Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT U LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG NỘI SOI QUA NIỆU ĐẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.96 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT U LÀNH TÍNH  
TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG NỘI SOI QUA NIỆU ĐẠO 
Nguyễn Trường An* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu Nghiên cứu nhằm khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, đánh giá độ trầm trọng của u lành tính 
tuyến tiền liệt và kết quả phẫu thuật cắt u lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi qua niệu đạo dựa theo điểm 
IPSS, QoL. 
Đối tượng nghiên cứu gồm 36 bệnh nhân được chẩn đoán u lành tính tiền liệt tuyến có xác nhận bằng kết 
quả giải phẫu bệnh lý sau mổ, thời gian từ tháng 4/2007 đến tháng 3/2008 tại Khoa Ngoại Bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế. 
Phương  pháp  nghiên  cứu  tiến  cứu  mô  tả.  Đánh  giá  lâm  sàng  trước,  trong  và  sau  mổ  theo  thang điểm 
IPSS, QoL, QTB. Đánh giá khối lượng u lành tính tuyến tiền liệt bằng siêu âm trên xương mu. Đánh giá kết 
quả phẫu thuật theo tiêu chuẩn của Yukio Homma và cs ở các thời điểm trước, sau mổ và tái khám sau 3 tháng. 
Kết quả: Tuổi trung bình 73,56 ± 8,06 tuổi (53‐89), 69,5% bệnh nhân trên 70 tuổi. Tất cả bệnh nhân đều 
có điểm IPSS trước mổ >20 điểm, trung bình IPSS trước mổ là 30,31 ± 3,15 (24‐33). 35/36 bệnh nhân sau mổ và 
khi tái khám có điểm IPSS < 8, 1 trường hợp có điểm IPSS 16. Trung bình IPSS sau mổ và khi tái khám theo thứ 
tự là 6,57 ± 0,92 và 4,74 ± 2,56. Tất cả bệnh nhân có điểm chất lượng cuộc sống QoL trước mổ > 5, điểm trung 
bình QoL trước mổ, sau mổ và khi tái khám lần lượt là 5,69 ± 2,02; 2,03 ± 0,61 và 1,23 ± 0,55. Lưu lượng dòng 
tiểu trung bình QTB trước mổ và khi ra viện lần lượt là 1,63 ± 1,80 ml/s và 9,42 ± 1,85 ml/s (6 – 13,7 ml/s). 
Khối lượng trung bình tuyến tiền liệt theo siêu âm là 55,94 ± 22,47 gam (21‐110 gam). Thời gian phẫu thuật 
trung bình là 61,39 ± 24,04 phút (40‐140 phút), 75% bệnh nhân có thời gian phẫu thuật trong vòng 60‐90 phút. 
Lượng dịch súc rửa trung bình trong mổ là 20,7 ± 2,93 lít (17‐23 lít). Biến chứng sau mổ 1 trường hợp chảy 
máu (2,8%) phải can thiệp lại. Kết quả chung sau mổ có 61,6% rất tốt, 32,5% tốt, 5,9% khá, không có kết quả 
kém. Số ngày nằm viện sau phẫu thuật trung bình là 5 ± 1,88 ngày (3‐7 ngày). 
Kết luận: Phẫu thuật cắt u lành tính tuyến tiền liệt nội soi qua niệu đạo là phẫu thuật an toàn, tỷ lệ biến 
chứng thấp, ngày nằm viện ngắn, và kết quả chủ yếu là tốt. 



