Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi
và diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn
là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật
đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn dùng
mọi thủ đoạn tinh vi, thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can
thiệp, lấn lướt các quốc gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia
tăng. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, thiên tai,
dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, không chỉ còn là vấn đề của mỗi quốc
gia mà muốn giải quyết được phải có sự chung tay, góp sức của tất cả các nước
trên thế giới. Song, chế độ chính trị, lợi ích của mỗi nước lại khác nhau, số nước
do Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo không còn nhiều,
trong khi sự chia sẻ trên tinh thần đoàn kết, hy sinh giúp đỡ của các nước có chế
độ do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đối với nước ta cũng đã thay đổi
nhiều.
- Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi
mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ",
"nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
1
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
- Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh
đạo sáng suốt của Đảng là cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
- Xuất phát từ những lý do nêu trên, đề tài “Nâng cao vai trò lãnh đạo
của đảng trong đổi mới kinh tế chính trị ở nước ta hiện nay ” có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiển. Trong phạm vi của tiểu luận sẽ khái quát vai trò
lãnh đạo của đảng và tình hình đổi mới kinh tế - chính trị ở nước ta từ năm 1986
đến nay. Dù có nhiều cố gắng nhưng không tránh khỏi những thiếu sót mong thầy
cô và các anh chị, bạn bè đóng góp nhiều để đề tài hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện. Để thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện, sâu sắc đất nước, Đảng đứng
trước yêu cầu phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, từng bước xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do
dân và vì dân, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước. Và liên quan đến vấn đề này đã có nhiều tác
giả, nhiều bài viết nghiên cứu nêu quan điểm như:
- Vũ Khắc Thường: Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới,
phát triển đất nước, Báo Quốc Phòng toàn dân, ngày 12/02/2011.
- PGS.TS. Bùi Đình Phong: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo số
3. đăng ngày 4/4/2012 .
- PGS, TS Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Đổi mới tư duy lý luận về kinh tế của Đảng trong thời kỳ
hội nhập, báo QĐND-Thứ bảy, 06/02/2010.
- Nhìn chung những công trình và bài viết nói trên đã tiếp cận nghiên cứu
vấn đề vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng về đổi mới đường lối,
2
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
phương thức lãnh đạo của đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của đảng. Nhưng chưa đi sâu vào cụ thể về nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng
trong đổi mới hình thức tổ chức, đổi mới cách làm, đổi mới chính trị, kinh tế
hiệu quả.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích về lý luận, thực tiển và đánh giá thực trạng, đề tài đề xuất
giải pháp và những kiến nghị thiết thực nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo
của đảng trong đổi mới kinh tế chính trị ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài sẽ hướng tới giải quyết các nhiệm
vụ:
- Làm rõ cơ sở khoa học về vai trò lãnh đạo của Đảng trong đổi mới chính
trị - kinh tế.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá sự nghiệp đổi mới của đảng.
- Từ đó, đề tài nêu ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò lãnh
đạo của đảng trong đổi mới kinh tế chính trị ở nước ta hiện nay.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng trong đổi mới kinh tế chính trị ở nước
ta.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu vai trò lãnh đạo của đảng trong đổi mới
kinh tế chính trị ở nước ta hiện nay từ đó đề ra một số giải pháp nâng cao vai trò
lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận
3
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lênin, luận văn sử dụng những phương pháp đặc trưng của kinh tế, chính
trị như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp trừu tượng hoá khoa học...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài nhằm cung cấp những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn làm cơ sở
phục vụ yêu cầu phát triển của công cuộc đổi mới, củng cố và phát huy các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Tập trung sức lực, trí tuệ vào việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là
xây dựng kinh tế, củng cố và tăng cường ổn định chính trị, không ngừng đổi
mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt và củng cố, nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh tế - chính trị
4
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
- Chương 2: Chức năng nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng về đổi
mới kinh tế, chính trị.
- Chương 3: Thực chất nội dung đổi mới kinh tế - chính trị ở nước ta hiện
nay.
5
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh tế - chính trị:
1.1 Khái niệm chính trị, kinh tế:
1.1.1 Khái niệm chính tri, đổi mới chính trị:
- Có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Theo quan điểm của Mac –
Lênin thì: Chính trị là sinh hoạt xã hội gắn liền với các quan hệ giữa các giai cấp,
các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Nó bao hàm cả những phương hướng, mục
tiêu xuất phát từ lợi ích cơ bản của giai cấp và cả hoạt động thực tiễn của các giai
cấp, chung các nhóm xã hội, các đảng phái chính trị, các chính khách và của mỗi
người dân trong việc thể hiện lợi ích giai cấp.
