Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.91 KB, 22 trang )

I – MỞ ĐẦU
Tài sản công có vai trò rất quan trọng, Nó là nguồn tài sản lớn đảm
bảo môi trường cho cuộc sống của con người; là yếu tố cơ bản của quá trình
sản xuất và quản lý xã hội; là nguồn lực tài chính tiềm năng cho đầu tư phát
triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bác Hồ đã từng nói:
“Tài sản công là nền tảng, là vốn liếng để khôi phục và xây dựng kinh tế
chung, để làm cho dân giàu nước mạnh, để nâng cao đời sống nhân
dân”.Nhà nước là chủ sở hữu của mọi Tài sản công, song Nhà nước không
phải là người trực tiếp sử dụng toàn bộ Tài sản công mà Tài sản công được
Nhà nước giao cho các cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy nhà nước v.v. trực
tiếp quản lý, sử dụng. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu Tài sản công của
mình, Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với Tài sản
công nhằm sử dụng, bảo tồn, phát triển nguồn Tài sản công tiết kiệm, hiệu
quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Tài sản công trong khu
vực Hành chính sự nghiệp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ Tài sản
công của đất nước, được Nhà nước giao cho các cơ quan hành chính , đơn
vị sự nghiệp và tổ chức chính trị, các tổchức chính trị- xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức) trực tiếp
quản lý, sử dụng. Để quản lý Tài sản công trong khu vực Hành chính sự
nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm quản lý, khai
thác Tài sản công trong khu vực Hành chính sự nghiệp có hiệu quả, tiết kiệm
như: Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nuớc, Luật Đất đai, Luật thực hành
tiết kiệm chống lãng phí, Luật quản lý tài sản nhà nước, Nghị định
số14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 của Chính Phủ về quản lý tài sản nhà
nước v.v. Trong bối cảnh đó, Tài sản công trong khu vực Hành chính sự
nghiệp đã được khai thác, sử dụng góp phần đáng kểvào công cuộc phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Song hệ thống cơ chế quản lý Tài sản
công trong khu vực Hành chính sự nghiệp còn nhiều bất cập, hạn chế chưa
thực sự thích ứng với thực tế. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình
trạng sử dụng Tài sản công trong khu vực Hành chính sự nghiệp không đúng
mục đích, gây lãng phí, thất thoát diễn ra phổ biến như: đầu tư xây dựng




mới, mua sắm tài sản vượt tiêu chuẩn, định mức, sử dụng tài sản vào mục
đích cá nhân. Đây là vấn đề nóng được mọi người quan tâm, nhất là trên
diễn đàn Quốc hội. Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý Tài sản
công 5 trong khu vực Hành chính sự nghiệp là một yêu cầu cấp bách tạo nền
móng vững chắc giải quyết những vấn đề bức xúc cơ bản hiện nay.


II- NỘI DUNG
1-

Tổng quan về quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp công

Tài sản công có vai trò rất quan trọng. Nó là nguồn tài sản lớn của mọi
quốc gia, là yếu tố đảm bảo môi trường cho cuộc sống của con người , là
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất , là nguồn lực Tài chính tiềm năng cho
đầu tư phát triển , phục vụ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước .Do vậy,
viêc quản lý tình hình sử dụng và khai thác nhằm phát huy vai trò to lớn của
công sản có ý nghĩa vô cũng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của các quốc gia trên thế giới .
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu của mọi công sản, Nhà nước phải thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với công sản nhằm sử dụng , bảo tồn,
phát triển nguồn công sản tiết kiệm , hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế- xã hội , bảo vệ môi trường , không ngừng nâng cao đời sống
vật chất , văn hóa và tinh thần của nhân dân.
Ở Việt Nam , cơ quan nhà nước là bao gồm toàn thể những cơ quan
được thành lập và hoạt động theo đúng chức năng của Hiến pháp và pháp
luật . Cơ quan nhà nước bao gồm các cơ quan hành chính Nhà nước , các
đơn vị sự nghiệp công , các đơn vị lực lượng vũ trang , tổ chức chính trị , tổ

chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác và được gọi chung là cơ quan , đơn
vị .Do vậy, nghiên cứu những nội dung về quản lý công sản trong các cơ
quan Nhà nước , đơn vị sự nghiệp công lập cho thấy những nội dung cơ bản
và chủ yếu về quản lý công sản trong các cơ quan nhà nước hiện nay.
1.1. Khái quát về đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước là tổ chức được Nhà nước
thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp như giáo dục – đào tạo ,
khoa học – công nghệ , y tế, văn hóa , thể thao , nghiên cứu… có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân vì các đơn vị naỳ cung cấp cho xã hội
nguồn nhân lực chất lượng cao , quy trình công nghệ cao , công trình nghiên
cứu khoa học cơ bản phục vụ kinh tế - xã hội phát triển .


Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập :
- Đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước là đơn vị do nhà nước thành
lập , chịu sự kiểm tra trực tiếp của Nhà nước thành lập ra mình và của các cơ
quan cấp trên nhằm thực hiện đúng chức năng , nhiệm vụ theo quyết định
thành lập và các quy định của pháp luật hiện hành .
- Đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước có con dấu riêng, tài khoản
riêng và có thẩm quyền pháp lý nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
theo quy định và thực hiện các hoạt động khác phù hợp với quy định của
pháp luật hiện hành .
- Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của nhà nước phải đảm
bảo thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ theo quyết định thành lập .ngoài
ra , các đơn vị sự nghiệp có thể chủ động tận dụng năng lực sẵn có về cơ sở
vật chất và trình độ chuyên môn của cán bộ trong đơn vị mình để hợp tác
với các thành phần kinh tế trong xã hội nhằm tăng thêm thu nhập và nâng
cao đời sống cho cán bộ công nhân viên phù hợp với những quy định của
nhà nước .
Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập :

- Phân loại theo thủ tục thành lập : có đơn vị do quốc hội thành lập hoặc
Hội đồng nhân dân thành lập , có đơn vị do chính phủ, các bộ , các UBND
thành lập …
- Phân loại theo cấp quản lý hành chính : có đơn vị Trung ương quản lý
( Chính phủ và các Bộ ) , cơ quan địa phương ( UBND và cơ quan chuyên
môn ).
- Phân theo thẩm quyền : có đơn vị thẩm quyền thực hiện những chức
năng nhiệm vụ mang tính quốc gia , nhưg có những đơn vị sự nghiệp chỉ có
thẩm quyền thuộc phạm vi đối với ngành hoặc lĩnh vực nhất định tại địa
phương hoặc các cơ quan nhất định .
- Phân loại theo hoạt động : các đơn vị sự ngiệp công lập bao gồm :
• Đơn vị thực hiện các dịch vụ sự nghiệp công : bao gồm việc cung cấp
các phúc lợi về y tế , giáo dục , văn hóa, khoa học , bảo hiểm , thể dục thể
thao … do các tổ chức sự nghiệp Nhà nước thực hiện .


• Đơn vị thực hiện các nhiệm vụ công ích bao gồm việc cung cấp các
phúc lợi vật chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt của toàn xã hội như xây dựng
kết cấu hạ tầng , cung cấp điện nước, vệ sinh môi trường , giao thông công
cộng …
• Các cơ quan thực hiện các dịch vụ công phục vụ sản xuất như các hoạt
đông khuyến nông , khuyến lâm , cung cấp giống, thủy lợi , dự báo dich
bệnh , thông tin về thị trường , môi trường .
• Đơn vị thực hiện các dịch vụ thu các khoản đóng góp vào ngân sách
và các quỹ Nhà nước : thu thuế nội địa , hải quan , thu phí .
• Đơn vị phục vụ công cộng như cơ quan quản lý ngành và cơ quan
quản lý lĩnh vực công tác.
- Phân loại theo mức độ tự chủ tài chính :
• Đơn vị thực hiện chế độ tự chủ tài chính ; đơn vị chưa thực hiện chế
độ tự chủ tài chính .

1.2. Tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Công sản trong các đơn vị sự nghiệp công là những tài sản Nhà nước
giao cho các cơ quan , đơn vị trực tiếp quản lý , sử dụng phục vụ cho việc
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan , đơn vị. Công sản trong các cơ quan nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập rất phong phú, đa dạng , có loại xác định
được giá trị , có loại vô giá, đa số là tài sản hữu hình , cũng có loại tài sản
vô hình .tài sản hữu hình bao gồm :
- Đất đai, nhà cửa, công trình , vật kiến trúc : là tài sản của cơ quan ,
đơn vị được nhà nước giao và hình thành sau quá trình đầu tư xây dựng
như : trụ sở làm việc , trường học , bệnh viện , nhà thi đấu thể thao , nhà văn
hóa, phòng thí nghiệm, nhà kho , hàng rào, tháp nước , sân bãi, đường xá,
cầu cống …;
- Phương tiện đi lại bao gồm : xe ô tô, xe máy công, tàu , xuồng..;
- Máy móc, thiết bị là toàn bộ các loại máy móc . thiết bị trang bị cho
cán bộ , công chức để làm việc và phục vụ hoạt động của cơ quan hành
chính , đơn vị sự nghiệp như : máy móc chuyên dung, thiết bị công tác ,
thiết bị truyền dẫn, dây chuyền công nghệ , những máy móc đơn lẻ…;