SUMMARY 
EVALUATION THE RESULTS OF TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE 
Nguyen Truong An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2008: 187 ‐ 192 
The purpose of this study is to evaluate the gravity of symptomatology of benign prostatic hyperplasia and 
the results of TURP based on IPSS, QoL. 
Materials and methods: Design of study as prospective and cross‐sectional. We perfomed TURP for 36 
patients of BPH in The Surgical Department of Hospital of Hue College of medicine and pharmacy. We evaluate 
the symptomatology and outcomes of TURP after IPSS, QoL, Q average pre‐postoperative and follow up at 3 
months. The evaluation based on criteria of Yukio Homma et al. 
Results: The mean age of patients was 73.56 ± 8.06 y (53‐89 y). 100% of patients had IPSS>20, QoL> 5. 
The means IPSS pre, post‐op and at 3 months were 30.31 ± 3.15 (24‐33), 6.57 ± 0.92 and 4.74 ± 2.56. The means 
of QoL pre, post‐op and at 3 months were 5.69 ± 2.02; 2.03 ± 0.61 và 1.23 ± 0.55. The means of Qaverage pre and 
post‐op were 1.63 ± 1.80 ml/s and 9.42 ± 1.85 ml/s (6 – 13.7 ml/s). The mean weight of prostate was 55.94 ± 
*Khoa Ngoại – BV Trường ĐH Y Dược Huế

Chuyên Đề Ngoại Chuyên Ngành – Ngoại Niệu  

187


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

22.47g  (21‐110g).  The  mean  time  of  operation  was  61.39  ±  24.04  (40‐140  minutes).  The  mean  volume  of 
irrigative fluid was 20.7 ± 2.93 (17‐23 litres). The complication post‐op was 1 cas (2,8%) of haemorrhage and the 
patient must be reoperated. The general results were 61.6% very good, 32.5% good, 5.9% medium. The mean 
days in hospital was 5 ± 1.88 (3‐7days). 
Conclusion: TURP is a safety operation with minimum complication, the day in hospital is short and the 

general results are good.  

ĐẶT VẤN ĐỀ 

Phương pháp nghiên cứu 

U lành tính tuyến tiền liệt là bệnh lý thường 
gặp ở nam giới lớn tuổi. Theo thống kê của Wei 
và cộng sự, ở Mỹ bệnh chiếm tỷ lệ 75% nam giới 
trong  tuổi  70‐80(13).  Ở  Việt  Nam,  tỷ  lệ  bệnh  u 
lành tính tuyến tiền liệt là khoảng 50% nam giới 
trên  50  tuổi  theo  nghiên  cứu  của  Trần  Đức 
Hòe(5). Điều trị ngoại khoa cho bệnh u lành tính 
tuyến  tiền  liệt  dành  cho  những  trường  hợp  có 
biến chứng và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng 
cuộc  sống  của  bệnh  nhân.  Từ  năm  2003,  Bệnh 
viện  Trường  Đại  học  Y  Dược  Huế  đã  bắt  đầu 
triển khai phẫu thuật cắt u lành tính tuyến tiền 
liệt bằng nội soi qua niệu đạo với kết quả bước 
đầu khả quan song cho đến hiện nay vẫn chưa 
có  đánh  giá  cụ  thể.  Mục  tiêu  của  đề  tài  này 
nhằm khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, đánh 
giá  độ  trầm  trọng  của  bệnh  u  lành  tính  tuyến 
tiền liệt bằng thang điểm IPSS, QoL và kết quả 
phẫu thuật cắt u lành tính bằng nội soi qua niệu 
đạo tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Gồm  36  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  u  lành 

tính tuyến tiền liệt, điều trị tại Khoa Ngoại bệnh 
viện  Trường  Đại  học  Y  Dược  Huế  trong  thời 
gian từ tháng 4/2007 đến tháng 3/2008. 
Tiêu  chuẩn  chọn  bệnh  nhân:  U  lành  tính 
tuyến  tiền  liệt  có  biến  chứng  (bí  tiểu  cấp  hoặc 
mạn, nhiễm trùng đường tiểu tái đi tái lại nhiều 
lần, sỏi bàng quang, dãn đường tiểu trên, điểm 
IPSS  >  8…),  u  lành  tính  gây  ảnh  hưởng  nhiều 
đến chất lượng cuộc sống (điểm QoL >3). Có kết 
quả  giải  phẫu  bệnh  lý  sau  mổ  xác  nhận  u  lành 
tính của tuyến tiền liệt. 