- Chính trị luôn được xem xét trên 02 bình diện:
+ Là quan hệ giai cấp, là vấn đề lợi ích giai cấp trong việc giành, giữ và
thực thi quyền lợi ích quyền lực nhà nước.
+ Là tất cả những vấn đề liên quan đến tổ chức chính quyền nhà nước.
- Chính trị là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động
gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội
khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích
kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực
hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề quyền
lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai
cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước tức là nắm được
công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét
từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề
kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động
6
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
lực của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan hệ chính trị xét
về bản chất là do quan hệ kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính
nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích chính trị.
- Dù còn nhiều quan niệm khác nhau, song tương ứng với quan niêm kinh
tế, chính trị được nhận diện từ các phương diện: Tư tưởng, lý luận về chính trị;
quan điểm, chủ trương, chính sách về thể chế chính trị; các hoạt động, các quan
hệ chính trị. Theo cách tiếp cận như vậy, có thể coi đổi mới chính trị ở nước ta là
đổi mới về tư duy lý luận chính trị, đổi mới lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đổi mới quan điểm, chủ trương về việc giải quyết
các mối quan hệ: giữa đổi mới. ổn định và phát triển, giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường và đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế., giữa đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ; xây dựng hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa đảm bảo sự phù hợp và tương thích giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh
tế…
- Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là
đổi mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành
của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh
chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân
chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2 Khái niệm kinh tế, đổi mới kinh tế:
Từ nhiều cách tiếp cận khách nhau, có nhiều định nghĩa khác nhau về
kinh tế.
7
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
- Nghĩa thông thường: kinh tế là việc sử dụng có nguồn lực hữu hạn một
cách tối ưu để sản xuất ra của cải, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội.
- Theo cách tiếp cần Mác: kinh tế là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
- Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một
nền kinh tế quốc dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động XH, quan hệ phân phối sản
phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của xã hội loài
người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được quy định
bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định quyền
lực nhà nước.
- Đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay là đổi mới tư duy lý luận về kinh tế;
đổi mới quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật kinh tế và hoạt động
chuyển đổi kinh tế từ mô hình kế ho5ch hóa, tập trung sang mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường gắn với việc
giài quyết hài hòa những vấn đề xã hội, môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
kinh tế.
- Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế
cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
8
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
1.2 Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế :
1.2.1 Vai trò của kinh tế với chính trị :
- Quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đổi mới đất nước, khi xác định đường lối
phát triển giữa chính trị và kinh tế, Đảng ta khẳng định “lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan điểm kinh tế là nền tảng của chính trị,
kinh tế bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này được khẳng định hoàn toàn
trong lý luận cũng như trong thực tiễn.
- Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định
cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính trị là nhân
tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan hệ kinh tế là quy định các
quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ thì
với quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế chính trị thuộc về giai
cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ
tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị thuộc về giai cấp tư sản và ở CNXH thì thể
chế chính trị thuộc về giai cấp công nhân
- Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết định chính trị mà trước hết,
nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất, tác động đến đời sống chính trị chính là
hệ thống các quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ sở hữu thay đổi về căn bản và cùng
với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế khác mà trước hết nó làm biến đổi bản
chất của hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống các quan hệ SX khi đã thay đổi
về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển. Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị, thậm
chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có thể trở thành một vấn đề chính trị
phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng nào, giai cấp
nào nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối
9
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
đời sống xã hội. Ngược lại, nếu một giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền
lực chính trị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm
muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị. Chính vì vậy, Lênin
viết “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ chính
trị là các quan hệ kinh tế, các quan hệ lợi ích kinh tế.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” xuất phát từ sự hình
thành, tồn tại, phát triển và các hình thức, hoạt động chính trị là kết quả tất yếu
của sự vận động của kinh tế và chính trị phải mang trong nó những quy luật kinh
tế khách quan. Điều đó có nghĩa là : nó phải phản ánh được lợi ích kinh tế của
giai cấp và phản ánh được bản chất của một chế độ kinh tế, nó phản ánh cái cốt
lõi (cơ bản), bền vững trong kinh tế. Bên cạnh đó chính trị phải phản ánh một
cách khái quát tất cả các khuynh hướng kinh tế nhưng nó phải làm nổi bật
khuynh hướng chủ đạo. Đồng thời chính trị cũng phải phản ánh được ý chí sức
mạnh, sự đoàn kết của một giai cấp để thực hiện được lợi ích kinh tế của chính
giai cấp mình.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, điều đó đòi hỏi chính trị
và hệ thống chính trị phải mang trong mình nó những quy định kinh tế khách
quan, có nghĩa là chính trị phản ánh những yêu cầu, điều kiện của kinh tế khách
quan, sự phản ánh đó thể hiện trong cấu trúc hệ thống chính trị, trong phương
thức hoạt động của các thành tố hệ thống chính trị, trong các quyết sách chính
trị.
