về
nguồn nhân lực có trình độ chun mơn giỏi, có năng lực sáng tạo. Các DN nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao
trình độ chun mơn nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ khơng có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu
tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngồi.
Trước những có hội và thách thức trên đây, nếu khơng có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN quốc gia thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN ngày càng
xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn cơng nghệ nhập là khó tránh khỏi.
4. Nhiệm vụ trọng tâm của vấn đề đào tạo ứng dụng cơng nghệ và lợi ích với doanh nghiệp
Cần tập trung cho các giải pháp về nhân lực và đầu tư tài chính cho kỹ thuật và CN. Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi các
nhiệm vụ KH và CN. Về nhân lực, cần tập trung cho một số loại nhân lực nhất định. Ðó là đội ngũ nhân lực có khả năng đặt ra các vấn
đề và nhiệm vụ KH và CN, làm các tổng cơng trình sư có đủ năng lực thiết kế và chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ KH và CN
lớn mang tầm vóc quốc gia, các nhóm nghiên cứu liên ngành trong thực hiện các nhiệm vụ KH và CN và đặc biệt cần nâng cấp ngay đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH và CN. Ðào tạo là giải pháp về lâu dài, nhưng trước mắt có thể dùng các chính sách đặc biệt để thu
hút và sử dụng kịp thời lực lượng KH và CN hiện có ở cả trong và ngồi nước. Các chính sách này sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả, ít
tốn kém tiền bạc và thời gian hơn là đổi mới công tác đào tạo nhân lực mà thông thường chỉ phát huy tác dụng trong tương lai xa (ít
nhất 10 đến 15 năm sau). Chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH và CN mặc dù đã được đổi mới, nhưng cho đến nay
vẫn còn là khâu yếu trong hệ thống bảo đảm nguồn lực và môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ. Kinh phí đầu tư cho các hoạt động KH và CN cần được quản lý thống nhất, phân bổ theo cơ cấu hợp lý giữa các nhiệm vụ bảo
đảm hạ tầng (đầu tư phát triển), nghiên cứu và phát triển (theo các kênh chương trình, đề tài trọng điểm cấp nhà nước và hệ thống các
quỹ), và các khoản chi thường xun. Trong đó, ngồi việc bảo đảm đủ kinh phí hỗ trợ đổi mới công nghệ cho khu vực doanh nghiệp
cũng cần đầu tư tới ngưỡng cho các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, tạo dự trữ cho các ứng dụng vào sản xuất và đời sống
trong tương lai. Khắc phục những bất cập trong chế độ chi tiêu và thủ tục thanh quyết tốn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH và CN,

tạo cơ chế minh bạch về thu nhập để các nhà khoa học có thể đủ sống và làm nghiên cứu một cách trung thực, hiệu quả.


Để thực hiện đào tạo ứng dụng công nghệ đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp lưu ý những vấn đề sau:
a. Có định hướng phát triển
Đây là yêu cầu rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì nếu khơng có định hướng phát triển rõ ràng, chỉ tập trung vào việc khai thác
các cơ hội trước mắt hoặc duy trì quy mơ hiện có về thiết bị, cơng nghệ, lao động… thì doanh nghiệp tự mình giảm thị phần của mình
trên thương trường và từng bước bị đẩy lùi về phía sau. Do đó, những doanh nghiệp đổi mới cơng nghệ nhanh và đổi mới có hiệu quả là
những doanh nghiệp ln có mục tiêu mở rộng, phát triển và chủ động lập kế hoạch phát triển lâu dài. Nâng cao năng lực nội sinh về
công nghệ tức là chúng ta đã nâng cao năng lực để có khả năng lực chọn công nghệ, tiếp nhận và sử dụng một cách hiệu quả trong sản
xuất, dịch vụ, thích nghi hố cơng nghệ nhập sao cho phù hợp với điều kiện địa phương. Đểm đến có thể sáng tạo ra cơng nghệ riêng
của mình trên cơ sở nghiên cứu cơ bãn. Mỗi doanh nghiệp phải xây dựng lộ trình đổi mới công nghệ, thiết bị tạo ra sản phẩm mới có
tính cạnh tranh cao, cần chú ý đến lợi ích lâu dài. Hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dẫn đến chậm đổi mới công nghệ là thiếu
thông tin về công nghệ, thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong tìm kiếm, lựa chọn và mua bán cơng nghệ phù hợp với sản xuất, kinh doanh
để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy điểm đầu tiên trong mỗi doanh nghiệp là nâng cao năng lực nội sinh và đầu tư tài
chính cho đổi mới cơng nghệ khoảng 15% doanh thu.
.b. Cập nhật thông tin công nghệ