188

Thiết  kế  nghiên  cứu  theo  kiểu  tiến  cứu  mô 
tả. 
Đánh giá trước mổ, trong mổ và sau mổ bao 
gồm:  Đánh  giá  độ  trầm  trọng  của  triệu  chứng 
bệnh theo thang điểm IPSS, QoL. Đánh giá khối 
lượng tuyến tiền liệt dựa vào đo kích thước bằng 
siêu  âm  trên  xương  mu,  đồng  thời  đo  thể  tích 
nước  tiểu  tồn  dư  sau  đái  (PVR).  Đo  lưu  lượng 
dòng tiểu trung bình. Ghi nhận thời gian mổ, các 
tai biến trong mổ và biến chứng sau mổ. 
Phương  tiện,  dụng  cụ:  máy  cắt  nội  soi  hiệu 
Storz  24  Fr,  dao  điện  Bechtold.  Dịch  rửa  trong 
mổ là dung dịch sorbitol 1%, bình chứa dịch rửa 
đặt  cao  hơn  bàn  mổ  60cm.  Dụng  cụ  súc  rửa 
Ellik. 
Kỹ  thuật  mổ:  Soi  từ  niệu  đạo  vào  bàng 

quang, nhận định ụ núi, các thùy của tuyến tiền 
liệt,  cổ  bàng  quang,  2  lỗ  niệu  quản,  đánh  giá 
niêm mạc bàng quang. Khởi đầu bằng cắt thùy 
giữa từ vị trí 5‐7 giờ ở cổ bàng quang đến ụ núi, 
cắt tuần tự sâu dần cho đến khi thấy các thớ vỏ 
của tuyến. Tiếp tục cắt thùy phải, cũng tuần tự 
từ  cổ  bàng  quang  ở  vị  trí  11‐7  giờ  ở  cổ  bàng 
quang,  hướng  về  phía  ụ núi; tương tự  cắt thùy 
trái ở vị trí 1‐5 giờ ở cổ bàng quang hướng về ụ 
núi.  Kiểm  tra  tổng  quát  lô  tuyến  và  hoàn  thiện 
các  vết  cắt  cũng  như  cầm  máu.  Hút  sạch  các 
mảnh  cắt  trong  lòng  bàng  quang,  rút  máy,  đặt 
Foley có hai đường súc rửa bàng quang liên tục. 
Đánh giá kết quả phẫu thuật khi ra viện và 
khi  tái  khám  (sau  3  tháng)  theo  tiêu  chuẩn  của 
Yukio Homma(12). 

KẾT QUẢ 
Trong  thời  gian  từ  tháng  3/2007  đến  tháng 
4/2008,  tại  Khoa  Ngoại  bệnh  viện  Trường  Đại 
học  Y  Dược  Huế  đã  phẫu  thuật  cắt  tuyến  tiền 

Hội Nghị Ngoại Khoa Và Phẫu Thuật Toàn Quốc Năm 2008 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 
liệt nội soi qua niệu đạo cho 36 bệnh nhân tuổi 
từ 53 đến 89, tuổi trung bình 73,56 ± 8,06. 
Lý do vào viện: Hơn một nửa số trường hợp 
vào  viện  bì  bí  tiểu  cấp  (52,8%),  số  còn  lại  là  do 

rối loạn tiểu tiện. Trong số 19 trường hợp bí tiểu 
cấp  có  18  trường  hợp  được  đặt  thông tiểu và 1 
trường hợp dẫn lưu bàng quang trên xương mu. 
Triệu  chứng  lâm  sàng  bao  gồm  tiểu  khó 
(100%),  tiểu  đêm  nhiều  lần  (91,7%),  tiểu  buốt 
tiểu rắt (80,5%), tiểu không kiểm soát (11,1%), 
cảm  giác  tiểu  không  hết  (88,9%),  tiểu  ngắt 
quãng (86,1%). 
Có 9 trường hợp có bệnh lý kèm theo (4 tăng 
huyết áp, 2 đái đường, 2 thoát vị bẹn, 1 trĩ), và 10 
trường hợp có bệnh lý của hệ tiết niệu (2 u bàng 
quang, 2 sỏi bàng quang, 3 sỏi thận, 2 nang thận, 
1 suy thận).  
Có  4  trường  hợp  cấy  nước  tiểu  dương  tính 
trong đó 3 trường hợp là E. Coli và 1 trường hợp 
Staphylococcus  aureus,  cả  4  trường  hợp  đều có 
số lượng khuẩn lạc >105/ml nước tiểu, được điều 
trị theo kháng sinh đồ cho đến khi nước tiểu vô 
khuẩn mới phẫu thuật. 
Khối  lượng  trung  bình  tuyến  tiền  liệt  theo 
siêu âm là 55,94 ± 22,47 gam, nhỏ nhất 21 gam và 
lớn nhất 110 gam. 
Thể tích cặn bàng quang trung bình là 53,59 
± 38,56 ml. 
Bảng 1. Một số chỉ số trước mổ 
Số BN
Tuổi
IPSS
QoL
Trọng lượng

