Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.92 KB, 16 trang )

1. Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý luật sư

1.1. Đặc thù của nghề luật sư
Chức năng xã hội của luật sư là tham gia bảo vệ công lý, góp phần bảo
đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua việc tham gia tố tụng, tư
vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Các nước trên
thế giới và các nước trong khu vực đều có quan niệm chung coi nghề luật sư là
một nghề đặc biệt so với các ngành nghề khác. Tính đặc thù của nghề luật sư
được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không dựa
vào vốn mà chủ yếu dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư.
Nghề luật sư gắn với pháp luật và việc thi hành pháp luật. Chính vì vậy luật sư
trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có những
kỹ năng nghề nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo kỹ
năng nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, luật sư với tư cách là một người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp lý nên
luật sư có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng, khách quan của pháp luật. Thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn
pháp luật, luật sư góp phần trực tiếp vào việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Vì thế, các nước
trên thế giới đều cho rằng nghề luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý.

Thứ ba, nguyên tắc của nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân đạo
và dũng cảm. Tính khách quan trong nghề luật sư được đề cao. Nghề luật sư là
nghề không chịu sự chi phối của quyền lực. Vì vậy, nghề luật sư rất chú ý đến vai
trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ
chức hành nghề luật sư. Đây là yêu cầu cần thiết để luật sư có thể hoàn thành tốt
trách nhiệm của mình.


Thứ tư, nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư độc lập trong hành nghề, tự chịu trách nhiệm về
việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật. Hành nghề luật sư không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn,


tuân thủ pháp luật mà còn phải chịu sự điều chỉnh khắt khe bởi quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.

Thứ năm, tổ chức luật sư không nằm trong bộ máy nhà nước, hoạt động của
luật sư không chỉ liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của công dân mà còn liên quan đến hoạt động quản lý nhà
nước bằng pháp luật và có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, có thể nói nghề luật sư mang tính "giám sát" hoạt động của các cán bộ và các cơ
quan chức năng của nhà nước.
Những điểm đặc thù trên đây của nghề luật sư là những yếu tố rất quan trọng quy định và chi phối nội
dung, cách thức quản lý luật sư.
1.2. Vấn đề quản lý luật sư
Khi nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư của các nước trên thế giới thấy rằng pháp
luật của các nước thường không quy định cụ thể về khái niệm hay định nghĩa chung về quản lý luật sư. Tựu
trung, các nước đều có quan niệm thống nhất là quản lý luật sư bao gồm hoạt động quản lý nhà nước về luật sư
và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đối với luật sư. Quan niệm về quản lý luật sư như vậy là phù hợp bởi xuất
phát từ những đặc thù của nghề luật sư.
Quản lý luật sư ở nước ta cũng được hiểu là hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã có quy định
những nội dung quản lý luật sư bao gồm nội dung quản lý nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về
luật sư, đồng thời quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Đoàn luật sư với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư trong việc quản lý luật sư. Có thể khẳng định rằng, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987
quan niệm còn giản đơn về quản lý luật sư, mới chỉ quy định sơ lược về nội dung quản lý nhà nước và nội dung
tự quản của Đoàn luật sư mà chưa quy định mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.


Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành, vấn đề quản lý luật sư là một trong những nội dung quan
trọng của Pháp lệnh. Quản lý luật sư bước đầu được thể hiện theo quan niệm chung nhằm phù hợp với thông lệ
quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong điều kiện chúng ta chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Theo đó, Pháp
lệnh luật sư năm 2001 quy định rõ hơn những nội dung quản lý luật sư, cụ thể hóa nội dung quản lý nhà nước,
phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư trong quản lý luật

sư. Tuy nhiên, cũng như Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, một lần nữa Pháp lệnh luật sư năm 2001 cũng chưa
làm rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Điều đó dẫn
đến hệ quả là hoạt động quản lý luật sư còn chung chung, có lúc, có nơi nhà nước làm thay công việc của Đoàn
luật sư, can thiệp sâu vào hoạt động nghề nghiệp luật sư. Ngược lại, có lúc, có nơi còn phó mặc cho Đoàn luật
sư, buông lỏng quản lý luật sư v.v. Thực tiễn 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho thấy, quản lý luật
sư vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về nghề luật sư. Cho đến nay
khái niệm quản lý luật sư vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận, vì vậy cần phải được tiếp tục nghiên cứu
nhằm đổi mới và hoàn thiện nó ở Việt Nam trong điều kiện chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
2. Quản lý nhà nước về luật sư
Quản lý nhà nước về luật sư là một trong những nội dung quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc
quản lý luật sư. Ở tất cả các nước trên thế giới và trong khu vực, vấn đề quản lý nhà nước về luật sư đều được
đặt ra. Các nước có hệ thống pháp luật và tư pháp khác nhau thì vấn đề quản lý nhà nước về luật sư cũng khác
nhau, vai trò và mức độ quản lý nhà nước về luật sư cũng khác nhau.

