Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TỔ CHỨC của VIỆN KIỂM sát NHÂN dân và VIỆN CÔNG tố của một số nước TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.59 KB, 22 trang )

TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ VIỆN CÔNG TỐ CỦA MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.3.1. Viện kiểm sát Cộng hòa Liên bang Nga
Trước đây, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát ở Liên Xô có vị trí độc lập, với
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan hành pháp, tổ
chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội và hệ thống Tòa án. Mục đích của việc thực
hiện chức năng kiểm sát là để đảm bảo pháp luật được tuân thủ, thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Từ đó, cấu trúc của Viện kiểm sát Nga về cơ bản được giữ
nguyên cho đến ngày hôm nay và được khẳng định trong các Hiến pháp năm 1936,
1977, 1993 và Luật Liên bang về Viện kiểm sát Liên bang Nga năm 1995.
Hệ thống Viện kiểm sát Liên bang Nga gồm có: Viện kiểm sát trung ương
Liên bang Nga; Viện kiểm sát các chủ thể thuộc Liên bang Nga và cấp tương
đương; Viện kiểm sát các thành phố, quận, huyện và các Viện kiểm sát ngang cấp
với chúng; các Viện kiểm sát chuyên trách như Viện kiểm sát trong lĩnh vực giao
thông, Viện kiểm sát bảo vệ môi trường….
Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga do Tổng kiểm sát trưởng Liên
bang Nga lãnh đạo. Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga do Hội đồng Liên bang
bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Giúp việc cho
Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga có một Phó Tổng kiểm sát trưởng thứ nhất và
một số Phó Tổng kiểm sát trưởng. Trong Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga
thành lập Ủy ban kiểm sát. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát trung ương Liên bang
Nga là cơ quan tư vấn. Trong cơ cấu Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga gồm
có: các tổng cục, các cục, các vụ, viện và các phòng, ban chức năng.
Viện kiểm sát các chủ thể thuộc Liên bang Nga và cấp tương đương do
kiểm sát viên các nước cộng hòa, các vùng, khu vực, thành phố trực thuộc liên
bang, các vùng tự trị, các khu vực tự trị và cấp tương đương lãnh đạo. Giúp việc


cho kiểm sát viên các nước cộng hòa, các vùng, khu vực, thành phố trực thuộc liên
bang, các vùng tự trị, các khu vực tự trị và cấp tương đương có một cấp phó thứ


nhất và một số cấp phó khác. Tương tự như cơ cấu Viện kiểm sát trung ương Liên
bang Nga, trong cơ cấu của Viện kiểm sát các chủ thể thuộc Liên bang Nga và cấp
tương đương có Ủy ban kiểm sát, với vai trò là cơ quan tư vấn.
Viện kiểm sát thành phố, quận, huyện và cấp tương đương do kiểm sát viên
thành phố, quận, huyện và cấp tương đương lãnh đạo. Giúp việc cho kiểm sát viên
thành phố, quận, huyện và cấp tương đương có một cấp phó thứ nhất và các cấp
phó khác. Ngoài ra, theo quyết định của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga,
trong cơ cấu của Viện kiểm sát thành phố, quận, huyện và cấp tương đương có thể
có các phòng, ban.
1.3.2. Viện kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Từ khi lãnh đạo cách mạng thành công và thành lập nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa (năm 1949), Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng duy nhất lãnh đạo
cách mạng Trung Quốc. Từ đó đến nay, mặc dù có những thăng trầm nhưng Trung
Quốc vẫn trung thành với những nguyên lý cơ bản theo mô hình các nước xã hội
chủ nghĩa trong việc tổ chức bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được tổ chức theo
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà đại diện là Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) và ở địa phương
là Đại hội đại biểu nhân dân địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp). Chính phủ
được xác định là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính cao nhất. Tòa án là cơ
quan xét xử và Viện kiểm sát là cơ quan giám sát pháp luật. Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao đều do Đại hội đại
biểu nhân dân toàn quốc bầu ra, theo nhiệm kỳ của Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc và chịu trách nhiệm trước cơ quan này.


Ở Trung Quốc, Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập. Viện kiểm
sát được coi là cơ quan tư pháp chứ không phải là cơ quan hành pháp, và do vậy,
Chính phủ và Bộ Tư pháp không có chức năng giám sát hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Tương tự như vậy, Viện kiểm sát địa phương không chịu sự

giám sát của cơ quan hành chính ở địa phương nhưng lại chịu sự giám sát của Đại
hội đại biểu nhân dân địa phương, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: Viện
kiểm sát nhân dân Trung hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà nước. Điều
130 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: Nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thành lập Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân địa phương các cấp, Viện kiểm sát quân sự và Viện kiểm sát nhân dân
chuyên ngành khác. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân Trung Hoa quy định hệ thống, cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát như sau:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan
kiểm sát cao nhất, có chức năng giám sát pháp luật và lãnh đạo Viện kiểm sát địa
phương các cấp và Viện kiểm sát chuyên ngành trong việc thực hiện chức năng
giám sát pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật được đúng đắn và thống
nhất.
Các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao bao gồm Văn phòng; Ban
Chính trị; Tổng cục chống tham ô hối lộ; Vụ kiểm sát hình sự; Vụ kiểm sát giam
giữ; Vụ kiểm sát hành chính, dân sự; Vụ kiểm sát khiếu nại, tố cáo; Vụ kiểm sát thi
hành án; Trung tâm thông tin; Vụ kiểm sát vận tải đường sắt; Cục kỹ thuật kiểm
sát; Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật; Cục thanh tra; Cục giáo dục rèn luyện
cán bộ; Cục đối ngoại; Cục kế hoạch tài vụ và trang thiết bị; Cục quản lý hành
chính sự vụ; Cục cán bộ lão thành. Ngoài ra, còn có các đơn vị trực thuộc như: Nhà
xuất bản kiểm sát, Báo kiểm sát, Viện nghiên cứu lý luận kiểm sát, Viện nghiên
cứu khoa học kĩ thuật kiểm sát, Học viện bồi dưỡng cán bộ kiểm sát cao cấp Trung
Quốc…