- Kinh tế là gốc của chính trị, ở góc độ nào đó nó là sự thể hiện tính ưu
việt của chính trị cũng như sự phù hợp của chính trị với kinh tế. Với ý nghĩa đó,
ở mọi thời đại, nếu không giải quyết thỏa đáng các quan hệ kinh tế, lợi ích kinh
tế, không phát triển được kinh tế thì sự vận động của chính trị có thể sẽ gặp trở
ngại, thậm chí đi đến thất bại. Thực tiễn cách mạng thế giới cho thấy, một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước XHCN
10
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
Đông Âu chính là do suy thoái, khủng hoảng kinh tế trầm trọng dẫn đến những
biến động lớn về chính trị, làm tan rã chế độ XHCN tại các nước này.
1.2.2 Vai trò của chính trị với kinh tế :
- Trong quá trình đổi mới, song song với việc lấy “đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”, Đảng xác định phải từng “đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.
Quan điểm này xuất phát từ chính trị mặc dù bị kinh tế quyết định nhưng chính
trị lại có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại kinh tế rất mạnh mẽ sự
tác động độc lập của chính trị đến kinh tế.
- Về mặt lý luận : khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng
kiến trúc thượng tầng (chính trị) có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở
lại rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về mặt thực tiễn: do nhận thức
được quy luật kinh tế khách quan, kiến trúc thượng tầng (chính trị) có vai trò
định hướng cho quy luật kinh tế, mang lại phương án tối ưu cho phát triển kinh
tế và phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa đó, chính trị ra đời tồn tại và
phát triển trên cơ sở nó có vai trò to lớn tác động đến kinh tế theo những quy luật
kinh tế khách quan
- Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với kinh tế : Một là chính trị định
hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, lựa chọn mô hình
chiến lược phát triển kinh tế, tham gia vào việc điều tiết, lựa chọn tốc độ phát
triển kinh tế. Hai là vai trò tác động của chính trị tác động đến các chủ thể kinh
tế : mỗi chủ thể kinh tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy, chính trị phải có sự
kiểm soát, tạo điều kiện tác động cho các chủ thể kinh tế phát triển và tạo điều
kiện cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích chung. Ba là vai trò của cơ cấu
tổ chức và phương thức tổ chức, quản lý con người-xã hội đối với kinh tế để phát
huy được vai trò của nhân tố con người
11
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
- Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính
trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng định
tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, tức là kết quả đạt được về phát triển kinh
tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả chính trị đạt được
(củng cố và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết các vấn đề kinh tế thì
phải góp phần duy trì củng cố quyền lực chính trị. Mặt khác, trong kinh tế dù cải
tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ
tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất của chế độ xã hội.
Trong điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế là tất
yếu để xây dựng CNXH : đó chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị
và xây dựng nền kinh tê mới. Luận điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm
chính trị khi giải quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan.
Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có khả
năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
- Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là
nếu chính trị tác động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có vai
trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị tác động ngược
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự phát triển
kinh tế.
- Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó.
Trong nhiều trường hợp dù đã có quyết sách chính trị đúng đắn (phản ánh đúng
thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình độ năng lực tổ chức
chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không vươn tới
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản trở kinh tế
hoặc để cho kinh tế phát triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa
12
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới, phải có cơ cấu tổ chức, phương thức
hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.
2. Chức năng nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng về đổi mới
kinh tế, chính trị:
Nội dung và phương thức lãnh đạo đang là vấn đề cấp thiết với Đảng ta.
Cơ sở lý luận của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được tổng kết từ thực
tiễn lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, xây dựng Đảng và Nhà nước
pháp quyền trong những năm qua, cũng như những đòi hỏi trước mắt của tình
hình trong nước và thế giới.