Cập nhật thông tin về công nghệ là rất cần thiết đối với doanh nghiệp, nhất là cập nhật những thành tựu mới về công nghệ và sản
xuất kinh doanh liên quan đến ngành mình và các ngành có liên quan, những thơng tin đầy đủ về thị trường, chính thức hóa công việc
này thông qua bộ phận marketing của doanh nghiệp.
c. Có chính sách kích thích tính sáng tạo trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất sẽ xuất hiện nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật… để đổi mới công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí nguyên, nhiên liệu, hạ giá thành sản phẩm. Do đó, các doanh nghiệp, nhà sản xuất cần tạo
mơi trường thuận lợi để kích thích sự sáng tạo, suy nghĩ, thử nghiệm, thảo luận và phát triển các ý tưởng của các thành viên trong doanh
nghiệp.
d. Đầu tư đổi mới công nghệ
Sự thành công của đổi mới công nghệ được quyết định bởi chất lượng các hoạt động, sự kết hợp giữa các cá nhân và các bộ phận với
nhau thật sự chặt chẽ và phát huy hiệu quả cao. Do đó, đầu tư cho đổi mới cơng nghệ địi hỏi nguồn lực lớn (cả nhân lực lẫn tài lực). Sự
quan tâm tích cực đến việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối

với việc khuyến khích khả năng sáng tạo của các cá nhân trong doanh nghiệp và thu hút trí tuệ, kinh nghiệm, … của các chuyên gia
giỏi, các nhân viên có kinh nghiệm từ bên ngồi để thực hiện kế hoạch đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; đồng thời nó là cơ sở để
có thể tiếp nhận cơng nghệ chuyển giao từ bên ngoài.
e. Đào tạo nguồn nhân lực
- Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển dựa vào nền tảng phát triển công nghệ, cần phải tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo
chuẩn mực về công nghệ, phù hợp với nhu cầu thực tế sản xuất và quan trọng là phải tạo cơ hội và mơi trường thích hợp nhằm phát huy
tối đa năng lực sáng tạo của lực lượng lao động theo đúng lĩnh vực chuyên môn được đào tạo. Như vậy, việc tạo nguồn nhân lực công
nghệ là một trong những khâu quan trọng nhằm củng cố, phát triển năng lực công nghệ để thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp đề ra


trong từng giai đoạn phát triển. Để có nguồn nhân lực cơng nghệ phù hợp, doanh nghiệp phải có sự đánh giá và trên cơ sở quy hoạch,
xác định kế hoạch để xây dựng nguồn nhân lực một cách khoa học và có hệ thống.
- Bảo đảm gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo; giữa khoa học và công nghệ; giữa khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học ký thuật. Sự gắn kết giữa KH&CN với giáo dục - đào tạo trước hết phải được thực hiện ngay trong các
trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển; đồng thời có cơ chế khuyến khích kết hợp với biện pháp hành chính để tạo ra sự
hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức này. Sự gắn kết giữa các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
và giữa khoa học với công nghệ được thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội
tổng hợp và phát triển bền vững đất nước.
- Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách hỗ trợ giữ chân người tài cũng cần được bổ sung như: Chính sách tiền lương: chính sách thu
hút chun gia nước ngồi, trí thức Việt kiều; tạo liên kết viện - trường - doanh nghiệp thành mạng lưới nghiên cứu - đào tạo - sản xuất
sản phẩm công nghệ cao. Xây dựng danh mục các chuyên ngành đào tạo cụ thể trong từng lĩnh vực công nghệ cao ở bậc đại học và sau
đại học; thống nhất chương trình khu đào tạo chuyển giao trong các lĩnh vực công nghệ cao… Đặc biệt, một trong các biện pháp thúc
đẩy chất lượng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cơng nghệ cao là hình thành các nhóm, các tập thể nghiên cứu khoa học mạnh, qua đó
tạo dựng các thủ lĩnh khoa học - những hạt nhân trong các tập thể nguồn nhân lực công nghệ cao. Cùng với đó, Nhà nước cũng nên
nhanh chóng huy động tối đa các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo nhân lực. Khuyến khích mở các trường đại
học, viện nghiên cứu cơng nghệ quốc tế hoặc khu vực tại Việt Nam. Một trong những giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cơng
nghệ cao là tăng cường đào tạo, trong đó tập trung nâng cao chất lượng đào tạo công nghân kỹ thuật, cơng nhân có tay nghề cao. Tuy
nhiên, để đạt mục tiêu này không hề dễ dàng bởi hiện nay đội ngũ giảng viên tại các trường đại học về cơng nghệ cao cịn thiếu và rất
yếu.
- Hiện nay, giới khoa học đang chịu thiệt thòi nhiều nhất trong những người làm cơng ăn lương. Họ khơng có chế độ đãi ngộ, phụ