Viện kiểm sát nhân dân tối cao thành lập Ủy ban kiểm sát. Ủy ban kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện chế độ làm việc tập thể, thảo luận các vụ
án quan trọng và các vấn đề quan trọng khác, dưới sự chủ trì của Viện trưởng. Ủy
ban kiểm sát quyết định theo đa số. Nếu ý kiến của Viện trưởng khác với ý kiến

của đa số về các vấn đề quan trọng có thể báo cáo ủy ban Thường vụ Đại hội đại
biểu nhân dân quyết định.
Nhân sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao bao gồm: Viện trưởng, các Phó
Viện trưởng, ủy viên ủy ban kiểm sát, kiểm sát viên, trợ lý kiểm sát viên, thư ký,
cảnh sát tư pháp và các nhân viên hành chính, nhân viên hậu cần, kỹ thuật.
- Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương: Viện kiểm sát nhân dân
các cấp ở địa phương gồm: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực
thuộc trung ương (cấp thứ 2); Viện kiểm sát nhân dân thành phố thuộc tỉnh, châu
tự trị… (cấp thứ 3); Viện kiểm sát nhân dân huyện, khu trực thuộc thành phố (cấp
cơ sở).
Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương thành lập ủy ban kiểm sát.
Ủy ban kiểm sát thực hiện chế độ làm việc tập tập thể, quyết định theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số. Nếu ý kiến của Viện trưởng khác với ý kiến của đa số về
các vấn đề quan trọng có thể báo cáo Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân
cùng cấp quyết định.
1.3.3. Viện công tố Nhật Bản
Nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực của Nhật Bản cũng giống như các
Nhà nước tư sản khác trên thế giới, đó là chế độ tam quyền phân lập. Theo quy
định của Hiến pháp Nhật Bản, quyền công tố là một phần của quyền hành pháp,
thẩm quyền truy tố được trao cho cơ quan hành pháp, quyền hành pháp được trao
cho Nội các, Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Bộ trưởng Bộ Tư pháp với
vị trí là người đứng đầu, chỉ đạo công tác thuộc thẩm quyền thi hành pháp luật của
Bộ Tư pháp, bao gồm cả công tác liên quan đến việc truy tố. Như vậy, Viện công


tố là một tổ chức nằm trong Bộ Tư pháp như là một "cơ quan đặc biệt". Công tố
viên nằm dưới sự chỉ huy chung, giám sát của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Về nguyên
tắc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể kiểm tra và giám sát các công tố viên nói chung
trong việc thực hiện các chức năng của họ, tuy nhiên, trong trường hợp liên quan
tới việc điều tra và quyết định các vụ án cụ thể Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ có thể

kiểm tra, chỉ đạo đối với Tổng công tố trưởng. Hiến pháp Nhật Bản cũng trao cho
Viện công tố có quyền truy tố độc lập là nhằm tách bạch mối liên hệ giữa thẩm
quyền truy tố và thẩm quyền xét xử của Tòa án.
Khi thực hiện nhiệm vụ, Viện công tố cũng có tính độc lập như Tòa án.
Mặc dù Viện công tố nằm trong một tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đứng đầu
nhưng để có thể bảo đảm tính độc lập, chính bản thân công tố viên, với tư cách là
công chức đảm trách về việc truy tố, cần phải được độc lập và không chịu ảnh
hưởng của sức ép bên ngoài. Để bảo đảm tính độc lập của công tố viên, Luật về
Viện công tố quy định giới hạn về quyền chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đối
với công tố viên: "Về việc xử lý từng vụ án, chỉ có thể chỉ huy Tổng công tố
trưởng Viện công tố tối cao" (Điều 14). Tuy nhiên, trên thực tế thì cũng rất ít khi
Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra chỉ thị, mệnh lệnh cho Tổng công tố trưởng. Trong lịch
sử tư pháp Nhật Bản chỉ duy nhất có một trường hợp Bộ trưởng Bộ Tư pháp hành
xử quyền chỉ huy của mình phủ định đường lối của Tổng công tố trưởng vào năm
1954 và đã bị dư luận phản đối. Luật cũng quy định công tố viên có thể hành xử
quyền hạn của mình một cách độc lập. Chẳng hạn, về nguyên tắc, công tố viên có
thể truy tố trái với mệnh lệnh của cấp trên và việc truy tố này cũng có hiệu lực
trong tố tụng. Bất cứ ai đã phạm tội, dù là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thủ tướng, nghị
si Quốc hội thì công tố viên Nhật Bản vẫn thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự
theo qui định của pháp luật và nếu có bằng chứng thì tiến hành truy tố người đó ra
tòa.


Hệ thống tổ chức của Viện công tố Nhật Bản được tổ chức tương ứng với
hệ thống tổ chức của Tòa án Nhật Bản. Theo đó, Viện công tố Nhật Bản được tổ
chức ở 4 cấp: Viện công tố tối cao; Viện công tố cấp cao (cấp vùng); Viện công tố
địa phương (cấp tỉnh); Viện công tố cấp khu vực (cấp quận). Viện trưởng Viện
công tố cấp trên có quyền hạn chỉ huy và giám sát các công tố viên thuộc quyền
quản lý trực tiếp và các Viện công tố cấp dưới.
Cơ cấu tổ chức của Cơ quan công tố tối cao gồm: Ban thư ký, Cục điều tra,