Trong đó phương thức Đảng lãnh đạo trong đổi mới kinh tế và chính trị,
là vấn đề cơ bản nhất của xã hội, là sự nghiệp đầy khó khăn và phức tạp, là quá
trình vừa làm, vừa tìm tòi sáng tạo. Do vậy, phải thấy rõ mối quan hệ giữa hai
lĩnh vực đó để có những bước đi thích hợp, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
2.1. Xác định “đối mới kinh tế là trọng tâm”:
- Trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có
sự đổi mới này thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi
để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Bởi vì do tính chất kinh tế quy
định chính trị nên xây dựng và duy trì quyền lực chính trị của Đảng, chế độ
XHCN trước hết phải xây dựng từ cơ sở nền tảng của nó, tức là xây dựng một
chế độ kinh tế XHCN vững mạnh.
- Để chính trị phản ánh tập trung kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã xác
định phải nhận thức một cách khoa học thực trạng kinh tế và những quy luật kinh
tế, lựa chọn hình thức tổ chức, chính sách phù hợp bảo đảm phát huy tối ưu tác
13
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
dụng của các quy luật kinh tế và đang tập trung xây dựng tri thức khoa học để
giác ngộ quần chúng hành động phù hợp quy luật. Với luận điểm đó, Đảng ta đã
xác định lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm và tuỳ theo yêu cầu đổi mới kinh tế
mà từng bước đổi mới về chính trị. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ quá độ là
một bước đột phá về đổi mới cơ cấu sở hữu từ một thành phần kinh tế, một chế
độ sở hữu sang nhiều thành phần kinh tế, đa thành phần sở hữu. Sự đổi mới này
là hợp lý, phù hợp với quy luật khách quan, cho phép giải phóng được tối đa mọi
năng lực sản xuất, có được một nền kinh tế phát triển năng động, giàu sức sống
và hiệu quả cao, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực tế
đã chứng minh định hướng về đường lối kinh tế trên của Đảng là đúng đắn và
tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
- Do tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, Đảng đã nhận thức rõ
rằng khi nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại suốt thời kỳ quá độ, trong đó có cả
thành phần kinh tế XHCN lẫn TBCN thì kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể phải
giữa vai trò chủ đạo; nếu như trong nền kinh tế nhiều thành phần đó chúng ta
không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một thành phần
kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó
đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng như trong suốt thời kỳ quá độ,
bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ là cơ
sở cho tồn tại vững chắc của hệ thống chính trị XHCN.
- Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển kinh tế đúng định hướng, vai trò
lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững. Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa
đảng là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu XHCN, vì mục tiêu ấy chỉ có thể thực
hiện trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Nước ta hiện nay sự lãnh đạo duy
14
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
nhất của Đảng ta là hoàn toàn hợp lý. Một Đảng, nhất nguyên chính trị là điều
kiện đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt
kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn
lên ngang tầm nhiệm vụ. NQ TW6 (lần 2) khoá VIII chủ trương tăng cường công
tác phê bình, tự phê bình, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm trong sạch phẩm chất,
đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng. Đây là yêu cầu bắt buộc của Đảng trong tình hình mới hiện nay
- Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường còn đòi hỏi có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Để giữ vững định
hướng XHCN, phải có nhà nước mạnh mới có thể làm hạn chế những khuyết tật
vốn có của nền kinh tế thị trường. Muốn đạt hiệu quả cao trong quá trình tác
động phải xuất phát từ thực trạng kinh tế của đất nước và nhận thức đúng, đầy đủ
các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà nước tác động vào kinh tế còn phải thể
hiện rõ vai trò của mình trong việc tạo môi trường, điều tiết chính sách XH, quản
lý, phân phối nguồn tài nguyên quốc gia. Đồng thời, các chính sách nhà nước đề
ra phải hạn chế đến mức tối thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách
thu nhập giữa các tầng lớp, trước hết là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người
hiểu hết nến kinh tế thị trường
2.2. Xác định chủ trương “từng bước đổi mới về chính trị:
- Đảng đã nhận thức rõ : chính trị có ổn định thì kinh tế mới phát triển,
hệ thống chính trị phải phù hợp đổi mới kinh tế . Mọi chủ trương phát triển kinh
tế của đảng và nhà nước ngoài việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển còn phải
góp phần bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được như : độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và những thành quả đổi mới của nước ta. Mặt khác sự đổi mới
về chính trị là cần thiết bởi vì phải có quan điểm chính trị đúng đắn và phù hợp
15
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
với thời đại khi xử lý các vấn đề kinh tế như : vấn đề dân tộc và giai cấp, quan hệ
làm ăn với nước ngoài phải vì lợi ích của dân tộc.
