So sánh diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số
nước trên thế giới
SATURDAY, 24. NOVEMBER 2007, 15:32:57
LU Ậ T DÂN S Ự - LU Ậ T V Ề QUY Ề N TH Ừ A K Ế
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được
pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong
những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được
truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các
phong tục, tập quán,tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít
người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc.
Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho
những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân
xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần
lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật.
Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng
nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước
đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và theo em phương pháp nghiên cứu, sửa
đổi, bổ xung tốt nhất cho pháp luật Việt Nam chính là nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt nam
với pháp luật các nước trên thế giới để tìm ra những yếu tố đặc sắc, phù hợp để áp dụng vào
thực tiễn nước ta.
Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề thừa kế theo qui định của pháp luật ở một
số nước trên thế giới nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể
nghiên cứu một phần trong qui định về thừa kế theo pháp luật đó là đề tài:" So sánh diện và
hàng thừa kế theo qui định của pháp luật Việt Nam với qui định của một số nước trên thế giới".
I-Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam:
1)Qui định chung:
Quyền thừa kế của cá nhân (theo điều 631 BLDS 2005) : "Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật."
Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở
hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người
thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai
là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được
thực hiện theo hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí,nguyện vọng của người chết thì được gọi là
thừa kế theo di chúc; Nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo
pháp luật.
Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế:
-Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế:
Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa kế.Nếu
như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng
được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào
di chúc mà người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý trí của người để lại di sản.Và ngược
lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận
một phần hoặc khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của
người thừa kế.
-Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế:
Theo điều 632 BLDS-2005:"Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình
cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".Theo điều luật này thì
mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có quyền
bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép
nhận tài sản theo ý chí của người chết. Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá
những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau.
-Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa
người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là người còn
sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác là không thực hiện
được.Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế.Có thể người
thừa kế đã chết nhưng khi mở thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng
chưa bị tuyên bố là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó
ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản
của người đó.
Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó người đó
còn sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tòa
án hủy bỏ tuyên bố mất tích hoặc đã chết.
-Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản
để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng
nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS 2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực
hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận
phần di sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
chết.
2)Thừa kế theo pháp luật:
Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người
chết cho những người thừa kế theo qui định của pháp luật thừa kế. Theo điều 674 Bộ luật dân
sự 2005: "thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế
do pháp luật qui định".
Theo qui định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại tài sản qua đời, tài sản sẽ
được chia đều cho những người thừa kế của người đó.Những người thừa kế này được xác định
thông qua ba mối quan hệ chính là:
-Quan hệ hôn nhân
-Quan hệ huyết thống
-Quan hệ nuôi dưỡng
Những người thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành
vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì
người đó vẫn có quyền thừa kế.Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế
nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình
đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình
nhận được.
Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều
hàng thừa kế.Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhận,
huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác.Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị,chỉ
được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hoặc hoặc có nhưng họ đều không
nhận hoặc không được quyền nhận.Vấn đề diện và hàng thừa kế này sẽ được nói kĩ hơn ở phần
sau.
Các trường hợp thừa kế theo qui định của pháp luật:
Ở nước ta từ xưa đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật liệt kê các trường hợp thừa kế
theo pháp luật.Và cùng với sự tiến bộ của hệ thống pháp luật thì các văn bản này các ngày
càng hoàn thiện hơn, cho đến nay thì các trường hợp được nêu ra trong BLDS 2005 được coi là
chi tiết và đầy đủ nhất.Theo điều 675 BLDS 2005 thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật
được chia ra 2 nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất:Nhóm di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật (nhóm di sản được
thừa kế tuyệt đối) bao gồm các trường hợp:
-Không có di chúc
-Di chúc không hợp pháp toàn bộ
-Di chúc hợp pháp nhưng toàn bộ di chúc không có hiệu lực thi hành do tất cả người thừa kế
theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có
quyền hưởng di sản hoặc đều từ chối quyền hưởng di sản ;cơ quan tổ chức được hưởng thừa
kế không còn vào thời điểm mở thừa kế;
Nhóm thứ hai:Di sản vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo qui định của pháp
luật(Nhóm di sản thừa kế tương đối) bao gồm các trường hợp:
-Có phần di sản không được định đoạt trong di chúc
-Có một phần di chúc không có hiệu lực pháp luật
-Có một hoặc một số người trong những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; một hoặc một số cơ quan, tổ chức trong số các cơ quan, tổ
chức được thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một hoặc
một số người trong những người thừa kế không được quyền hưởng di sản hay từ chối quyền
hưởng di sản theo di chúc.
Cuối cùng là một điểm đặc trưng của thừa kế theo pháp luật đó là qui định về trường hợp thừa
kế thế vị:Theo điều 677 BLDS-2005 :"Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản của cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu cón sống ". Như vậy theo qui định trên ta có thể hiểu thừa kế thế vị là việc con đẻ
thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để nhận phần di sản do ông hoặc bà để lại khi mà cha hoặc mẹ
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông hoặc bà. Những người thừa kế thế vị được
hưởng phần di sản bằng với những người cùng hàng với người được thế vị. Nếu người thế vị là
cháu thì cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết; Người thế vị là chắt thì chắt phải sống vào
thời điểm cụ nội, cụ ngoại chết.
II-Diện và hàng thừa kế:
1)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật Việt Nam:
a)Diện thừa kế:
Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo
qui định của pháp luật. Như đã nói ở trên, diện những người thừa kế được pháp luật dựa trên
ba mối quan hệ chính với người để lại di sản:
- Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
- Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông, bà; Ông, bà với
cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...)
-Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những
người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (Cha mẹ nhận nuôi con nuôi)
Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình "tam, tứ đại đồng đường" là kiểu gia
đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái nhà.Nên diện thừa kế theo
pháp luật được xác định hết sức rộng rãi , bao gồm toàn bộ những người thích thuộc của
người chết mà không theo mức độ gần gũi.Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong
kiến thì tất cả người thân thuộc của người chết dù xa hay gần , dù thân hay sơ đều thuộc diện
thừa kế theo luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển
dịch sang bên ngoại.
Sau khi dành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước ta đã
ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo
pháp luật:
-Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19 tháng 8 năm 1956 qui định diện những người
thừa kế theo pháp luật bao gồm: Vợ ( chồng), các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắt,cha mẹ của
người để lại di sản và những người thừa kế khác.Nhưng thông tư này không xác định rõ những
người thừa kế khác là ai nên trong thời kì này anh, chị, ông bà không thuộc diện thừa kế.
-Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi;
bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi.
Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt
ra khỏi diện thừa kế.
- Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày
nay. Vì vậy diện thừa kế được qui định trong thông tư bao gồm: Vợ góa (vợ cả và vợ lẽ) hoặc
chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em
ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi.Ngoài ra thông tư còn
qui định " Người thừa tự " cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa
kế của ông bà nếu cha mẹ không còn.
- Pháp lệnh thừa kế do hội đồng nhà nước (Nay là ủy ban thường vụ Quốc Hội) ban hành vào
ngày 30 tháng 8 năm 1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với Thông tư 81.
Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại tài sản theo trực hệ được xác
định đến tận 4 đời ( Từ đời cụ xuống đời chắt).Đối với những người có quan hệ huyết thống
với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang 2 đời ( chú ruột, bác
ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ
quyền thừa kế của anh chị em nuôi.
-Bộ luật dân sự 1995 không qui định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng thừa kế
theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ
hoặc chồng; các con đẻ và con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi;
ông bà nội ngoại; anh chị em ruột ( thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội , cụ ngoại của người
chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột (thuộc hàng thừa kế thứ ba);
cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị)
Cho đến hiện nay bộ luật dân sự năm 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm
1999.Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba.
b)Hàng thừa kế:
Theo pháp luật, di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối với
người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người
chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề
này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam. Và phần lớn
các nước đặt ra qui định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và
theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra
làm ba hàng:
-Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết.
Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
+Quan hệ thừa kế của vợ chồng:
Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân.Theo điều 8 luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì " hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết
hôn".Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn
tồn tại thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau.Do nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc
xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau:
Trường hợp một: Vợ chồng đã chia tài sản chung hoặc sống ly thân hoặc một người đã bỏ đi
sống với ngưòi khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn
nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế khi người kia chết.
Trường hợp hai: Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận hoặc đã được chấp
nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật thì một người
chết.Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di sản của người chết.
Trường hợp ba: Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều tiến hành trước
ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc ( ngày luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực ở
miền Bắc) và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn
bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi
người này chết thì tất cả các bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế
theo hàng thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà
vợ qua đời.
Trường hợp bốn: Nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra miền Bắc, lấy vợ
ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì
những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại.
Trường hợp năm: Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng kí kết hôn nhưng được thừa
nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân tiến hành trước ngày luật Hôn nhân và gia
đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn) thì quan
hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận nên họ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ
nhất của nhau.
Trường hợp sáu: hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày
luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản
án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng đó vẫn được chấp nhận.Và họ vẫn là người thừa kế hàng
thứ nhất của nhau.Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con:
Quan hệ này được xác lập theo hai căn cứ. Thứ nhất là mối quan hệ huyết thống giữa những
người cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó cha mẹ đẻ là người
đã sinh ra người đó nên được pháp luật qui định ở hang thừa kế thứ nhất. Thứ hai là mối quan
hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với
con đẻ cũng có thể là của bố mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Do đó việc pháp luật qui định
bố mẹ nuôi và con nuôi vào hàng thừa kế thứ nhất là hoàn toàn hợp lý. Sau đây là một số
trường hợp cần lưu ý trong việc xác định quyền thừa kế trong mối quan hệ này:
Trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì người này được hưởng thừa kế ở
hàng nhất đối với cả hai người và ngược lại. Trong trường hợp người này có con nuôi mà chưa
đăng kí việc nhận con nuôi theo đúng qui định của pháp luật thì quyền thừa kế giữa họ sẽ không
được công nhận cho đến khi họ đăng kí.
Tiếp đến là mối quan hệ giữa cha mẹ và các con dâu con rể.Theo qui định của pháp luật thì con
dâu, con rể không nằm trong diện thừa kế. Nhưng trong trường hợp con dâu, con rể tham gia
lao động chung trong gia đình, xây dựng khối tài sản trong gia đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết
đi họ vẫn được hưởng một phần tài sản xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra nhưng không phải
với tư cách người thừa kế mà là người đồng sở hữu tài sản. Việc chia taì sản cho con dâu, con
rể sẽ được chia ngay từ lúc xác định tài sản của người chết trong khối tài sản chung, rút phần
của người chết ra để chia cho những người thừa kế, phần của con dâu, con rể và những người
khác (nếu có) nằm trong khối tài sản chung chưa bị chia kia.
Đối với mối quan hệ của “con riêng với bố dượng, mẹ kế”.Nếu như đối với trường hợp con
nuôi ta có thể khẳng định đó là mối quan hệ nuôi dưỡng thì trong trường hợp này có nhiều