Vụ giám sát điều tra, Vụ an ninh công cộng, Vụ xét xử. Giúp việc cho Tổng công
tố có các Phó Tổng công tố.
Có 8 Cơ quan công tố cấp cao và 6 chi nhánh: Cơ quan công tố cấp cao
được tổ chức ở 8 vùng: Tokyo, Osaka, Nagoya, Hiroshima, Fukuoka, Sendai,
Sapporo, Takamatsu. Cơ cấu tổ chức của cơ quan công tố cấp cao bao gồm: Ban
thư ký, Văn phòng, Phòng giải quyết những vấn đề chung, Phòng điều tra, Phòng
an ninh công cộng, Phòng xét xử.
Có 50 cơ quan công tố địa phương và 203 chi nhánh. Mỗi tỉnh có một cơ
quan công tố (47 tỉnh của Nhật Bản có 47 Cơ quan công tố, riêng tỉnh Hokaido do
diện tích rộng nên được tổ chức 4 cơ quan công tố: Hokaido, Kushiro,
Asakhikawa, Hakodate).
1.3.4. Viện công tố Cộng hòa Pháp
Tại Pháp, các Thẩm phán công tác tại hai ngạch là ngạch xét xử (Thẩm
phán xét xử làm việc tại cơ quan Tòa án phụ trách cả việc thẩm tra tư pháp lẫn việc
xét xử) và ngạch công tố (bao gồm các Ủy viên công tố). Hệ thống công tố bao
gồm đội ngũ công tố viên đặt bên cạnh các Tòa án thuộc ngạch tư pháp (không có
ngạch công tố bên cạnh Tòa hành chính). Hiến pháp năm 1958 của Cộng hòa Pháp
qui định, tất cả các Thẩm phán (cả Thẩm phán xét xử và công tố viên) đều độc lập,
dưới sự bảo đảm của Tổng thống. Tính độc lập của các Thẩm phán xét xử dựa trên


quyền không thể bãi miễn của mình. Còn tính độc lập của các công tố viên chủ yếu
dựa trên quyền tự do luận tội của mình, độc lập với Tòa án và các bên khiếu kiện.
Cho đến nay, về mặt hình thức Viện công tố của Pháp được đặt trong hệ
thống Tòa án, nhưng không lệ thuộc vào Tòa án. Hệ thống Viện công tố của Pháp
gồm có: Viện công tố nằm trong các Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền rộng; Viện
công tố tại Tòa phúc thẩm; Viện công tố bên cạnh Tòa phá án. Về mặt nhân sự và
quản lý hành chính Viện công tố trực thuộc Bộ Tư pháp, nhưng mối quan hệ giữa
Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện công tố không phải là mối quan hệ chỉ đạo trực tiếp
mà là thông qua giám sát hoạt động của Viện công tố. Các công tố viên là công

chức nhà nước nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp. Điều đó có nghĩa
là quan chức chính phủ không có quyền chỉ thị họ đối với các yêu cầu về chuyên
môn, nghiệp vụ. Các công tố viên hoạt động dưới sự kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp và có thể nhận các hướng dẫn chung hoặc các chỉ thị chung về chính sách
hình sự từ Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Quyền hạn của công tố viên Pháp tương đối
rộng gồm khởi tố các vụ án hình sự và một số vụ án dân sự, chỉ đạo hoạt động của
Cảnh sát tư pháp, thực hiện việc buộc tội trước Tòa án và đảm bảo thi hành bản án,
quyết định của Tòa án.
1.3.5. Viện công tố Cộng hòa Liên bang Đức
Xét về góc độ tổ chức và quản lý hành chính tư pháp thì Viện công tố và
Tòa án đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp nắm quyền. Tuy nhiên sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng chỉ dừng lại đối với Tổng công tố trưởng. Và sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng chỉ mang tính chất chỉ đạo
chung, mang tính quản lý hành chính tư pháp, không can thiệp vào công việc
chuyên môn của Viện công tố. Bộ trưởng Bộ Tư pháp không có quyền chỉ đạo trực
tiếp đối với công tố viên cấp dưới.
Viện công tố hoạt động hoàn toàn độc lập với Tòa án, với các cơ quan
chính quyền địa phương. Viện công tố được tổ chức theo nguyên tắc tập trung


thống nhất lãnh đạo trong ngành. Tổng công tố trưởng của bang có toàn quyền lãnh
đạo, chỉ đạo các cán bộ, công tố viên vùng và khu vực. Các cán bộ, công tố viên
chịu sự lãnh đạo của công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo
của Tổng công tố trưởng của bang.
Nhà nước Đức là một nhà nước liên bang, do đó tổ chức bộ máy nhà nước
nói chung và của Viện công tố nói riêng cũng khác với các nhà nước đơn nhất. Hệ
thống công tố của Đức được tổ chức không theo địa giới hành chính mà được tổ
chức theo từng vùng và khu vực. Một vùng có thể bao gồm một tỉnh hoặc nhiều
tỉnh, một khu vực có thể là một huyện hoặc nhiều huyện (quận). Tùy theo số lượng
công việc cụ thể của từng nơi mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp bố trí Viện công tố cho

phù hợp. Ví dụ, ở những nơi có ít tội phạm xảy ra thì có thể tổ chức một Viện công
tố khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ rộng hơn các Viện công tố khu vực nơi có
nhiều tội phạm xảy ra. Khi có tội phạm xảy ra thì công tố viên cấp vùng đó thực
hành quyền công tố ở khu vực đó. Đây là cách thức tổ chức rất linh hoạt của Đức
nhằm giảm thiểu gánh nặng về tài chính cho nhà nước, vì có khu vực một năm chỉ
có một vài vụ án xảy ra mà cũng tổ chức một Viện công tố ở đó thì rất lãng phí. Tổ
chức của Tòa án thì lại hoàn toàn khác với Viện công tố, vì ngoài án hình sự ra,
Tòa án còn phải giải quyết nhiều loại án khác nữa như án dân sự, kinh tế, lao
động… Do đó, tuy về mặt nguyên tắc thì luật qui định, Viện công tố được tổ chức
song song với Tòa án, ở đâu có Tòa án thì ở đó có Viện công tố, nhưng trong thực
tiễn, Tòa án và Viện công tố được tổ chức không thống nhất ở cấp bang. Viện công
tố Đức được tổ chức theo ngành dọc, độc lập với cơ quan chính quyền với nguyên
tắc hoạt động là tập trung thống nhất, công tố viên cấp dưới chịu sự lãnh đạo của
công tố viên cấp trên và thống nhất chịu sự chỉ đạo của Tổng công tố bang.
Tóm lại, mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Viện
công tố của các nước khác nhau cũng có sự khác nhau dựa trên cách thức tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước cũng như các điều kiện kinh tế - xã hội, các yếu


tố lịch sử, truyền thống pháp lý của mỗi nước. Do đó, việc vận dụng mô hình tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Viện công tố các nước trên thế
giới để áp dụng trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân Việt Nam là một việc làm không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên cứu, khảo
sát, đánh giá và chọn lọc cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở nước ta.


Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


2.1. TỔ CHỨC VIỆN CÔNG TỐ Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1945 ĐẾN
TRƯỚC NĂM 1960

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính
quyền thực dân, phong kiến tồn tại trên đất nước ta. Tuyên ngôn độc lập ngày
2/9/1945 đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Chính quyền mới từng bước thành lập,
trong đó hệ thống tổ chức các cơ quan Tòa án, Công tố được thành lập góp phần
bảo vệ một cách hiệu quả nền độc lập của nước nhà.
2.1.1. Tổ chức Công tố trong Tòa án quân sự
Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, ngày 13/9/1945, Chính phủ ban
hành Sắc lệnh số 32 bãi bỏ các ngạch quan lại tư pháp, trong đó có ngạch Thẩm
phán, công tố viên cũ và Sắc lệnh số 33c thành lập Tòa án quân sự cách mạng.
Chức năng công tố, nhân danh nhà nước truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa
án quân sự được giao cho ủy viên quân sự hoặc ủy viên của Ban trinh sát có thẩm
quyền truy tố đối với tất cả những người có hành vi xâm hại đến nền độc lập của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
Ngày 26/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 37 về thẩm quyền theo lãnh thổ
của Tòa án quân sự. Ngày 29/9/1945, Sắc lệnh số 40 được ban hành qui định về
việc thành lập thêm Tòa án quân sự ở Nha Trang. Ngày 14/2/1946, Sắc lệnh số 21
được ban hành, thay thế các Sắc lệnh số 33c, Sắc lệnh số 37, Sắc lệnh 40, theo đó
qui định Tòa án quân sự được thành lập ở những nơi cần thiết và bổ sung thẩm
quyền của Tòa án quân sự được xét xử tất cả các tội phạm xảy ra trước hoặc sau


ngày 19/8/1945 xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trừ
những tội phạm do binh sĩ thực hiện thì do Tòa án binh xét xử.
Thi hành các Sắc lệnh nói trên bộ máy tổ chức Tòa án quân sự và tương
ứng là tổ chức Công tố trong Tòa án quân sự được thành lập tại Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho, Nha

Trang, các Tòa án quân sự này có quản hạt gồm nhiều tỉnh. Thành phần Hội đồng
xét xử của Tòa án quân sự có Chánh án và hai Hội thẩm, buộc tội là một ủy viên
quân sự hay một ủy viên của Ban trinh sát. Đến khi Sắc lệnh số 21 được ban hành
thì chức danh thực hiện việc buộc tội được gọi là Công cáo ủy viên. Ở Bắc kỳ, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ chỉ định Công cáo ủy viên, ở Trung kỳ
và Nam kỳ thì do Chưởng lý Tòa thượng thẩm hoặc Chủ tịch Ủy ban hành chính
chỉ định ủy viên Chính phủ làm Công cáo ủy viên. Ủy viên Chính phủ làm Công
cáo ủy viên có thể lấy trong quân đội, trong Ban trinh sát hay trong các Thẩm phán
chuyên nghiệp. Các Công cáo ủy viên trực tiếp đặt dưới quyền giám sát của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ở Trung kỳ và Nam kỳ thì do Chưởng
lý Tòa thượng thẩm và Chủ tịch ủy ban hành chính giám sát.
Ngày 17/11/1950, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 155 thay thế các sắc
lệnh về Tòa án quân sự được ban hành từ 13/ 9/1945 đến thời điểm này. Sắc lệnh
qui định tất cả các Tòa án quân sự hiện hành không tổ chức theo Sắc lệnh này đều
bãi bỏ và thành lập Tòa án quân sự liên khu tại mỗi Liên khu. Thực hành quyền
công tố tại Tòa án quân sự liên khu do Công tố ủy viên hoặc Phó Công tố ủy viên
đảm nhiệm. Thẩm quyền của Tòa án quân sự liên khu vẫn theo các sắc lệnh trước
đây về thẩm quyền của Tòa án quân sự. Một thời gian sau, thẩm quyền của Tòa án
quân sự được chuyển giao cho Tòa án binh và Tòa án nhân dân. Năm 1960, Tòa án
binh được đổi thành Tòa án quân sự. Từ năm 1960 đến nay ở nước ta tồn tại hai hệ
thống Tòa án là Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự.
2.1.2. Tổ chức Công tố trong Tòa án thường


Ngày 24/01/1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 13 ấn định việc tổ chức
các Tòa án và các ngạch Thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày
17/4/1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 51 ấn định thẩm quyền các Tòa án và
sự phân công nhiệm vụ giữa các nhân viên trong Tòa án. Ngày 20/7/1946, Chính
phủ ban hành Sắc lệnh số 131 bổ sung Sắc lệnh số 51, theo đó, chức năng công tố,
nhân danh nhà nước truy tố người phạm tội ra trước Tòa án thường để xét xử được