- Thiết bị , dụng cụ quản lý là những thiết bị, dụng cụ dung trong công
tác , quản lý hoạt động của cơ quan , đơn vị như :máy vi tính, thiết bị điện
tử, thiết bị, dụng cụ đo lường , kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm , hút bụi,
chống mối mọt …;
- Vườn cây lâu năm , súc vật nuôi để thí nghiệp hoặc nhân giống như :
vườn cà phê, vườn chè , vườn cao su, vườn cây ăn quả và đàn gia súc .
- Các loại tài sản khác có thể bao gồm toàn bộ các tài sản chưa liệt kê
vào 5 loại trên như : tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật …
Nhìn chung , công sản tại các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập trong quá trình sử dụng luôn có sự biến đổi cả về số lượng , chất
lượng và giá trị . Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội , quá trình

công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước , tài sản trong các đơn vị sự
nghiệp công lập ngày càng gia tăng về số lượng nhằm đáp ứng kịp thời nhu
cầu công tác ngày càng cao của cơ quan, đơn vị .
1.3 . Nội dung quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp công lập
a. Quản lý công sản trong các đơn vị sự nghiệp công lập nếu xét theo
“ đời sống “ tài sản , việc quản lý sẽ bao gồm những nội dung sau :
Quản lý hình thành tài sản :
Hiên nay, nguồn hình thành tài sản nhà nước bao gồm :
- Nhà nước bàn giao bằng hiện vật, quyền sử dụng đất .
- Nhà nước bàn giao ngân sách nhà nước để đầu tư
Như vậy quản lý quá trình hình thành tài sản công sẽ bao gồm các nội
dung sau :
• Đăng ký tài sản ;
• Quản lý quá trình tiếp nhận tài sản bằng hiện vật , quyền sử dụng đất
của Nhà nước bàn giao lúc đầu và bổ sung ;
• Quản lý quá trình đầu tư xây dựng ;
• Quản lý quá trình mua sắm tài sản ;
Riêng quá trình đầu tư xây dựng và mua sắm gồm 2 giai đoạn : quyết
định chủ trương và thực hiện đầu tư, mua sắm Tài sản .cơ quan tài chính là
cơ quan chịu trách nhiệm giúp chính quyền các cấp quyết định chủ trương
đầu tư, mua sắm , xác định nhu cầu vốn để ghi vào dự toán ngân sách Nhà


nước trên cơ sở chế độ , chính sách, tiêu chuẩn , định mức sử dụng tài sản
Nhà nước và khả năng , nhu cầu đầu tư , xây dựng , mua sắm tài sản của các
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp .Sau khi có chủ trương đầu tư , mua
sắm tài sản , việc thực hiện đầu tư , mua sắm phải được thực hiện theo quy
định về đầu tư xây dựng cơ bản , quy định về mua sắm Tài sản do Thủ tướng
Chính phủ quy định .