Các nước có nghề luật sư hàng trăm năm nay như Anh, Pháp, Đức v.v..., vai
trò và mức độ quản lý nhà nước về luật sư có những giới hạn nhất định. Nhà nước quản lý luật sư chỉ thông qua
việc ban hành khung pháp luật thống nhất, thực hiện việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đối với
luật sư. Nhà nước không giám sát, tác động hay can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Có thể khẳng
định rằng, ở những nước có nghề luật sư phát triển, nhà nước không quản lý luật sư bằng các biện pháp hành
chính, không can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư mà chỉ xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ


để các luật sư hoạt động. Điều này không đồng nghĩa với việc nhà nước không quản lý hoặc buông lỏng quản lý
luật sư. Để nhà nước chỉ quản lý luật sư bằng pháp luật thì đòi hỏi pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư được
nhà nước xây dựng và ban hành phải hoàn thiện, đồng thời luật sư phải có trình độ chuyên môn, tính chuyên
nghiệp cao, tổ chức luật sư cũng được phát triển ngang tầm.
Đối với những nước nghề luật sư mới được hình thành thì việc quản lý nhà nước về luật sư là cần thiết
và có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển luật sư và hành nghề luật sư. Nhà nước quản lý luật sư bằng việc ban
hành các văn bản pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động luật sư nhưng đồng thời phải hỗ trợ về

mọi mặt để tổ chức, hoạt động luật sư tồn tại, củng cố và phát triển.
Có thể khái quát chung, quản lý nhà nước về luật sư là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực
nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới tổ chức, hoạt động luật sư nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước.
Đó là sự tác động của các cơ quan nhà nước (cơ quan hành pháp hoặc cơ quan tư pháp) khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn được nhà nước giao cho trong việc quản lý luật sư.

Nghề luật sư ở Việt Nam mới được hình thành và phát triển. Vì vậy, quản
lý của nhà nước về luật sư càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc
quản lý nhà nước về luật sư ở nước ta không phải ngoại lệ mà nó phù hợp với
thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Nhìn lại quá trình
hình thành và phát triển nghề luật sư ở nước ta, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau,
việc quản lý nhà nước về luật sư cũng khác nhau.
Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 và Quy chế Đoàn luật sư ban hành kèm theo
Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý, bao gồm cả cơ quan quyền
lực, cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, Pháp
lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Quy chế Đoàn luật sư không quy định rõ nội
dung và thẩm quyền quản lý của từng cơ quan, tổ chức, sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức trong việc quản lý luật sư, đặc biệt là không quy định quyền năng
cho các cơ quan quản lý nhà nước xử lý những vi phạm Pháp lệnh tổ chức luật sư,
Quy chế Đoàn luật sư của các Đoàn luật sư.


Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã khắc phục những yếu kém và nhược điểm của Pháp lệnh tổ chức luật
sư năm 1987 nói chung và vấn đề quản lý nhà nước về luật sư nói riêng. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư
năm 2001 thì quản lý nhà nước về luật sư là hoạt động không thể thiếu, là sự tác động của các cơ quan hành
chính nhà nước (Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) chủ yếu bằng pháp luật nhằm thực hiện các chức năng
của nhà nước. Nội dung quản lý nhà nước đã đi theo hướng phân định rõ nội dung và thẩm quyền quản lý nhà
nước, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về quản lý luật sư.
Trong thời điểm ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì những


quy định của Pháp lệnh

luật sư 2001 về nội dung quản lý nhà nước về luật sư là một bước tiến lớn so với
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987. Tuy nhiên, xét về mặt thực tế khi thực hiện
những nội dung quản lý nhà nước về luật sư theo quy định của Pháp lệnh thì hiệu
lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu nhằm từng bước
đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về luật sư trong thời gian tới theo
hướng xây dựng cơ chế quản lý luật sư vừa thống nhất, chặt chẽ, phân định rõ
ràng thẩm quyền quản lý, nội dung quản lý và đồng thời phù hợp với trình độ,
năng lực của đội ngũ luật sư ở nước ta.
1.2.3. Tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư

Tổ chức xã hội nói chung là hình thức tổ chức tự nguyện của nhân dân, hoạt động theo
nguyên tắc tự quản nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà nước mà
còn được tiến hành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân công dân. Là một bộ phận của hệ thống
chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại hình tổ chức xã hội do nhà nước cho phép
thành lập, được hình thành theo quy định của nhà nước. Muốn trở thành thành viên của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện do nhà nước quy định. Hoạt động


nghề nghiệp của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là một bộ phận của tổ chức xã hội trong hệ
thống chính trị, được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng

xử nghề nghiệp luật sư, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là hoạt động nhân danh
chính tổ chức mình để tham gia quản lý luật sư. Đồng thời, trong một số trường hợp do pháp luật
quy định, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoạt động quản lý luật sư nhân danh nhà nước.
Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư bằng việc
cho phép tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập và quy định quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chúng. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoạt động tự quản theo Điều lệ do
các thành viên xây dựng trên cơ sở đồng thuận và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo Điều lệ và theo quy
định của nhà nước, trong đó nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của chính
tổ chức này cũng như không sử dụng quyền lực của mình để sắp xếp người lãnh đạo, hay cách
chức của họ trong tổ chức. Có thể nói rằng, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình
thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan nhà nước giải quyết một số công việc về luật sư và
hành nghề luật sư.
Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển nghề luật sư, vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư sẽ khác nhau và phụ thuộc vào trình độ, tính chuyên nghiệp của luật sư.
Nếu nội dung quản lý luật sư nặng về quản lý nhà nước, coi nhẹ tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư hoặc ngược lại coi nhẹ quản lý nhà nước, nặng về tự quản đều ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển nghề luật sư.


Nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam trong quá trình hình thành và phát
triển nghề luật sư, chúng ta thấy rằng, vấn đề tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được quy định
rất khác nhau trong các giai đoạn lịch sử. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã thể hiện việc xã hội hóa lĩnh
vực luật sư một cách triệt để, quy định chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư rất lớn.
Nhà nước đã giao cho Đoàn luật sư nhiều quyền, từ việc công nhận luật sư, giám sát hoạt động hành nghề đến
việc thi hành kỷ luật luật sư v.v... Pháp lệnh luật sư năm 2001 quy định về quản lý luật sư được thực hiện nguyên
tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư. Sau gần 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư, công tác quản lý hành nghề luật sư đã đạt được những kết
quả nhất định. Nhìn chung, các Đoàn luật sư đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng tự quản của
mình. Ban chủ nhiệm nhiều Đoàn luật sư đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp trong việc quản lý về luật sư,

trong việc kiểm tra hoạt động hành nghề của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, kịp thời phát hiện và xử lý
các biểu hiện vi phạm pháp luật và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1.2.4. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật


Nghề luật sư có những đặc thù riêng nên trong việc quản lý luật sư cũng có
điểm khác biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc quản lý luật
sư ở các nước đều là sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, nghề luật sư là một nghề tự do nên vai trò
quản lý của tổ chức nghề nghiệp đến đâu, còn nhà nước quản lý hoạt động này như
thế nào là tùy thuộc vào quy định của từng nước.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư thì tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư cũng được hình thành và phát triển tương ứng. Tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các
luật sư. Ở những nước mà nghề luật sư đã có từ lâu như Anh, Pháp, Đức v.v... thì
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở những nước đó rất phát triển và đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Ở những nước này


pháp luật quy định cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nhiều chức
năng trong việc quản lý đối với hành nghề luật sư.
Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các nước được
hình thành ở hai cấp là cấp trung ương và địa phương (đó là tổ chức xã hội -nghề
nghiệp ở cấp tỉnh hoặc ở các Bang, các địa hạt). Riêng ở Pháp các Đoàn luật sư, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập bên cạnh các Tòa án trong
cùng quản hạt với Tòa thượng thẩm. Cho dù ở những nước nghề luật sư thực sự
phát triển hay không thì nhiệm vụ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ
là việc quản lý hành nghề luật sư thông qua các việc như: bảo đảm cho luật sư
hành nghề đúng pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư; tổ chức
bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư; kiểm tra, giám sát việc hành nghề của luật sư
trong phạm vi lãnh thổ của mình; kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy tắc đạo

đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, quy tắc hành nghề luật sư; giải quyết các vấn
đề khác có liên quan đến luật sư như cấp chứng chỉ hành nghề hàng năm cho luật
sư, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật luật sư v.v...
Nghề luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp
luật. Chức năng xã hội cao cả của luật sư là phụng sự công lý, công bằng xã hội.
Hoạt động của luật sư ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật
nói chung và có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước
đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng và mục đích cao cả của hoạt động tư pháp.
Do đó, rất cần đến sự quản lý của nhà nước. Chính vì thế, việc quản lý luật sư
không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư mà nhà nước cần
có vai trò quan trọng trong việc quản lý.
Các nước đều quy định cho một cơ quan nhà nước (Tòa án tối cao hoặc Bộ
Tư pháp) công nhận luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý danh sách
luật sư. Sở dĩ nhà nước cần phải nắm việc công nhận luật sư là vì nghề luật sư là
nghề tự do nên cần phải được nhà nước cho phép thì mới được hành nghề. Ngoài


việc cấp phép, ở mỗi nước đều có những quy định cụ thể về việc quản lý đối với
hoạt động luật sư. Đặc biệt là các nước ở Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc... thì
Bộ Tư pháp quản lý các hoạt động có liên quan đến luật sư và cả Đoàn luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can thiệp của
quyền lực nhà nước. Đó là quyền hành pháp hay quyền tư pháp là phụ thuộc vào
phương thức tổ chức quyền lực của từng nhà nước cụ thể. Bên cạnh sự quản lý của
nhà nước thì các nước đều rất chú trọng đến vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp luật sư. Nhưng vấn đề tự quản đối với luật sư đến đâu là do quy định của
từng nước.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) thì cần có cơ chế phát huy tính tự chủ, tự
quản của các luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của họ, đồng thời tăng cường

sự quản lý của nhà nước đối với đội ngũ luật sư. Để phát triển nghề luật sư ở Việt
Nam đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì vai trò quản lý của nhà nước cần được
tăng cường một bước. Vấn đề này cần được thể hiện theo hướng bảo đảm sự quản
lý chặt chẽ của nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các luật sư trong hành nghề và khuyến khích hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc nhà
nước ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề luật sư, tổ chức đào tạo, cấp
chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động cho Đoàn luật sư, các tổ chức
hành nghề luật sư và kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Nhà nước cần quan tâm
đến việc đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, có đạo đức
tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và quy định cụ thể, chặt chẽ về tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề và đặc biệt về hình thức hành nghề của luật sư. Công
tác quản lý nhà nước đối với nghề luật sư cần xuất phát từ đặc thù của nghề luật sư.


Vai trò tự quản của các Đoàn luật sư cũng cần được đẩy mạnh sao cho phù
hợp với đặc thù của nghề này. Các Đoàn luật sư thực hiện chức năng quản lý các
luật sư và việc hành nghề của họ trong phạm vi những nhiệm vụ, quyền hạn như
đăng ký cho người có Chứng chỉ hành nghề luật sư được gia nhập Đoàn luật sư,
quản lý danh sách luật sư của Đoàn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các luật sư,
giáo dục, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho các luật sư, ban hành Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp và giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư,
nhận yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và phân công luật sư bào chữa cho bị
can, bị cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với luật sư của Đoàn về việc vi phạm
quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, quyết định khen thưởng cho các luật sư có
thành tích xuất sắc trong hoạt động nghề nghiệp của mình, xử lý kỷ luật đối với
luật sư vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp và Điều lệ Đoàn luật sư, tổ
chức lấy ý kiến và tập hợp ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư trong việc xây
dựng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước v.v...
Quy định như vậy vừa phát huy được tính tự quản của tổ chức nghề nghiệp