TTL(g)
PVR (ml)
QTB (ml/s)

36
36

Biên độ Ghi chú
69,5% > 70
73,56 ± 8,06 53 - 89
tuổi
30,31 ± 3,15 24 - 33 100% > 20
5,69 ± 2,02
5 - 6 100% > 5

36

55,94 ± 22,47 21 - 110

17
17

53,59 ± 38,56 10 - 250
1,63 ± 1,80 1,2 - 6

36

X ± SD

Bảng 2. Thời gian mổ và lượng dịch súc rửa trong 

mổ 
Số BN
Thời gian mổ
(phút)
Lượng dịch rửa
(lít)

36
36

X ± SD
61,39 ±
24,04

Biên độ

Ghi chú
75% 60-90
40 - 140
phút
77,8% 20-25
20,7 ± 2,93 17 - 23
lít

Nghiên cứu Y học

34 bệnh nhân được gây tê tủy gai (94,4%), 2 
bệnh  nhân  được  gây  mê  nội  khí  quản  (5,6%). 
Thời gian phẫu thuật trung bình là 61,39 ± 24,04 
phút,  ngắn  nhất  40  phút  và  dài  nhất  140  phút, 

75%  bệnh  nhân  có  thời  gian  phẫu  thuật  trong 
vòng 60‐90 phút. Lượng dịch súc rửa trung bình 
trong mổ là 20,7 ± 2,93 lít, thấp nhất là 17 lít và 
cao nhất là 23 lít. 
Về  tai  biến  và  biến chứng, chúng tôi không 
gặp trường hợp nào bị hội chứng nội soi, có 01 
trường  hợp  (2,8%)  chảy  máu  kéo  dài  sau  mổ, 
dịch  rửa  tiếp  tục  đỏ  sẫm  và  hồng  cầu,  Hb  hạ 
thấp,  được  xử  trí  chuyền  máu  và  đưa  trở  lại 
phòng mổ đặt máy và cầm máu, diễn tiến thuận 
lợi sau đó. 
Tất cả bệnh nhân đều có điểm IPSS trước mổ 
>20  điểm,  trung  bình  IPSS  trước  mổ  là  30,31  ± 
3,15;  thấp  nhất  24  và  cao  nhất  33.  35/36  bệnh 
nhân sau mổ và khi tái khám có điểm IPSS < 8, 1 
trường  hợp  có  điểm  IPSS  16.  Trung  bình  IPSS 
sau mổ và khi tái khám theo thứ tự là 6,57 ± 0,92 
và  4,74  ±  2,56.  Tất  cả  bệnh  nhân  có  điểm  chất 
lượng cuộc sống QoL trước mổ > 5, điểm trung 
bình QoL trước mổ, sau mổ và khi tái khám lần 
lượt là 5,69 ± 2,02; 2,03 ± 0,61 và 1,23 ± 0,55.  
Lưu lượng dòng tiểu trung bình trước mổ và 
khi ra viện lần lượt là 1,63 ± 1,80 ml/s và 9,42 ± 
1,85 ml/s (6 – 13,7 ml/s). 
Bảng 3. So sánh IPSS, QoL, QTB trước và sau mổ 
Chỉ tiêu Phân loại
IPSS