Quản lý quá trình khai thác , sử dụng tài sản :
Là thực hiện quản lý việc sử dụng công sản theo mục đích , theo tiêu
chuẩn , định mức và chế độ sử dụng tài sản và bao gồm những nội dung
sau :
• Quản lý quá trình khai thác và sử dụng tài sản ;
• Quản lý quá trình khấu hao tài sản và phản ánh hao mòn tài sản đối
với tài sản là tài sản cố định ;
• Quản lý quá trình cải tạo , sửa chữa, nâng cấp tài sản nhằm đảm bảo
cho việc sử dụng công sản có hiệu quả , tiết kiệm, đáp ứng được nhu cầu
công tác của đơn vị sự nghiệp công lập .
Quản lý quá trình kết thúc tài sản :
Công sản thuộc đơn vị sự nghiệp công lập đưa vào sử dụng sau một thời
gian nhất định đều có quá trình kết thúc để thay thế bằng tài sản khác ( trừ
đất đai, công trình thuộc kết cầu hạ tầng và một số công trình có tính chất tài
sản lâu bền khác ) . Do vậy , nội dung quản lý bao gồm :
• Quản lý việc thanh lý tài sản . Đối với tài sản cố định và những công
cụ lao động , khi bị hư hỏng hoặc không thể sử dụng được , phải trải qua quá
trình thanh xử lý để thu hồi phần giá trị có thể thu hồi được cho ngân sách
Nhà nước và đồng thời đó cũng là căn cứ để chuẩn bị đầu tư , mua sắm tài
sản mới .
• Quản lý việc thu hồi , điều chuyển tài sản từ đơn vị này sang đơn vị
khác đối với những tài sản không cần dùng hoặc phải điều chuyển.


b. Quản lý công sản trong các đơn vị sự nghiệp công lập nếu xét theo
quy trình quản lý cụ thể của tài sản thì nội dung quản lý tài sản công trong
các đơn vị sự nghiệp bao gồm :
- Đăng kí tài sản ;
- Đầu tư xây dựng nhà và công trình khác ;
- Mua sắm tài sản , phương tiện và trang thiết bị ;

- Tiêu chuẩn định mức sử dụng tài sản ;
- Bảo dưỡng sửa chữa tài sản cố định ;
- Thanh lý tài sản không cần dùng ,không còn dùng được ;
- Thu hồi , điều chuyển tài sản trong các cơ quan Nhà nước và đơn vị sự
ngiệp công lập
- Báo cáo tài sản ;
- Quản lý đất đai ở cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Thực trạng quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp công
lập ở Việt Nam
Ngày 01/01/2009, Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 3 thông
qua ngày 03/6/2008) chính thức có hiệu lực thi hành, là cơ sở pháp lý quan
trọng đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước.
Cùng với quy định tại Luật này, từ trước thời điểm trên, nhiều quy định
liên quan đến việc quản lý tài sản nhà nước đã được ban hành và thực hiện
như Nghị định số 137/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy
định việc phân cấp quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước tại cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và tài sản được xác lập quyền sở hữu
của nhà nước, Quyết định số 202/2006/QĐ-TTg ngày 31/8/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn
vị sự nghiệp công lập, Thông tư số 112/2006/TT-BTC ngày 27/12/2006 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn
vị sự nghiệp công lập ban hành kèm theo Quyết định số 202/2006/QĐ-TTg,
Nghị định số 118/2006/NĐ-CP ngày 02/10/2006 của Chính phủ về xử lý
trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức,...
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là mặc dù việc quản lý tài sản công đã
được quan tâm song số lượng văn bản điều chỉnh về vấn đề này quá nhiều,


manh mún, không tập trung, thống nhất. Có những quy định còn chung

chung, thiếu cụ thể, gây khó khăn trong việc tìm hiểu và thực thi.
Đây cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới thực trạng hoạt động quản lý
tài sản công thời gian qua còn tồn tại những yếu kém như mất mát, hư hỏng,
sử dụng lãng phí, khó xác định trách nhiệm, vi phạm không được xử lý kịp
thời.
Mặt khác, mỗi cơ quan, đơn vị có những đặc thù riêng, mỗi tài sản cũng
có đặc thù riêng đòi hỏi phải có quy chế quản lý tương ứng mới đảm bảo
nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản.
Do đó, điều cần thiết là trên cơ sở quy định chung của pháp luật, trong
từng cơ quan, đơn vị phải xây dựng quy chế quản lý tài sản sao cho phù hợp
với đặc điểm, tình hình của đơn vị mình, góp phần thực hiện nội dung mà
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định 'cần bổ sung
hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước
về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, không để sơ hở cho kẻ
xấu lợi dụng, phải tăng cường quản lý, kiểm tra ngăn chặn lãng phí, tham
nhũng tiền và tài sản công'.
Như vậy, xây dựng quy chế quản lý tài sản, nâng cao hiệu quả quản lý,
sử dụng tài sản chính là một biện pháp để thực hiện chủ trương của Đảng và
Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, một nội dung quan trọng
trong hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minhhhh.
Theo báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trong thời gian qua, các cơ
quan có thẩm quyền đã ban hành được tương đối đầy đủ văn bản pháp luật
về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và nhờ đó, công tác quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước đã từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, công khai và có hiệu
quả. Nhà nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng, giá
trị và cơ cấu phân bố sử dụng tài sản nhà nước trong khu vực hành chính sự
nghiệp và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp. Nhà nước cũng đã đã
thực hiện được phân cấp rõ hơn một bước nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài
sản nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp, giữa các