luật sư, vừa phát huy được vai trò quản lý nhà nước và đặc biệt có sự phối hợp
giữa quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư. Điều
này được thể hiện ở chỗ để được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề
do nhà nước cấp và phải được đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư. Đoàn luật sư
chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi hoạt động hành nghề của các luật sư là thành
viên của Đoàn mình và báo cáo định kỳ tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp và Ủy
ban nhân dân. Nhà nước quản lý hành nghề luật sư thông qua việc kiểm tra, thanh
tra và báo cáo của các Đoàn luật sư. Khi phát hiện luật sư có vi phạm thì Đoàn luật
sư là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm xem xét và xử lý. Trong trường hợp xóa tên
thì phải thông báo cho Bộ Tư pháp. Để bảo đảm quyền cho luật sư, cần quy định
cho luật sư có quyền được khiếu nại tố cáo. Cơ quan đầu tiên có trách nhiệm giải


quyết là Đoàn luật sư. Trong trường hợp không đồng ý với việc giải quyết đó thì có
thể được khiếu nại tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban nhân dân.
Vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác
quản lý luật sư giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư là xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước về luật sư với
quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản cái gì,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư quản cái gì cần phải được làm rõ.
1.2.5. Nguyên tắc quản lý luật sư
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý luật sư được tiến hành trên cơ sở
những nguyên tắc nhất định. Đó chính là những tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp
cho các chủ thể quản lý thực hiện có hiệu quả các công việc của mình khi được phân công. Các nguyên tắc quản
lý luật sư được xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản
chất của chế độ, được quy định trong pháp luật. Các nguyên tắc trong quản lý luật sư được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật, thể hiện tính chất pháp lý của nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách
thống nhất và chính xác trong hoạt động quản lý của mình.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư là những
nguyên tắc cơ bản, chủ yếu trong quản lý luật sư ở các nước trên thế giới. Đây là những nguyên tắc chi phối mọi

hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Ở Việt Nam, nguyên tắc quản lý luật sư nằm trong hệ thống các nguyên tắc quản lý nhà nước nói
chung. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý luật sư ở Việt Nam là:
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh, thống nhất và tự giác của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công
chức nhà nước và mọi công dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện mối tương quan giữa hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ
trang, cán bộ, công chức nhà nước và hành vi xử sự của công dân đối với những quy phạm pháp luật. Nguyên tắc


pháp chế xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản thể hiện bản chất và đặc điểm của pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Nguyên tắc này mang tính khách quan trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi
công dân.
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng pháp luật với
tính chất là một phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên
phương tiện này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng một cách nghiêm chỉnh trên thực tế.
Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán
bộ, công chức nhà nước và mọi công dân trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi năm 2001) quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa" [28, tr. 17].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc chung trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, trong tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta, việc tuân thủ triệt để nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cần thiết và khách quan.
Nghề luật sư là một nghề đặc thù trong xã hội, do đó nguyên tắc pháp c hế

xã hội chủ nghĩa


cần được áp dụng đầy đủ trong tổ chức và hoạt động luật s ư nói chung và trong hoạt động
quản lý sư nói riêng. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý luật sư có
nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối với từng hoạt động khác nhau như:
- Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư;
- Hoạt động tổ chức thực hiện những văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư.
Mọi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
mọi luật sư phải nghiêm chỉnh thực hiện.

* Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.


Ngoài nguyên tắc quản lý chung, mỗi nghề khác nhau trong xã hội còn chịu sự chi phối
của những nguyên tắc quản lý đặc thù với nghề nghiệp đó. Đối với nghề luật sư cũng vậy, thông
lệ chung của các nước trên thế giới và khu vực thì việc quản lý luật sư ngoài việc thực hiện theo
nguyên tắc tuân thủ pháp luật còn được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về
luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, bảo đảm sự
tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề.
Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư là nguyên tắc riêng, nguyên tắc đặc thù của nghề luật sư.
Nguyên tắc này thể hiện tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với luật sư, đồng thời
khẳng định vai trò tham gia quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, mối quan hệ, sự
phối hợp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với luật sư và phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư là đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta.
Đảm bảo thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai

trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nghĩa là:

- Thể chế hóa đầy đủ, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, nội dung quản lý nhà
nước, nội dung tự quản và sự phối hợp trong công tác quản lý luật sư giữa nhà nước và tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư trong việc quản lý luật sư. Đồng thời trong quá trình thực hiện những quy định của pháp
luật về quản lý luật sư cũng cần được quán triệt và thực hiện triệt để nhằm phát huy hết hiệu lực,
hiệu quả quản lý luật sư của nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Để phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý luật sư cần vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo
các nguyên tắc quản lý luật sư trong các giai đoạn phát triển của nghề luật sư. Nhà nước không
thể áp dụng một cách máy móc các nguyên tắc quản lý, đề cao nguyên tắc chung, coi nhẹ nguyên
tắc riêng, nguyên tắc đặc thù hoặc ngược lại.