QoL


QTB

0-7
8 - 19
20 - 35
1-2
3-4
5-6
Bí tiểu
<5
5 – 10
> 10

Trước mổ
Sau mổ
Số BN Tỷ lệ % Số BN Tỷ lệ %
0
0
30
83,3
0
0
6
16,7
36
100
0
0
0
0

29
80,6
0
0
7
19,4
36
100
0
0
19
52,8
0
0
17
47,2
0
0
0
0
24
66,7
0
0
12
33,3

Bảng 4. Kết quả tái khám 3 tháng sau mổ 
Phân loại
Tốt

Khá

Chuyên Đề Ngoại Chuyên Ngành – Ngoại Niệu  

Số BN
31
2

IPSS
Tỷ lệ %
93,9
6,1

Số BN
33
0

QoL
Tỷ lệ %
100
0

189


Nghiên cứu Y học 
Phân loại
Xấu
Tổng


Số BN
0
33

IPSS
Tỷ lệ %
0
100

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

Số BN
0
33

QoL
Tỷ lệ %
0
100

Bảng 5. Đánh giá kết quả phẫu thuật (IPSS và QoL 
sau 3 tháng, QTB sau mổ) 
IPSS sau
QoL trước QTB sau mổTổng
mổ/trước mổ mổ-sau mổ
trước mổ
hợp
N = 33
N = 33
N = 17

31
30
Rất tốt
< 0,25
>4
> 10
0
(93,9%)
(90,9%)
(61,6%)
2
3
Tốt
0,2614
3
5-9,9
0,5
(82,4%)
(6,1%)
(9,1%)
(32,5%)
3
Khá
0,512,50
2, 1
0
0,75
4,9 (17,6%) (5,9%)
(0 %)
>0,75

0
<0
0
< 2,5
0
Kém

Số ngày nằm viện sau phẫu thuật trung bình 
là 5 ± 1,88 ngày (3‐7 ngày). 

BÀN LUẬN 
Về độ tuổi của bệnh nhân phần lớn là trên 70 
tuổi, có 25/36 bệnh nhân trên 70 tuổi chiếm tỷ lệ 
69,5%,  trong  đó  tuổi  trên  80  có  8  bệnh  nhân 
(22,2%).  Độ  tuổi  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu 
này cũng tương đương với các nghiên cứu trong 
nước (1,3,7). Đối với bệnh nhân trên 80 tuổi, chúng 
tôi lựa chọn phẫu thuật nếu thể trạng tốt, không 
có  bệnh  lý  kèm  theo  hoặc  có  ở  mức  độ  nhẹ  và 
được  điều  chỉnh  về  mức  gần  như  bình  thường 
trước  mổ.  Điều  này  cũng  phù  hợp  với  nghiên 
cứu của Nguyễn Hoàng Đức và cs cho rằng cắt u 
lành tính tuyến tiền liệt nội soi qua niệu đạo có 
thể  áp  dụng  một  cách  an  toàn  cho  bệnh  nhân 
trên 80 tuổi(4). 
Có  19/36  bệnh  nhân  (52,8%)  vào  viện  vì  bí 
tiểu  cấp  tính,  100%  bệnh  nhân  có  điểm  IPSS 
trong  nhóm  nặng  với  điểm  trung  bình  30,31  ± 
3,15. So với các nghiên cứu của Nguyễn Hoàng 
Đức điểm IPSS trung bình là 26 ± 45, nghiên cứu 

của Đỗ Tiến Dũng trên 54 bệnh nhân có 9 trong 
nhóm trung bình (8‐19 điểm) và 45 trong nhóm 
nặng  (20‐35  điểm);  bệnh  nhân  của  chúng  tôi  ở 
mức  độ  nặng  hơn,  điều  này  chứng  tỏ  số  bệnh 
nhân này đã mắc bệnh trong một thời gian khá 
dài và không có một điều trị nào thích đáng. 