giao cho Biện lý, Phó Biện lý ở Tòa án đệ nhị cấp; giao cho Chưởng lý, Phó
Chưởng lý, Tham lý đảm nhiệm ở Tòa thượng thẩm. Các chức danh này được gọi
chung là Thẩm phán buộc tội. Theo Sắc lệnh số 13, hệ thống tổ chức các Tòa án
thường gồm có: Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm.
Tòa sơ cấp được thành lập ở mỗi phủ, huyện, châu. Tòa sơ cấp có một
Thẩm phán, một Lục sự và Thư ký. Không có Biện lý hay đại diện của cơ quan
Công tố vì thẩm quyền của Tòa sơ cấp rất hạn chế, trong lĩnh vực hình sự chỉ xét
xử những vụ việc có tính chất vi cảnh; khi có vụ việc phạm tội tiểu hình hay đại
hình xảy ra trên địa bàn thì Tòa sơ cấp phải báo ngay cho cơ quan Công tố cấp
tỉnh, đồng thời trực tiếp thực hiện việc điều tra vì Thẩm phán Tòa sơ cấp đồng thời
kiêm nhiệm là Tư pháp Công an.
Tòa đệ nhị cấp có một Chánh án, một Biện lý thực hiện quyền công tố, một
Dự thẩm, một Chánh Lục sự và Thư ký giúp việc. Tòa đệ nhị cấp được thành lập ở
các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn. Những nơi thiếu cán bộ
thì Biện lý kiêm nhiệm luôn cả việc dự thẩm.
Tòa thượng thẩm được thành lập ở Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ; Bắc kỳ đặt
ở Hà Nội, Trung kỳ đặt ở Thuận Hóa (Huế), Nam kỳ đặt ở Sài Gòn. Tòa thượng
thẩm có một Chánh nhất, các Chánh án phòng, các Hội thẩm, một Chưởng lý, một
hay nhiều Phó Chưởng lý, những Tham lý, một Chánh lục sự, các Lục sự, những
Tham tá và Thư ký. Số lượng cụ thể các Phó Chưởng lý, Tham lý do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp ấn định. Chưởng lý, Phó Chưởng lý, Tham lý ngồi ghế công tố thực hành
quyền công tố nhà nước, truy tố bị can ra Tòa bằng bản cáo trạng.


Các ngạch Thẩm phán được chia làm hai loại: ngạch sơ cấp và ngạch đệ
nhị cấp, ngạch sơ cấp làm việc ở Tòa sơ cấp, ngạch đệ nhị cấp làm việc ở Tòa đệ
nhị cấp và Tòa thượng thẩm. Thẩm phán ngạch đệ nhị cấp chia làm hai chức danh:
Thẩm phán xét xử do Chánh nhất Tòa thượng thẩm đứng đầu và Thẩm phán buộc
tội thuộc tổ chức Công tố do Chưởng lý đứng đầu.
Các Thẩm phán buộc tội của Tòa thượng thẩm hợp thành một đoàn thể độc

lập đối với các Thẩm phán xét xử và đặt dưới quyền của Chưởng lý. Các Thẩm
phán buộc tội hành động theo sự ủy quyền của Chưởng lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
có thể ra lệnh cho Chưởng lý hành động hay không hành động, nhưng không thay
thế Chưởng lý mà hành động.
Như vậy, cơ quan Công tố thực hành quyền công tố tại Tòa án thường
trong thời kỳ này nằm trong hệ thống Tòa án ở hai cấp Tòa đệ nhị cấp và Tòa
thượng thẩm. Tuy nhiên, hoạt động của các công tố viên khi đó hoàn toàn độc lập
đối với hệ thống Tòa án. Đến ngày 22/5/1950, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85 về
cải cách tư pháp thì Tòa án thường được đổi thành Tòa án nhân dân.
2.1.3. Tổ chức Công tố trong Tòa án binh
Ngày 23/8/1946, Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 163 thành lập
Tòa án binh quân khu lâm thời đặt tại Hà Nội, trong đó có qui định ủy viên Chính
phủ thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Ngày 16/2/1947, Chính phủ ban hành
Sắc lệnh số 19 thành lập các Tòa án binh khu và ngày 25/4/1947 ban hành Sắc lệnh
số 45 thành lập Tòa án binh tối cao quản hạt toàn cõi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Ngày 5/7/1947, Sắc lệnh số 59 được ban hành qui định về thành lập Tòa án
binh khu trung ương đặt tại Bộ Quốc phòng, Tòa án binh khu Trung ương không
có ủy viên Chính phủ thực hành quyền công tố. Chức năng công tố, nhân danh nhà
nước truy tố người phạm tội ra trước Tòa án binh để xét xử được giao cho ủy viên
Chính phủ, kiêm công việc Dự thẩm, một Lục sự ghi chép các điều tranh luận, giữ


án văn và giấy tờ. Ủy viên Chính phủ đứng buộc tội là một quân nhân hoặc một
nhân viên Bộ Quốc phòng. Ủy viên Chính phủ truy tố những quân nhân phạm tội
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án binh.
Theo quy định tại các Sắc lệnh này, Tòa án binh lâm thời được thành lập tại
Hà Nội, các Tòa án binh khu được thành lập tại các khu, Tòa án binh khu trung
ương được thành lập tại Bộ Quốc phòng và trên hết là Tòa án binh tối cao. Tòa án
binh lâm thời tại Hà Nội và mỗi Tòa án binh khu có một Chánh án, hai Hội thẩm
ngồi xử, một ủy viên Chính phủ đứng buộc tội, kiêm công việc Dự thẩm, một Lục

sự ghi chép các điều tranh luận, giữ án văn và giấy tờ. Tòa án binh tối cao có một
ủy viên Chính phủ đứng buộc tội. Ủy viên Chính phủ đứng buộc tội là một quân
nhân hoặc một nhân viên Bộ Quốc phòng, do Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng chỉ định theo đề nghị của Cục trưởng Cục quân pháp. Đến năm 1960, Tòa
án binh được thay thế bằng Tòa án quân sự.
2.1.4. Tổ chức Công tố trong Tòa án đặc biệt
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 64
thành lập Ban thanh tra đặc biệt và Tòa án đặc biệt tại Hà Nội để xét xử những
nhân viên của các ủy ban hành chính, của các cơ quan Chính phủ phạm tội. Chức
năng công tố, nhân danh nhà nước truy tố người phạm tội ra trước Tòa án đặc biệt
để xét xử được giao cho một ủy viên của Ban thanh tra đặc biệt đảm nhiệm. Ban
thanh tra đặc biệt do Chính phủ lập ra để giám sát công việc và nhân viên của các
Ủy ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ. Ban thanh tra đặc biệt có quyền
điều tra, thu thập tài liệu chứng cứ, đình chỉ chức vụ, bắt giam bất cứ nhân viên
nào của Ủy ban hành chính hoặc nhân viên của Chính phủ phạm tội trước khi đưa
ra Hội đồng Chính phủ hoặc Tòa án đặc biệt để xét xử lập hồ sơ truy tố ra Tòa án
đặc biệt. Ban thanh tra đặc biệt có thể truy tố cả người phạm tội trước khi ban hành
Sắc lệnh này và có quyền kiến nghị Chính phủ chấn chỉnh công việc của các cơ
quan nhà nước.