cấp hoặc các danh hiệu tôn vinh như ngành giáo dục (là ngành có phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo
Nhân dân) hay các ngành thanh tra, kiểm toán, thuế, hải quan… đều có phụ cấp nghề hoặc/và phụ cấp thâm niên.
- Chính sách trọng dụng và sử dụng cán bộ KH&CN đã được Bộ KH&CN xây dựng và trình vài lần trong 5-6 năm qua với tinh thần
là trong khi chưa có chế độ lương và thu nhập thỏa đáng cho các nhà khoa học, cần giải quyết chế độ đãi ngộ xứng đáng cho một số ít
người được giao nhiệm vụ quốc gia và những nhà khoa học trẻ tài năng. Đề án này cho đến nay vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt vì
chưa nhận được sự đồng thuận của một số bộ, ngành… Có ý kiến cho rằng ưu đãi cao như vậy là không công bằng trong hệ thống chính
trị, cũng có ý kiến lo lắng chính sách đó sẽ bị lợi dụng gây lãng phí và thất thốt ngân sách Nhà nước, có ý kiến lại băn khoăn về cách
thức xác định ai là người thực sự có tài năng, ai sẽ được giao nhiệm vụ quốc gia… Thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ta cịn đang ở
trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển thì khơng nên đầu tư cho nghiên cứu, cứ nhập khẩu công nghệ và ứng dụng tốt là được rồi. Tơi
cho rằng các ý kiến đó đều khơng tích cực. Bởi khơng phải lúc nào chúng ta cũng mua được cơng nghệ cần thiết dù có đủ tiền; đồng
thời bất kỳ quốc gia nào cũng phải có khả năng tự chủ một số công nghệ đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, an ninh, quốc phịng.
- Xây dựng một bảo tàng khoa học nhằm ni dưỡng sự đam mê khoa học ở thế hệ trẻ . Bảo tàng khoa học là một cơng trình có ý
nghĩa, giúp nâng cao dân trí, ni dưỡng tình u khoa học cho thế hệ trẻ. Về lâu dài, bảo tàng khoa học cũng là một di sản, giúp khẳng
định tầm văn hóa, khơng chỉ của một thành phố, mà của cả một đất nước. Vì vậy cần có sự quan tâm của Chính phủ, sự phối hợp nhất
trí của các cơ quan chức năng, để việc xây dựng bảo tàng khoa học sớm được nằm trong một quy hoạch tổng thể chi tiết và đồng bộ của
hệ thống bảo tàng cả nước, đảm bảo được tính hiệu quả vì lợi ích sử dụng của nhân dân, đồng thời đáp ứng các tiêu chí khơng thể thiếu