1.2.6. Nội dung quản lý luật sư
Muốn tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động luật sư nhằm củng cố vai trò của luật sư đối với
đời sống kinh tế - xã hội, cần thiết phải xác định những nội dung cụ thể của hoạt động quản lý luật sư. Nhà nước
với tư cách là chủ thể quản lý phải xác lập một cách rõ ràng các công việc cần phải thực hiện, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện nhằm đảm bảo chúng có khả năng thúc đẩy một cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt
động luật sư đi vào nề nếp và thực sự có hiệu quả. Nội dung quản lý luật sư có tính đồng bộ, toàn diện bao gồm
những nội dung quản lý nhà nước và nội dung quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.

- Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về luật sư, một trong những vấn đề quan
trọng là cần phải xác định rõ những nội dung mà nhà nước cần thực hiện. Thông lệ chung trên
thế giới, nội dung quản lý nhà nước về luật sư thường tập trung vào những vấn đề như xây dựng
chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư, ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản
quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp
luật về luật sư và hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, những nội dung quản lý nhà nước về luật sư được quy định phải tương ứng
với sự phát triển của luật sư và nghề luật sư, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của
mỗi nước.

Trong giai đoạn hiện nay, nội dung quản lý nhà nước cần được thể hiện trên các mặt
như:
+ Xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư;
+ Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành
nghề luật sư;
+ Đào tạo nghề luật sư,
+ Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; cấp, thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ
chức hành nghề,

+ Cho phép thành lập, giải thể tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư;


+ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về luật sư
và hành nghề luật sư,
+ Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư và thực hiện quản lý nhà nước
đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.
Về lâu dài, nhà nước chỉ "nắm những các cần nắm" như việc ban hành văn bản pháp
luật về luật sư và hành nghề luật sư; thực hiện việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm.
- Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư ngày càng được khẳng định. Để phát huy
hiệu quả quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư thì những nội dung quản lý luật sư của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp luật sư cũng cần được cụ thể hóa trên cơ sở nhà nước giao cho họ những quyền hạn và trách
nhiệm.
Nhìn chung, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư chỉ tập trung vào việc giám
sát hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm giám sát việc tuân theo pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp của luật sư, xử lý kỷ luật luật sư v.v.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành ở những cấp khác nhau. Do đó, cần thiết
phải có sự phân định rõ nội dung quản lý luật sư cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở trung ương
và địa phương trên cơ sở phân cấp mạnh mẽ cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở địa phương.
Tổ chức luật sư toàn quốc thực hiện những nội dung quản lý luật sư mang tầm vĩ mô bao gồm:
+ Việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư và hướng dẫn việc thực hiện quy chế đó;

+ Ban hành quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, giám sát việc tuân thủ các quy tắc đó;
+ Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người bị xử
lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư;
+ Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý.
Đồng thời, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định, tổ chức luật sư toàn
quốc sẽ thực hiện một số nội dung quản lý khác như phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc đào tạo nghề luật sư, tổ


chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho luật sư, quy định việc miễn, giảm
thù lao, việc giải quyết khiếu nại liên quan đến thù lao, thanh toán chi phí của luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo
theo thẩm quyền,

tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư và thực hiện các

biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ luật
sư trong cả nước, tập hợp và phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp,
kiến nghị của luật sư với cơ quan nhà nước và t hực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về luật
sư v.v...
Đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở địa phương thì nội dung quản lý luật sư bao gồm:
+ Giám sát và nhận xét về kết quả tập sự của người tập sự hành nghề luật sư tại tổ chức hành nghề luật
sư;

+ Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư trong hành
nghề;
+ Giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư;
+ Giám sát hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư;
+ Yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khi cần thiết đề nghị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý;
+ Hòa giải tranh chấp có liên quan đến hành nghề giữa luật sư với tổ chức hành nghề luật sư; giữa các

tổ chức hành nghề luật sư với nhau, giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật sư;
+ Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện các biện pháp khác
nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư, phản ánh ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư về
xây dựng chính sách, pháp luật của nhà nước, tổ chức để các luật sư tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật v.v...



×