Tòa án đặc biệt được thành lập tại Hà Nội chỉ có tính chất tạm thời, thành
phần Hội đồng xét xử gồm Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng
Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm, một ủy viên trong Ban thanh
tra đặc biệt thực hành quyền công tố, buộc tội. Viên Lục sự thì do Chưởng lý Tòa
thượng thẩm Hà Nội chỉ định.
2.1.5. Chức năng công tố của Tòa án đặc biệt trong thời kỳ cải cách
ruộng đất
Ngoài các Tòa án nói trên, trong thời kỳ cải cách ruộng đất (1952 - 1959) ở
những nơi tiến hành cải cách ruộng đất còn thành lập Tòa án đặc biệt để xét xử

những địa chủ chống lại chính sách, pháp luật về cải cách ruộng đất. Chức năng xét
xử và công tố đều do thẩm phán xét xử đảm nhiệm. Tòa án đặc biệt được thành lập
ở cấp tỉnh, với thành phần gồm có Chánh án, các Phó Chánh án và các Thẩm phán,
xét xử theo trình tự sơ chung thẩm.
2.1.6. Hệ thống Viện công tố độc lập
Sau hòa bình lập lại, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên xây dựng
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, vào đầu năm 1958 đã diễn
ra cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai với nội dung từng bước kiện toàn tổ chức bộ
máy của các cơ quan tư pháp, trong đó, có tổ chức của cơ quan Công tố. Ngày
29/4/1958, Quốc hội đã thông qua đề án của Hội đồng Chính phủ nhằm tăng cường
thêm một bước của Chính phủ và bộ máy nhà nước ở cấp trung ương; thành lập
Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố. Viện công tố trung ương có
quyền hạn và trách nhiệm ngang một bộ và trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
Thi hành Nghị quyết của Quốc hội, ngày 1/7/1958, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 256-TTg qui định về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Viện công
tố. Theo đó, Viện công tố có chức năng: Điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ


phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra
của cơ quan điều tra; giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các
Tòa án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình
sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo; khởi tố và tham gia
tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của nhà nước
và của công dân. Nhiệm vụ của Viện công tố là: giám sát việc tuân thủ và chấp
hành pháp luật của nhà nước; truy tố theo pháp luật hình sự những người phạm tội
để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân; giữ gìn trật tự an ninh; bảo vệ tài sản công, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo cho công cuộc kiến thiết và
cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi. Tổ chức bộ máy của Viện công tố gồm
có: Viện công tố trung ương, Viện công tố địa phương các cấp, Viện công tố quân
sự các cấp. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 256, Viện trưởng Viện công

tố trung ương ban hành Thông tư số 601-TCCB, ngày 06/8/1959, giải thích và
hướng dẫn thi hành Nghị định số 256 của Chính phủ, qui định về nguyên tắc tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố làm cơ sở cho việc xây
dựng bộ máy tổ chức và hoạt động của Viện công tố các cấp.
Về hệ thống tổ chức, cơ quan Công tố tách khỏi Bộ Tư pháp và Tòa án. Ở
trung ương, Viện công tố trung ương có trách nhiệm, quyền hạn như một bộ. Ở địa
phương, Viện công tố là một cơ quan chuyên môn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của ủy
ban hành chính cùng cấp, đồng thời cũng chịu sự lãnh đạo của Viện công tố trung
ương. Hệ thống Viện công tố gồm có: Viện công tố trung ương; Viện công tố phúc
thẩm Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, quản hạt từng Viện do nghị định của Thủ tướng
Chính phủ ấn định và bao gồm những tỉnh ở những nơi cấp khu đã giải thể; Viện
công tố tỉnh, thành phố, khu đặc biệt Hồng Quảng và khu đặc biệt Vĩnh Linh; Viện
công tố huyện, thị trấn lớn và cấp tương đương với huyện; ở miền Trung Châu, nơi
Ủy ban hành chính Liên khu đã giải thể từng bước giao cho cấp huyện và cấp
tương đương với huyện nhiệm vụ sơ thẩm, cấp tỉnh phúc thẩm, bỏ cấp phúc thẩm


khu. Trong giai đoạn quá độ các Viện công tố phúc thẩm khu 3, khu 4, tả ngạn, Hà
Nội, Hải Phòng, Hồng Quảng, 7 tỉnh sẽ dồn lại thành 3 Viện công tố phúc thẩm đặt
tại Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, với nhiệm vụ chủ yếu là phúc thẩm và kháng cáo
những vụ án xử sơ thẩm bị kháng cáo; ở Khu tự trị Việt Bắc và Khu tự trị Thái Mèo vẫn giữ nguyên hiện trạng. Cấp huyện lúc này được xác định là địa bàn có vai
trò quan trọng, nên được tăng cường ngay một Công tố ủy viên làm công tác điều
tra, giám sát xét xử, giám sát thi hành án, ngăn ngừa và trấn áp kịp thời những
hành động phản ứng nhỏ của bọn phá hoại; giáo dục, điều giải những xích mích va
chạm trong nội bộ nhân dân, giải quyết những phạm pháp nhỏ; hướng dẫn, đôn đốc
tư pháp xã làm một số việc có liên quan đến công tác công tố.
Về chế độ làm việc, từ trung ương tới các tỉnh, thành, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng và Công tố ủy viên lập thành Ủy ban công tố, dưới sự lãnh đạo của
Viện trưởng. Ủy ban công tố làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Những việc quan trọng đều phải do Ủy ban công tố thảo luận và quyết