- Để đảm bảo chính trị là động lực, là mở đường cho kinh tế phát triển,
thì hệ thống chính trị phải tiến hành đổi mới. Không làm được điều đó hệ thống
chính trị sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như thế nguy cơ chệch hướng
kinh tế hoàn toàn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch
hướng kinh tế có thể bắt đầu từ chính hình thái chính trị, bắt đầu bằng chính
những sa sút về đạo đức, yếu kém về năng lực của cán bộ trong bộ máy chính trị,
bằng nạn quan liêu, tham nhũng, trì trệ trong hệ thống chính trị. Vì vậy, đổi mới
nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và cấp
bách, nó chính là yếu tố quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị bao gồm:
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường và nâng cao hiệu lực của các tổ
chức cơ sở Đảng và Đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội phù hợp với yêu cầu và quy luật khách quan của
nền kinh tế.
- Đổi mới bộ máy nhà nước và hướng tới là xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN, nghĩa là nhà nước quản lý điều hành xã hội bằng pháp luật, là làm
cho bộ máy nhà nước trong sạch, đủ mạnh để lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Nhà nước đủ mạnh thì đủ sức điều khiển bánh xe kinh tế thị trường theo quỹ
đạo XHCN và tiến lên CNXH, CNCS mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
toàn dân tộc.
- Đổi mới các đoàn thể quần chúng nhân dân là làm cho các tổ chức này
với tư cách là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. Làm được điều đó có
nghĩa là góp phần tạo ra động lực cho quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ XHCN.
16
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
- Đổi mới hệ thống chính trị và từng bước xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là quy luật
hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN. Làm tốt việc
này chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
- Đảng lãnh đạo có nắm được quy luật vận động của kinh tế thị trường mới
đề ra được những định hướng và phương thức lãnh đạo trong phát triển kinh tế.
Như vậy, phương thức lãnh đạo phát triển kinh tế phải bắt đầu từ khoa học kinh
tế. Nghiên cứu các quy luật kinh tế thị trường phải là vấn đề trung tâm trong
công tác lý luận của Đảng. Đảng phải xây dựng đường lối phát triển kinh tế thị
trường trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện chứng và lý luận kinh tế chính trị
chất lượng cao. Nhờ đó, Đảng nhận thức và phát hiện con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội từ những đặc điểm của dân tộc và thời đại.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo phát triển kinh tế được đặt ra như
một yêu cầu cấp bách, một nhiệm vụ trọng tâm, khi chúng ta nhìn thẳng vào
những khuyết điểm, yếu kém.
Những khuyết điểm, yếu kém đó có nguyên nhân từ việc chậm đổi mới
mô hình phát triển kinh tế hiện nay. Khác với mô hình công nghiệp hóa truyền
thống, mô hình phát triển bền vững, đòi hỏi đồng thời phải bảo đảm tiến bộ xã
hội và bảo vệ môi trường ngay trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Đòi hỏi này
ngày càng tăng trong thế kỷ 21 gắn liền với sự phát triển của kinh tế tri thức và
được thực hiện bằng thể chế kinh tế mới. Đi tìm một định chế kinh tế có khả
năng thực hiện phát triển bền vững hiện đang có những ý kiến tranh luận gay gắt
trên phạm vi toàn cầu. Đảng ta lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường, vấn đề phát
triển bền vững đang trở thành thước đo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm
đúng đắn về "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
17
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
trường" đã chỉ ra phương thức cầm quyền của Đảng thể hiện ở mắt xích quyết
định là "đi đôi" trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giải
quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường. Nó đòi hỏi đổi mới tư duy kinh tế
chính trị và phương pháp của Đảng trong xây dựng và thực hiện trong đường lối,
chính sách, trong đào tạo và bố trí cán bộ, trong đánh giá hiệu quả của mỗi tổ
chức và mỗi cá nhân người lãnh đạo, đặc biệt trong hoạch định và tổ chức thực
hiện.