residual  urine  –  PVR),  thể  tích  trung  bình  của 
nhóm bệnh nhân này là 53,59 ± 38,56 ml. Chúng 
tôi chỉ thực hiện đo thể tích này ở 17 bệnh nhân. 
Theo  McConnell,  thể  tích  nước  tiểu  sau  đái 
không có tương quan với các dấu hiệu và triệu 
chứng  của  hội  chứng  tiền  liệt,  và  không  chứng 
tỏ  có  tổn  thương  thận  hoặc  bàng  quang;  cũng 
không  có  giá  trị  dự  đoán  kết  quả  phẫu  thuật(8). 
Vì vậy chúng tôi chỉ sử dụng thể tích này như là 
một chỉ số để theo dõi ở những bệnh nhân chưa 
phẫu thuật. 
Về lưu lượng dòng tiểu trước mổ, chúng tôi 
chỉ  thực  hiện  đo  trên  17  bệnh  nhân  với  lượng 
nước tiểu > 150ml do có 19 bệnh nhân bí tiểu cấp 
phải đặt thông tiểu. Kết quả lưu lượng dòng tiểu 
trung  bình  là  thấp  so  với  các  nghiên  cứu  khác, 
trung  bình  là 1,63 ± 1,80 ml/s. Theo Chancellor, 
lưu  lưu  lượng  dòng  tiểu  không  có  giá  trị  để 
phân  biệt  giữa  tắc  nghẽn  lỗ  ra  bàng  quang 
(BOO) với suy cơ detrusor(9). Chúng tôi không có 
điều kiện làm xét nghiệm niệu động học, nhưng 
kết  hợp  với  triệu  chứng  lâm  sàng  cũng  như 
đánh  giá  theo  điểm  IPSS,  chỉ  định  mổ  trong 

những  trường  hợp  này  là  hợp  lý.  Sự  cải  thiện 
lưu lượng dòng tiểu trung bình sau mổ cho thấy 
kết quả là khả quan đã khẳng định lại điều này, 
trung  bình  của  lưu  lượng  dòng  tiểu  sau  mổ  là 
9,42 ± 1,85 ml/s. 
Về  kỹ  thuật  phẫu  thuật,  chúng  tôi  đồng  ý 
với chủ trương không cần cắt bỏ tối đa mô tuyến 
trong  trường  hợp  u  lành  tính  quá  lớn  >80  gam 
mà chỉ cần tạo một đường thông đủ rộng từ cổ 
bàng quang đến ụ núi, một mặt là do thời gian 
phẫu thuật hạn chế, mặt khác chúng tôi sử dụng 
máy  cắt  24  Fr  với  chỉ  một  đường  súc  rửa  càng 
làm hạn chế hơn về thời gian. Đa số các tác giả 
đều thống nhất thời gian phẫu thuật nên ở mức 
< 90 phút để hạn chế biến chứng hội chứng nội 
soi. Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Đức và Đào 
Quang  Oánh  cũng  như  một  số  tác  giả  nước 
ngoài  cho  rằng  không  có  sự  tương  quan  giữa 
khối lượng mô tuyến cắt bỏ với sự cải thiện triệu 
chứng lâm sàng(2). Chúng tôi không có điều kiện 
để  đánh  giá  khối  lượng  mô  tuyến  cắt  bỏ  được, 

Về  thể  tích  nước  tiểu  sau  đái  (Postvoid 

190

Hội Nghị Ngoại Khoa Và Phẫu Thuật Toàn Quốc Năm 2008 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 