định. Về quan hệ với Ủy ban hành chính cùng cấp và Viện công tố cấp trên, các
Viện công tố tỉnh, thành phố, khu tự trị, khu đặc biệt, chịu sự lãnh đạo của ủy ban
hành chính cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của Viện công tố trung ương.
Viện công tố các huyện, châu, thị xã lớn chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính
cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo về nghiệp vụ của Viện công tố cấp trên.
Trường hợp giữa ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, khu với Viện công tố trung
ương có ý kiến khác nhau, thì cần báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Nếu ý kiến khác nhau giữa Ủy ban hành chính huyện, châu, thị xã với Viện công tố
tỉnh thì báo cáo lên Ủy ban hành chính tỉnh xét và quyết định. Trong trường hợp
cấp bách, Viện công tố vẫn phải chấp hành theo ý kiến của ủy ban hành chính cùng
cấp, một mặt báo cáo lên Viện công tố cấp trên biết. Để đảm bảo Viện công tố
trung ương có thể nắm được tình hình chung và làm nhiệm vụ chỉ đạo chính sách
được tốt, các Viện công tố tỉnh, thành phố, khu phải chấp hành nghiêm chỉnh chế


độ báo cáo, thỉnh thị trong mọi mặt công tác. Về mối quan hệ với cấp ủy Đảng
cùng cấp, Ban bí thư Trung ương nhất trí việc Viện trưởng Viện công tố các cấp
cần tham gia cấp ủy, tạo điều kiện cho Viện trưởng Viện công tố nắm chắc chủ
trương, trọng tâm công tác của địa phương và làm cho vị trí, vai trò công tác công
tố được nâng cao.
Trên thực tế, hệ thống Viện công tố được tổ chức ở 4 cấp, bao gồm: Viện
công tố trung ương; Viện công tố phúc thẩm theo các khu vực (mỗi khu vực gồm
nhiều tỉnh), Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt Bắc, Khu tự trị Thái Mèo;
Viện công tố cấp tỉnh bao gồm: Viện công tố thành phố Hà Nội, Viện công tố
thành phố Hải Phòng, Viện công tố Khu Hồng Quảng, Viện công tố khu vực Vĩnh
Linh và Viện công tố các tỉnh khác của miền Bắc; Viện công tố huyện, thị trấn lớn
và cấp tương đương. Hệ thống Viện công tố quân sự cũng được thành lập trong
quân đội và đi vào hoạt động. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Viện công tố trung ương
được thành lập với các đơn vị trực thuộc gồm: Vụ giám sát điều tra, Vụ giám sát xét
xử, Vụ giám sát giam giữ, cải tạo; Văn phòng; các phòng nghiệp vụ (Phòng điều

tra thẩm cứu, Phòng tổ chức cán bộ).
Viện công tố được tổ chức theo nguyên tắc Viện trưởng Viện công tố trung
ương là thành viên Chính phủ, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính
phủ. Viện trưởng Viện công tố cấp tỉnh chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
công tố trung ương, đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của ủy ban hành chính
cùng cấp. Riêng Viện công tố phúc thẩm vì tổ chức theo khu vực nên không có ủy
ban hành chính đồng cấp lãnh đạo, mà chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công
tố trung ương. Đối với Viện công tố cấp huyện vì theo qui định của Nghị định số
321-TTg ngày 27/8/1959 của Thủ tướng Chính phủ thì Viện công tố cấp huyện
không có Viện trưởng mà chỉ có một Công tố ủy viên phụ trách và cán bộ giúp
việc nên chính Công tố ủy viên chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố cấp
trên và ủy ban hành chính cùng cấp. Đứng đầu Viện công tố các cấp (trừ cấp


huyện) là Viện trưởng, có thể có Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng làm nhiệm vụ.
Ủy ban công tố cũng được thành lập ở Viện công tố trung ương và Viện công tố
cấp tỉnh, với thành phần gồm Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Ủy viên công
tố, dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng.
Trên thực tế lúc đó do chưa thành lập đủ được ngay bộ máy Viện công tố
các cấp, nhất là Viện công tố cấp huyện như tinh thần của Nghị định của Chính
phủ mặt khác do chưa có các văn bản pháp luật về tố tụng qui định thẩm quyền của
Viện công tố các cấp nên trong thời gian đầu mới thành lập, thẩm quyền của Viện
công tố tạm thời được ấn định như sau:
- Thẩm quyền tố tụng chủ yếu của Viện công tố trung ương: Viện công tố
trung ương giám sát, hướng dẫn đường lối truy tố đối với Viện công tố cấp dưới;
trực tiếp điều tra đối với những vụ án phức tạp, quan trọng xét thấy cần trực tiếp
điều tra; giám sát điều tra đối với những vụ án do Cơ quan điều tra của Bộ công an
điều tra; tham gia các phiên tòa do Tòa án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, chung thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo thẩm quyền của Tòa án nhân dân
tối cao; chỉ đạo và trực tiếp giám sát việc giam giữ, cải tạo, việc thi hành án v.v...

- Thẩm quyền tố tụng chủ yếu của Viện công tố phúc thẩm: Viện công tố
phúc thẩm là một cấp trong hệ thống công tố. Viện công tố phúc thẩm duy trì để
bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử. Viện công tố phúc thẩm có quyền theo dõi,
hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc về công tác đối với Viện công tố cấp tỉnh, theo
nguyên tắc, Viện công tố cấp tỉnh có nhiệm vụ báo cáo thỉnh thị Viện công tố phúc
thẩm. Những việc phải thỉnh thị Viện công tố Trung ương, Viện công tố cấp tỉnh
cũng phải báo cáo cho Viện công tố phúc thẩm. Viện công tố phúc thẩm chủ yếu
tham gia xét xử phúc thẩm những vụ án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, tương
ứng với thẩm quyền xét xử của Tòa phúc thẩm; phụ trách theo luật định việc gia
hạn giam cứu lần thứ hai và theo dõi việc gia hạn giam cứu lần thứ nhất của Viện
công tố cấp tỉnh.