về tính khoa học và văn hóa. Từ đó chúng ta mới có thể tính tới một lộ trình triển khai thực hiện thật cụ thể. Xây dựng được cơ chế tài
chính thơng thống, lành mạnh phù hợp với tính đặc thù của hoạt động nghiên cứu, phục vụ tốt những người làm khoa học. Sau nữa,
xây dựng được hệ thống chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học, để những người có tài năng, các tổng cơng trình sư có đủ
điều kiện cống hiến trí tuệ của họ cho đất nước.
III. Khả năng tài chính của doanh nghiệp khi ứng dụng kỹ thuật- công nghệ mới
1. Hiện trạng khả năng của doanh nghiệp
Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong nghiên cứu khoa học, tiếp cận và ứng dụng công nghệ tiên tiến do thiếu
kinh phí. Ngồi ra, sự hỗ trợ của Nhà nước chưa sát sao, phù hợp với tình hình thực tế. Do đó, doanh nghiệp rất yếu thế trong cạnh tranh
nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm... Theo ơng Nguyễn Trọng Hiệu - Phó Cục trưởng Cục Phát triển Doanh nghiệp - Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, về trình độ sử dụng cơng nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt trình độ cơng nghệ tiên tiến
(phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi). Cịn về doanh nghiệp trong nước, hầu hết đang sử dụng công nghệ cũ, lạc
hậu.

Hoạt động KHCN trong các DN được thể hiện qua việc nghiên cứu, ứng dụng và phát triển, đầu tư đổi mới công nghệ, sản phẩm,
ứng dụng quản lý chất lượng tiên tiến. Công ty cổ phần Thép Hương Thịnh, xã Hoàng Ninh (Việt Yên) là một trong những đơn vị đi
đầu trong hoạt động này. Thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2003, Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh mặt hàng ống thép đen.
Những năm gần đây, số lượng DN sản xuất thép trên thị trường ngày càng tăng, mức độ cạnh tranh gay gắt hơn nên biện pháp mà DN
hướng đến là ưu tiên nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, giai đoạn 2007-2010 đơn vị đầu tư
hơn 100 tỷ đồng lắp đặt dây chuyền sản xuất mới như máy cán nguội, tẩy rửa axít, mạ kẽm. Với công nghệ này, sản phẩm được sản xuất
theo quy trình khép kín, tiết kiệm thời gian, đáp ứng nhu cầu của khách hàng về kích cỡ, kiểu dáng. Bên cạnh đó, đơn vị cịn đa dạng
sản phẩm bằng việc đầu tư dây chuyền sản xuất băng, bỉm vệ sinh. Ơng Nguyễn Bá Ngạn, Phó Giám đốc Cơng ty cho biết: "Thông
thường chỉ cần đầu tư thiết bị trị giá hơn 1 tỷ đồng là có thể sản xuất được sản phẩm này nhưng công suất thấp, chất lượng sản phẩm
khơng cao. Xác định muốn có sản phẩm chất lượng thì phải có cơng nghệ cao nên cơng ty đầu tư hơn 50 tỷ mua công nghệ hiện đại của
liên doanh Trung Quốc - Hàn Quốc, công suất đạt 180-250 sản phẩm/phút". Tương tự Công ty cổ phần Thép Hương Thịnh, tìm hiểu tại
Cơng ty TNHH Đầu tư sản xuất và Thương mại Phú Thịnh (Khu cơng nghiệp Đình Trám) được biết, những năm qua, Cơng ty ln có
cơ chế khuyến khích đối với cơng nhân kỹ thuật có sáng tiến cải tiến mới, nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhờ đó, đội ngũ cơng nhân đã cải
tiến hệ thống giải nhiệt nước, tiết kiệm 50% lượng điện tiêu thụ so với trước.
Việc nghiên cứu, ứng dụng KHCN là đòi hỏi bức thiết đối với DN hiện nay nhưng số DN làm được như vậy chưa nhiều. Kết quả
khảo sát hoạt động KHCN trong DN của Sở Khoa học và Cơng nghệ mới đây cho thấy, nhìn chung ít DN có trình độ cơng nghệ ở mức
cao. Đa phần DN đang sử dụng công nghệ lạc hậu, nhiều máy móc, thiết bị, dây chuyền cơng nghệ cũ, mang tính chắp vá, không đồng
bộ cộng với tay nghề công nhân thấp do đó sản phẩm có sức cạnh tranh yếu trên thị trường. Trình độ quản lý của các DN chưa được đổi
mới và nâng cấp, chỉ một tỷ lệ nhỏ DN thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như: ISO, SA, HACCP.... Nguyên nhân
của tình trạng này là do phần lớn DN là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất và năng lực tài chính cịn yếu vì vậy rất khó đổi
mới công nghệ.
Hoạt động KHCN trong DN gặp nhiều trở ngại. Muốn cải tiến, sáng kiến mới cũng cần có đội ngũ công nhân kỹ thuật được đào tạo
bài bản trong khi DN nào hiện nay cũng thiếu lực lượng này. Hơn nữa, muốn đổi mới công nghệ cũng cần căn cứ vào khả năng tài chính
của DN. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp thiếu tầm nhìn, chưa mạnh dạn mở rộng hợp tác liên doanh, liên kết, chưa có chiến lược