nhưng  sự  cải  thiện  rõ  về  triệu  chứng  trong  số 
bệnh nhân của chúng tôi sau mổ cũng hoàn toàn 
phù hợp với kết quả của các tác giả nói trên. Đối 
với kỹ thuật cắt thùy bên, chúng tôi tiến hành từ 
trên xuống (thường ở vị trí 11 giờ bên phải và 1 
giờ bên trái) và từ cổ bàng quang về phía ụ núi. 
Chúng tôi không có trường hợp nào phải cắt mô 
tuyến ở vị trí 12 giờ, theo các tác giả đây là vị trí 
dễ bị tổn thương cơ thắt vân nhiều nhất khi cắt 
gần về phía ụ núi. Chính nhờ để lại vị trí 12 giờ 
chúng  ta  có  thể  hạn  chế  được  biến  chứng  tổn 
thương  cơ  thắt  vân  trong  phẫu  thuật  này. 
Turner  –Warwich  phân  chia  cơ  thắt  thành  3 
vùng:  (1)  vùng  kế  cận  ụ  núi,  (2)  vùng  từ  ụ  núi 
đến  vỏ  tuyến  và  (3)  vùng  bên  ngoài  vỏ  tuyến. 
Tổn  thương  của  vùng  2  và  vùng  3  sẽ  dẫn  đến 
tình trạng tiểu không tự chủ đáng kể (10). Shah và 
cs nhận thấy có 10‐20% mô tuyến tiền liệt vượt 
quá ụ núi, vì vậy nên để lại một vành mô tuyến 
sát  ụ  núi  để  tránh  tổn  thương  cơ  thắt  (11).  Tôn 
trọng  chặt  chẽ  các  yếu  tố  này,  chúng tôi không 
gặp  biến  chứng  tiểu  không  tự  chủ  trong  nhóm 
bệnh của chúng tôi. 
Chúng tôi có một trường hợp chảy máu kéo 
dài sau mổ phải truyền máu và đưa trở lại cầm 
máu  tại  phòng  mổ,  phát  hiện  một  điểm  chảy 
máu ở vị trí 2 giờ gần cổ bàng quang. Chúng tôi 
cho rằng những mạch máu ở phần trước của lô 
tuyến  rất  dễ  bị  bỏ  sót,  vì  vậy  cần  kiểm  tra  cẩn 
thận phần này trước khi quyết định ngưng phẫu 

thuật,  ngoài  ra  sau  khi  đặt  thông  tiểu  súc  rửa 
cũng phải theo dõi ít nhất là 5 phút. 
Trong số bệnh nhân được phẫu thuật có 2 u 
bàng quang được cắt bỏ đồng thời, 2 trường hợp 
sỏi bàng quang được lấy sỏi qua một đường mổ 
nhỏ  trên  xương  mu,  sau  đó  được  đặt  dẫn  lưu 
bàng quang và tiến hành cắt u lành tính nội soi 
qua niệu đạo ngay sau đó. Cả 4 trường hợp đều 
có diễn biến sau mổ thuận lợi. 
Về  kết  quả  của  phẫu  thuật,  ở  thời  điểm  3 
tháng sau mổ, chúng tôi có 93,9% điểm IPSS và 
100%  điểm  QoL  là  tốt,  6,1%  điểm  IPSS  là  khá, 
không  có  bệnh  nhân  nào  có  kết  quả  xấu.  Đánh 
giá theo tiêu chuẩn của Yukio Homma và cs  (12), 

Nghiên cứu Y học

chúng tôi không đo được lưu lượng dòng tiểu ở 
thời điểm 3 tháng sau mổ, vì vậy chúng tôi tạm 
đánh giá bằng chỉ số QTB khi bệnh nhân ra viện, 
tổng hợp các tiêu chuẩn IPSS, QoL, QTB chúng 
tôi  có  61,6%  rất  tốt,  32,5%  tốt,  5,9%  khá,  không 
có kết quả kém. 

KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  36  bệnh  nhân  được  phẫu 
thuật cắt u lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi 
qua niệu đạo trong thời gian từ tháng 4/2007 đến 
tháng  3/2008  tại  Bệnh  viện  Trường  Đại  học  Y 
Dược Huế, chúng tôi có kết luận sau: 

Phần lớn bệnh nhân đều ở giai đoạn muộn, 
điểm trung bình IPSS và QoL trước mổ là 30,31 ± 
3,15 và 5,69 ± 2,02. Một trường hợp phẫu thuật 
có biến chứng chảy máu chiếm tỷ lệ 2,8%. Ngày 
nằm viện trung bình 5 ± 1,88 ngày (3‐7 ngày). 
Kết quả chung của phẫu thuật dựa trên điểm 
IPSS,  QoL  và  QTB  có  các  tỷ  lệ  61,6%  rất  tốt, 
32,5% tốt, 5,9% khá, không có kết quả kém. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Đỗ Tiến Dũng, Phạm Thạnh và cs. Kết quả bước đầu điều trị 
bướu lành tính tuyến tiền liệt bằng cắt đốt nội soi tại bệnh viện 