- Thẩm quyền chủ yếu của Viện công tố cấp tỉnh: Vì Viện công tố cấp
huyện chưa được thành lập nên thẩm quyền sơ thẩm chủ yếu vẫn do Viện công tố
cấp tỉnh đảm nhiệm. Viện công tố cấp tỉnh trực tiếp điều tra đối với những vụ án
xét thấy cần trực tiếp điều tra; giám sát điều tra đối với những vụ án do cơ quan
Công an cùng cấp và cấp dưới điều tra; tham gia thực hành quyền công tố tại các
phiên tòa do Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thẩm quyền; giám sát việc giam
giữ, cải tạo; việc thi hành án v.v...
Tiếp sau đó, khi Viện công tố cấp huyện được thành lập ở một số nơi thì thẩm
quyền tố tụng chủ yếu của Viện công tố các cấp được ấn định như sau:
- Thẩm quyền chủ yếu của Viện công tố huyện và cấp tương đương: Vì
không thể lập công tố huyện và cấp tương đương tất cả các nơi cùng một lúc mà
phải căn cứ vào tình hình thực tế nơi nào nhiều việc thì thành lập trước, nơi nào ít
việc và chưa có cán bộ thì thành lập sau. Những nơi chưa lập được thì Tòa án cấp
huyện phải làm nhiệm vụ chung của Tòa án và của cả Công tố. Chỉ những cấp
huyện và tương đương có thành lập Tòa án mới thành lập Viện công tố. Những nơi
khác, kể cả những nơi có cơ quan Công an như khu phố, khu đặc biệt có quận
Công an mà không có Tòa án và Công tố cấp tương đương thì do Viện công tố cấp

tỉnh đảm nhiệm.
Viện công tố cấp huyện và cấp tương đương có thẩm quyền: Điều tra việc
hình sự thường bị bắt quả tang trong địa bàn, lập hồ sơ đề nghị Viện công tố tỉnh
truy tố. Viện công tố cấp huyện tiến hành điều tra, truy tố trước Tòa án huyện
những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án huyện; giải quyết những
vụ phạm pháp quả tang, trừ những vụ phạm pháp quả tang về chính trị và hình sự
quan trọng thì phối hợp với Công an xử lý; giám sát việc xử lý về dân sự ở Tòa án
cấp huyện và việc thi hành các bản án trong huyện; giải quyết đơn từ khiếu nại của
nhân dân về các việc vi phạm pháp luật; phối hợp với Tòa án huyện tuyên truyền
pháp luật, xây dựng tư pháp xã, hướng dẫn cho cấp xã bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ
chế độ nhà nước. Viện công tố huyện và cấp tương đương có trách nhiệm liên hệ


chặt chẽ với các đoàn thể ở xã để giáo dục nhân dân về ý thức tuân theo pháp luật
và đấu tranh ngăn ngừa chống các việc phạm pháp.
Giữa Viện công tố với Công an huyện và cấp tương đương theo nguyên tắc
phối hợp và chế ước lẫn nhau, Viện công tố huyện và cấp tương đương không phê
chuẩn việc bắt người của Công an cùng cấp, vì Công an cùng cấp chỉ bắt người
trường hợp khẩn cấp. Viện công tố chỉ can thiệp trường hợp Công an tạm giữ quá 3
ngày hoặc trong 3 ngày đó mà có tài liệu chứng tỏ Công an vi phạm pháp luật
trong việc điều tra, hỏi cung người bị bắt giữ thì cũng có quyền can thiệp. Viện
công tố phụ trách giải quyết tất cả các vụ phạm pháp quả tang, trừ việc quả tang về
chính trị và hình sự quan trọng thì Viện công tố và Công an phối hợp giải quyết.
Công an phụ trách điều tra tất cả các vụ án chính trị cần điều tra và tất cả các vụ
hình sự thường không quả tang. Nhưng nếu là việc hình sự thường không quả tang
không phức tạp và không đòi hỏi phải có kỹ thuật và phương tiện điều tra chuyên
môn thì Viện công tố cũng có thể đảm nhiệm. Đối với cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội nếu vi phạm pháp luật thì Viện công tố có quyền can thiệp
và báo cáo lên ủy ban hành chính cùng cấp và Viện công tố cấp trên để giải quyết.
Về vấn đề huyện ủy viên phụ trách Công tố ủy viên cấp huyện, theo quy định của

Đảng tại thời điểm này thì Công tố ủy viên cấp huyện phải do một huyện ủy viên
phụ trách để có đủ uy tín, khả năng về chuyên môn nghiệp vụ và trong quan hệ với
các ngành và các cấp. Ngoài các thẩm quyền nói trên, Viện công tố cấp huyện còn
thực hiện các quyền hạn khác theo quy định.
- Thẩm quyền tố tụng chủ yếu của Viện công tố cấp tỉnh vừa đảm nhiệm
thực hành quyền công tố đối với các vụ án sơ thẩm không thuộc thẩm quyền của
cấp huyện và thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm đối với những bản
án của cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và các quyền hạn khác. Thẩm quyền
của Viện công tố phúc thẩm vẫn được giữ như cũ cho đến khi giải thể. Thẩm quyền
của Viện công tố trung ương vẫn giữ như cũ.


Tóm lại, mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
Công tố thời kỳ này còn mang tính chất sơ khai, chưa ổn định và chưa được hoàn
chỉnh, chủ yếu phục vụ những nhiệm vụ cách mạng vào thời điểm lúc bấy giờ. Tuy
nhiên, những ưu điểm của cơ quan Công tố của giai đoạn này đã được kế thừa vận
dụng vào việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân sau
đó và đến nay lại có ý nghĩa thời sự, rất đáng được quan tâm nghiên cứu.



×