phát triển và xây dựng thương hiệu lâu dài cho DN. Vì vậy mà khơng ít DN "an phận thủ thường" chỉ cần sản xuất gia cơng, có chút lợi
nhuận là được. Điều này cũng có nghĩa là đơn vị khó chủ động được kế hoạch sản xuất, khi trên thị trường có sản phẩm chất lượng cao
hơn, sức cạnh tranh mạnh hơn thì dễ đưa DN đến "bờ vực" giải thể.
2. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ

Trong bối cảnh hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành vấn đề sống còn mà điều đó phụ thuộc rất lớn vào năng lực cơng
nghệ của DN. Do đó, ngồi giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thì việc đầu tư đổi mới công nghệ là yếu tố rất quan
trọng. Để làm được việc này, trước hết DN cần xây dựng lộ trình đổi mới cơng nghệ phù hợp với điều kiện của mình, chủ động liên
doanh liên kết với các đơn vị khác, đồng thời áp dụng các mơ hình quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm sản phẩm được kiểm soát tốt
nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Được biết, nhằm đẩy mạnh hoạt động KHCN trong DN, Bộ Tài chính đã bàn hành Thơng
tư 15/2011/TT-BTC hướng dẫn thành lập tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng quỹ phát triển khoa học và cơng nghệ của DN. Mục
đích là nhằm tạo nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KHCN của DN thơng qua hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển, đổi mới
cơng nghệ, đổi mới sản phẩm, hợp lý hố sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của DN. Theo đó, quỹ được hình thành từ các nguồn
như: một phần từ thu nhập tính thuế thu nhập DN, một phần điều chuyển từ quỹ phát triển KHCN của tổng công ty mẹ hoặc ngược lại.
Đây là những điều kiện thuận lợi giúp các DN đẩy mạnh hoạt động KHCN, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, khẳng định vị thế
trên thị trường, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Khoa học và Công nghệ và Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đã ký chương trình
phối hợp hoạt động "Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm". Mục đích của chương trình là hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ dựa trên ứng dụng và chuyển
giao công nghệ, làm chủ các công nghệ then chốt, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng tiên tiến, công cụ cải tiến năng suất, chất lượng thích hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình cũng nghiên
cứu bổ sung, đề xuất giải pháp trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất, đổi
mới công nghệ để phát triển bền vững; khai thác hiệu quả Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ trong doanh nghiệp nhỏ và vừa để
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp; phát triển dịch vụ Khoa học và Công nghệ, tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Để thực hiện những nội dung phối hợp, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến, đề xuất hoàn thiện cơ chế
chính sách hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới cơng nghệ. Các biện pháp, chương trình khoa học công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa sẽ là cầu nối giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các chun gia cơng nghệ, nhóm nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài
nước. Bộ KH - CN sẽ thí điểm hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực cơng nghệ, đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất, nâng cao năng suất
và chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; nghiên cứu đề xuất xây dựng mơ hình mẫu về ươm tạo doanh
nghiệp khoa học và cơng nghệ.
Ngồi chương trình hỗ trợ, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cần hỗ trợ tư vấn về thiết bị, cơng nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung
cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các
doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. Thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình
thức đa dạng) trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thêm tiềm lực mới trong cơng cuộc hội