Quy Nhơn. Y Học TP Hồ Chí Minh, tập 7 – 2003, tr. 50‐55. 
Nguyễn Hoàng Đức, Đào Quang Oánh. Mối tương quan giữa 
khối lượng mô tiền liệt tuyến cắt qua nội soi với sự cải thiện 
triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân bướu lành tiền liệt tuyến. Y 
học TP Hồ Chí Minh, tập 7 – 2003, tr. 56‐61. 
Nguyễn Hoàng Đức, Dương Quang Trí. Sự thay đổi của niệu 
dòng đồ sau cắt đốt nội soi bướu lành tiền liệt tuyến. Y học TP 
Hồ Chí Minh, tập 8 – 2004, tr. 150‐159. 
Nguyễn  Hoàng  Đức,  Nguyễn  Minh  Quang,  Vũ  Lê  Chuyên. 
Tính  an  toàn  của  phẫu  thuật  cắt  tuyến  tiền  liệt  nội  soi  cho 
những bệnh nhân trên 80 tuổi. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 8 – 
2004, tr. 160‐166. 
Trần Đức Hòe. Một số kết quả điều tra dịch tể học u tiền liệt 
tuyến.  Hội  nghị  khoa  học  chuyên  ngành  ngoại  khoa  Bệnh 
viện Việt Đức 12/1996, tr. 104‐105. 
Đào Quang Oánh, Nguyễn Hoàng Đức. Tổng quan về các kỹ 
thuật cắt tiền liệt tuyến qua ngã niệu đạo. Y học TP Hồ Chí 
Minh, tập 6 – 2002, tr. 19‐24. 
Nguyễn Bửu Triều và cs. Kết quả bước đầu của phương pháp 
cắt nội soi u lành tính tiền liệt tuyến. Ngoại khoa tập XIII, số 
4/1985, tr. 97‐99. 
McConnell  JD,  Barry  MJ,  Bruskewitz  RC,  et  al:  Benign 
Prostatic  Hyperplasia:  Diagnosis  and  Treatment.  Clinical 
Practice Guideline. No. 8. (AHCPR publication No. 94‐0582.) 
Rockville, Md, Agency for Health Care Policy and Research, 
Public Health Service, U.S. Department of Health and Human 
Services, 1994. 
Chancellor  MB,  Blaivas  JG,  Kaplan  SA,  et  al:  Bladder  outlet 

Chuyên Đề Ngoại Chuyên Ngành – Ngoại Niệu  


191


Nghiên cứu Y học 

10.

11.

192

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008

obstruction versus impaired detrusor contractility: The role of 
uroflow. J Urol 1991;145;810–812. 
Turner‐Warwick  R:  The  sphincter  mechanism:  Their 
relationship  to  prostatic  enlargement  and  its  treatment.  In 
Hinman F Jr (ed): Benign Prostatic Hypertrophy. New York, 
Springer‐Verlag, 1983, pp 809–828. 
Shah  PJR,  Abrams  PH,  Feneley  RCL,  et  al:  The  influence  of 
prostatic  anatomy  on  the  differing  results  of  prostatectomy 
according to the surgical approach. Br J Urol 1979;51:549–551. 
 

12.

13.

Yukio  Homma,  Kazuki  Kawabe,  Taiji  Tsukamoto,  Osamu 

Yamaguchi,  Kiyoki  Okada,  Yoshio  Aso,  Hiroki  Watanabe, 
Eigoro  Okajima,  Joichi  Kumazawa,  Takuhiro  Yamaguchi, 
Yasuo  Ohashi. Estimate Criteria for Efficacy of Treatment in 
Benign  Prostatic  Hyperplasia.  International  Journal  of 
Urology, 1996; pp.267‐273.  
Wei  JT,  Calhoun  E,  Jacobsen  SJ.  2005.  Urologic  diseases  in 
America  project:  benign  prostatic  hyperplasia.  J  Urol, 
173:1256–61. 

Hội Nghị Ngoại Khoa Và Phẫu Thuật Toàn Quốc Năm 2008 



×