3 Giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng trong đổi mới kinh tế
chính trị ở nước ta hiện nay
3.1 Thực chất đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Để giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vấn đề
trước hết cần nắm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam.
3.1.1 Đổi mới kinh tế:
Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
vừa vận động theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị
trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi
nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.
Sau hơn 25 năm đổi mới, chúng ta có được bước tiến mới trong tư duy
phát triển, nền kinh tế có được sự tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong
khu vực. Chúng ta đã có sự đổi mới căn bản về hình thức sở hữu, về cơ cấu và
vai trò của các thành phần kinh tế, đã hình thành các loại thị trường, tích cực và
chủ động hội nhập quốc tế... Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đẩy
18
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
mạnh đổi mới, trong đó, thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ
tầng vẫn là những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển.
Hiện nay, nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế là tập trung hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đổi mới cơ chế,
chính sách, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Để
thực hiện điều này cần phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đồng thời tiếp tục đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; gắn kết chặt chẽ phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Tiếp tục
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững.
3.1.2 Đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải là thay đổi chế độ chính trị hiện
nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá trình hoàn
thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính
trị theo hướng tạo lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực tiễn của đổi mới kinh tế đang tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới chính
trị. Hơn hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có bước tiến trong xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền, trong đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể,
cũng như trong công tác xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh
đạo của Đảng. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại không ít việc cần tiếp tục đẩy mạnh
19
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5, khóa X chỉ rõ hệ thống thể chế, pháp luật,
nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất
cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành
chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản
lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài chính công
tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng
mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công chức
chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém.
Để khắc phục tồn tại nêu trên cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nói
chung và tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị.
3.2 Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị:
Nhằm tiếp tục thúc đẩy đổi mới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị, phát huy tối đa các nguồn lực bảo đảm phát triển
nhanh và bền vững trên cơ sở tổng kết thực tiễn đề ra các giải pháp, hướng thực
hiện trong thực tiễn. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong
để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương
thức lãnh đạo khoa học... Muốn vậy, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm
sau:
Một là, cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị. Để giải quyết tốt mối quan hệ này đương nhiên trước tiên
phải hiểu rõ, nắm vững nội hàm của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, rộng lớn của
20
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
đời sống xã hội. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được biểu
hiện ra thông qua những mối quan hệ cụ thể đòi hỏi phải kết hợp giải quyết tốt.
Đó là những mối quan hệ như: quan hệ giữa đổi mới thể chế kinh tế với đổi mới
thể chế chính trị; quan hệ giữa phát triển sức sản xuất với bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, phát triển; quan hệ giữa tăng trưởng
nhanh với tăng trưởng bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; quan hệ
giữa quyền chủ động, tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên thị trường
với bảo đảm xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan
hệ giữa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với bảo đảm chủ quyền quốc
gia… Việc quan tâm giải quyết các mối quan hệ này sẽ góp phần thực hiện tốt
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Hai là, công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
phối kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Cùng với nghiên
cứu nắm vững, rõ nội hàm như trên cần thông tin tuyên truyền, làm cho cán bộ,
đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò quyết định của đổi mới kinh tế trong
tiến trình cách mạng, cũng như nhận rõ tác động, thậm chí là mở đường của đổi
mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, cũng
như cơ sở thực tiễn của việc gắn kết đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; làm rõ
thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, những khó khăn và thuận lợi,
bất cập trong đổi mới. Có như vậy mới tạo được sự đồng tâm nhất trí, phát huy
được sức mạnh cả cộng đồng trong thực hiện đổi mới.
Ba là, lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và
người dân. Đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, do đó để giải quyết tốt mối
quan hệ này cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới kinh tế
và chính trị là đổi mới toàn diện, liên quan đến tổng thể các quan hệ lợi ích, các
21
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
cá nhân, các tổ chức và hệ thống chính quyền. Do vậy, cần có sự vào cuộc của cả
người dân và hệ thống chính trị. Muốn vậy cùng với đòi hỏi nâng cao ý thức
trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân, rất cần bảo đảm thực hiện tốt qui chế
dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho mọi người phát huy sáng kiến và đóng góp của
bản thân vào sự nghiệp đổi mới.