nhập quốc tế


IV. Định hướng phát triển đào tạo và ứng dụng cho doanh nghiệp trong thời gian tới
1. Mục tiêu phát triển đến năm 2020
a. Mục tiêu chung
Xây dựng DN trở thành một trung tâm khoa học và công nghệ, trong đó chú trọng nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học và năng lực
sáng tạo để tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, làm chủ cơng nghệ tiên tiến, tăng nhanh tỉ trọng đóng góp của
khoa học và cơng nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hố, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới.
b. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao (nguồn nhân lực khoa học và cơng nghệ) đáp ứng yêu cầu nghiên cứu khoa
học, tiếp thu làm chủ và sáng tạo công nghệ mới hiện đại. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, tạo
mơi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức phát huy trình độ, năng lực sáng tạo.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và các ngành sản xuất dựa trên đổi mới công nghệ, ứng dụng và phát triển cơng
nghệ cao có giá trị gia tăng cao. Lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hoạt động khoa học và công nghệ, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa
các trường Đại học, Viện, Trung tâm, các tổ chức nghiên cứu với doanh nghiệp.
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về tiềm lực khoa học và công nghệ của DN trên các mặt: năng lực và trình độ nghiên cứu khoa học,
phát triển công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hạ tầng kỹ thuật, cơ sở vật chất cho phát triển khoa học và công nghệ,
dịch vụ và thông tin khoa học - công nghệ đủ sức giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở trình độ quốc tế.
2. Nhiệm vụ
a. Đổi mới và hồn thiện cơ chế quản lý và chính sách phát triển khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho khoa
học và cơng nghệ, trong đó nâng cao tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp và xã hội hóa thu hút các nguồn lực ngồi ngân sách đầu tư
cho khoa học và cơng nghệ. Hình thành hệ thống các quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đổi mới công
nghệ thúc đẩy phát triển các ngành công nghệ cao.
b. Xây dựng chương trình đào tạo bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả, trọng dụng cán bộ khoa học và cơng nghệ, nhất là trí thức trong và
ngồi nước có trình độ chun mơn cao. Phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật trình độ cao trong các doanh nghiệp.
c. Xây dựng chương trình ứng dụng và phát triển cơng nghệ cao, tăng tỷ trọng đóng góp của cơng nghiệp cơng nghệ cao. Tiếp tục
hồn thành các cơng trình khu cơng nghệ cao, khu nơng nghiệp cơng nghệ cao, trung tâm công nghệ sinh học nhằm thu hút các dự án
đầu tư của nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.

d. Phát triển thị trường khoa học công nghệ, sớm xây dựng và đưa vào hoạt động sàn giao dịch công nghệ. Mở rộng quy mô hoạt
động và nâng cao hiệu quả các chương trình đổi mới công nghệ công nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và phát triển tài
sản trí tuệ của doanh nghiệp.
e. Chủ động hội nhập quốc tế về khoa học và cơng nghệ, chú trọng khai thác tài sản trí tuệ của các nước phát triển, đặc biệt trong lĩnh
vực công nghệ mới, công nghệ cao.
3. Một số chỉ tiêu cụ thể
a. Đầu tư cho khoa học và công nghệ từ ngân sách tăng trung bình 20% hàng năm, và huy động đầu tư từ xã hội cho khoa học và công
nghệ tăng 30% hàng năm.


b. Tỷ lệ ứng dụng các đề tài khoa học và công nghệ vào thực tế đến năm 2015 là 35% và 40% đến năm 2020. Doanh thu từ các đề tài
khoa học và công nghệ được ứng dụng đến năm 2015 là 500 tỷ đồng và là 1.000 tỷ đồng đến năm 2020.
c. Số đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích đạt bình qn 200 đơn/năm (trong đó số bằng được cấp là 50 bằng/năm) vào năm
2015 và đạt bình qn 400 đơn/năm (trong đó số bằng được cấp là 100 bằng/năm) vào năm 2020.
d. Số doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ đạt 60% với mức đầu tư chiếm 5% lợi nhuận trước thuế vào năm 2015 và đạt
70% với mức đầu tư chiếm 8% lợi nhuận trước thuế vào năm 2020.
4. Một số giải pháp
a. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
Nghiên cứu đề xuất đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và tài chính cho khoa học và cơng nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa
học và công nghệ theo hướng chú trọng đầu tư cho chất xám tạo động lực cho các tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ hoạt động
theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Thay đổi cơ cấu đầu tư thực hiện các nhiệm vụ khoa học và cơng nghệ, trong đó nâng cao tỷ lệ đầu tư kinh phí ngồi ngân sách Nhà
nước, tập trung đầu tư tạo ra công nghệ mới, sản phẩm cơng nghệ mới có hàm lượng chất xúc tác cao.
Tăng cường cơ chế đặt hàng nhằm huy động và thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngồi nước tham gia tích cực giải
quyết những vấn đề bức xúc và các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh công tác phổ biến, chuyển giao và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tế. Xây dựng các tiêu chí đánh giá
hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với thông lệ quốc tế.
b. Đẩy mạnh đổi mới cơng nghệ, phát triển và hồn thiện thị trường công nghệ:
Xây dựng đề án ứng dụng và phát triển cơng nghệ cao trong đó tập trung hỗ trợ, tài trợ để khuyến khích nhập khẩu cơng nghệ tiên
tiến, giải mã, làm chủ và nội địa hóa công nghệ nhập.