Bốn là, về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác
định trọng tâm, khâu đột phá. Các thành tố của hệ thống chính trị cũng như kinh
tế có mối quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy, qui định lẫn nhau. Do vậy, nếu
không có sự đồng bộ trong đổi mới tạo sự nhịp nhàng, ăn khớp trong tiến trình
vận động thì đôi khi chúng lại cản trở, hạn chế nhau. Chính tính hệ thống của
kinh tế và chính trị qui định tính toàn diện và đồng bộ của đổi mới. Tuy nhiên,
cũng như trong một guồng máy vận động liên hoàn, cần xác định khâu then chốt,
chọn điểm đột phá để thúc đẩy đổi mới. Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới
nhưng phải theo lộ trình và có bước đi phù hợp, bảo đảm sự đổi mới đồng bộ ở
các khâu, các mắt xích của hệ thống. Thực hiện sự đổi mới kết hợp cả từ dưới
lên và trên xuống. Trong cuộc sống thực tiễn, cái mới luôn nảy sinh và cần được
tổng kết, định hướng để thúc đẩy.
Năm là, về cơ chế giải quyết phải tôn trọng tính biện chứng của mối quan
hệ kinh tế và chính trị. Thực hiện kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị. Trong quá trình đổi mới chú trọng bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới kinh tế
được thực hiện từ đổi mới tư duy đến đổi mới cơ chế chính sách và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn sẽ tạo nền tảng vật chất bảo đảm và đặt ra yêu cầu cho đổi mới
chính trị. Và những bước đổi mới chính trị mở đường và tạo điều kiện chính trị xã hội thuận lợi cho thực hiện giải pháp đổi mới và phát triển kinh tế.
22
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
Sáu là, hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị là ở sự tăng trưởng, phát triển bền vững và tiến bộ, công bằng xã hội,
cuộc sống người dân được cải thiện và giàu có hơn, đất nước mạnh hơn. Nói
cách khác lấy mục tiêu hướng đến xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm tiêu chí đánh giá hiệu
quả của quá trình phối kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới
phải gắn với yêu cầu thực tiễn, giải quyết những “tắc nghẽn” trong quá trình vận
hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả của đổi mới
kinh tế thể hiện cụ thể nhất ở mức độ và chất lượng tăng trưởng, tạo cơ sở cho
đổi mới chính trị. Và hiệu quả đổi mới chính trị thể hiện cụ thể nhất ở các chính
sách và cơ chế được xây dựng, đề xuất bảo đảm giải quyết đúng đắn và kịp thời
các vấn đề kinh tế.
23
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
KẾT LUẬN.
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là một yêu cầu tất yếu góp phần tạo
nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở cả
nội dung và phương thức lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo quy định phương thức
lãnh đạo của Đảng.. Đảng lãnh đạo toàn diện xã hội và Nhà nước. Đảng chính là
người đề ra đường lối, chủ trương cũng như chiến lược và sách lược cụ thể của
cả một giai đoạn cách mạng hoặc trong từng thời kỳ cụ thể. Sự lãnh đạo của
Đảng chỉ có thể dẫn tới thành công khi Đảng xác định đúng đắn mục tiêu, nắm
vững nội dung của lý luận, biết xuất phát từ thực tế khách quan, biết thay đổi
sách lược đúng lúc, thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng và bình đẳng xã hội.
Bên cạnh nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế và
vận dụng đúng đắn mối quan hệ đó là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Từ những phân tích trên ta
thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị” đó chính là nắm vững và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong thực
tiễn.Chính từ sự định hướng đúng đắn ấy cho nên sau hơn 25 năm đổi mới,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và giữ vững sự ổn định chính trị,
tạo đà cho kinh tế phát triển nhanh, đúng hơn.
24
Tiểu luận môn: Chính trị học nâng cao
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb Chính trị quốc gia,
HN 2010,
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2001.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp
hành Trung ương Khóa X, Nxb CTQG, HN.2007.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2011.
7. Học viện Bái chí và tuyên truyền, khoa chính trị học, Chính trị học nâng
cao, (Tài liệu dùng cho các lớp cao học không chuyên), HN 2011.
8. Trần Đình Hoang (Chủ biên), Quan điểm và Nguyên tắc đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020, NXB CTQG, HN, 2008.
9. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) Quan hệ giữ đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN 2012.
10. Dương Xuân Ngọc – Lưu Văn An: Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, Tạm chí Lý luận chinh trị, số 01,
2010.
11. Trịnh Nhu: Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị , tập chí Lịch
sử đảng số 6, 1999.
12. Vũ Văn Phúc… (Đồng Chủ biên): Về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
ở nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
25