Mở rộng quy mô và phương thức thực hiện chương trình đổi mới cơng nghệ cơng nghiệp. Tăng cường sự liên kết hợp tác giữa các
trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp theo chủ trương lấy doanh nghiệp làm trung tâm cho hoạt động khoa học và công
nghệ.
c. Tăng cường đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, thực hiện các cơ chế chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, đãi ngộ và tơn vinh trí thức về khoa học và cơng nghệ.
Hồn thành đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác hiệu quả khu công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao, trung tâm công nghệ
sinh học, Trung tâm Thiết kế Chế tạo Thiết bị mới Neptech, Viện Khoa học và Cơng nghệ Tính tốn, Trung tâm Dịch vụ Phân tích &
Thí nghiệm,…
Tiếp tục đầu tư và khai thác hiệu quả các vườn ươm doanh nghiệp tại các trường đại học, khu công nghệ cao, khu phần mềm … nhằm
hình thành đến năm 2015 từ 250 - 300 doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Hỗ trợ các trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị này giải quyết các vấn đề bức xúc cũng như đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho thành phố.
Xây dựng đề án chính sách hỗ trợ cán bộ khoa học kỹ thuật nâng cao trình độ chun mơn và tăng cường hợp tác quốc tế.
Triển khai đề án “Đổi mới cơ chế chính sách thu hút và sử dụng trí thức khoa học cơng nghệ trong và ngồi nước phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội”.


V. Kết luận
Trong nền kinh tế tri thức, kỹ thuật- công nghệ mới là một trong những động lực quan trọng, phát triển mạnh mẽ, sôi động, tác động
nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Ứng dụng, phát triển CN mới tốt sẽ góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới, tạo nên bước
chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, cải tiến chất
lượng, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đây là mối quan tâm không riêng của DN mà cịn của các cơ quan chun mơn và nhà
quản lý. Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nói chung, CNTT nói riêng trong sản xuất, kinh doanh là vấn đề sống còn đối
với mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ thông tin là loại cải tiến có tính cơng nghệ, nó có thể thâm nhập vào mọi ngành,
mọi lĩnh vực, làm thay đổi căn bản cả quá trình lẫn sản phẩm, cả mặt cung và những đòi hỏi của cầu. Các doanh nghiệp cần phải nhận
thức về khả năng áp dụng của công nghệ thông tin. Phải tạo ra các điều kiện tổ chức tốt hơn và chú ý đến việc phát triển tầm nhìn chiến
lược về các áp dụng có thể của cơng nghệ thơng tin, khơng chỉ trong chính các doanh nghiệp mà cịn cả trong mạng lưới. Hơn nữa, các
chính sách hỗ trợ của các tổ chức trung gian như các tổ chức chun mơn ngành và chính phủ cũng rất cần thiết.
Trong bối cảnh hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành vấn đề sống còn mà điều đó phụ thuộc rất lớn vào năng lực cơng

nghệ của DN. Do đó, ngồi giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại thì việc đầu tư đổi mới công nghệ là yếu tố rất quan
trọng. Để làm được việc này, trước hết DN cần xây dựng lộ trình đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện của mình, chủ động liên
doanh liên kết với các đơn vị khác, đồng thời áp dụng các mơ hình quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm sản phẩm được kiểm soát tốt
nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao (nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ) đáp ứng yêu cầu nghiên cứu khoa học, tiếp thu làm chủ và sáng tạo công nghệ mới hiện đại. Chú trọng cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức phát huy trình độ, năng lực sáng
tạo. Cần tập trung cho các giải pháp về nhân lực và đầu tư tài chính cho KH và CN. Ðây là hai điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi các
nhiệm vụ KH và CN.



×