cơ quan có chức năng quản lý chuyên ngành về tài sản nhà nước với các cơ
quan, đơn vị được giao quản lý gắn với sử dụng tài sản nhà nước; đồng thời
xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong quản lý, trách
nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản. Từ năm 2001 đến nay, Chính


phủ đã chỉ đạo thực hiện rà soát, sắp xếp lại nhà, đất trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh, làm cơ sở để từng bước nhân rộng ra thực hiện trên phạm vi
cả nước…
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và kết quả rất đáng khích lệ đã đạt
được như đã nêu ở trên, lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước hiện nay
cũng còn nhiều hạn chế, rất cần được phân tích, đánh giá phục vụ cho việc
xem xét, thảo luận và biểu quyết thông qua dự án Luật Quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước.
Một số hạn chế
• Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước quy định còn phân tán,
chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa điều chỉnh bao quát hết các quan hệ về
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và hiệu lực pháp lý còn thấp.
Hiện nay trong hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta có tới 45 văn
bản quy phạm pháp luật có các quy định liên quan đến tài sản nhà nước, từ
Hiến pháp cho đến các quyết định, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ. Như vậy là quá phân tán. Trong khi đó cho đến thời điểm
hiện nay, hai văn bản cấp nghị định của Chính phủ là Nghị định số
14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 về quản lý tài sản nhà nước và Nghị định số
137/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định việc phân cấp quản lý nhà nước
đối với tài sản nhà nước tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập,
tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước vẫn là hai văn bản pháp luật
chuyên ngành quan trọng nhất, quy định tập trung nhất về quản lý, sử dụng
tài sản nhà nước. Nhưng, hai văn bản này cũng mới chủ yếu quy định việc
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự

nghiệp công lập, còn những quan hệ về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại
các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp dường như vẫn
chưa được quy định rõ ràng và đầy đủ. Do vậy, hiệu lực pháp luật của các
quy định trong lĩnh vực đặc biệt quan trọng và nhạy cảm này vừa rất thấp,
vừa thiếu nên không thể tạo ra một khuôn khổ pháp luật phù hợp để cho hoạt
động quản lý và sử dụng tài sản nhà nước vận hành đúng đắn và có hiệu quả.
Cho đến thời gian gần đây, Dự án Luật Quản lý tài sản nhà nước mới được
trình để Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
• Các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thực sự quản lý, theo dõi sát
được thực trạng và biến động của tài sản nhà nước trên thực tế hiện nay.


Cho đến nay, như Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội, chúng ta mới
chỉ nắm được tổng quan về tài sản nhà nước. Có nghĩa là, hiện nay, từ Quốc
hội, Chính phủ cho đến các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương…
đều chưa thực sự nắm rõ được tình trạng tài sản nhà nước như thế nào, cả về
số lượng, giá trị, chất lượng và hiện trạng phân bổ sử dụng. Đây sẽ là một
thách thức không nhỏ đối với các đại biểu Quốc hội khi xem xét, cho ý kiến
và biểu quyết thông qua dự án Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Quốc
hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân khi xem xét, quyết định về
việc sử dụng tài sản nhà nước – cũng là tài sản thuộc sở hữu toàn dân nếu
như chưa thực sự hiểu rõ đối tượng mà mình xem xét, quyết định là thế nào
thì quả là khó cho Quốc hội, khó cho mỗi đại biểu Quốc hội.
• . Tình trạng sử dụng tài sản nhà nước sai mục đích, sai tiêu chuẩn,
định mức, chế độ, lãng phí vẫn còn xảy ra khá phổ biến ở các lĩnh vực, các
cơ quan, tổ chức
Có thể nói tình trạng sử dụng, quản lý không đúng mục đích, cho thuê,
cho mượn, để thất thoát, lãng phí rất lớn ở hầu như các ngành, các cơ quan,
tổ chức, các địa phương, ở hầu hết các khâu của quá trình quản lý, từ khâu
quyết định mua sắm đến khâu quản lý, sử dụng, đến khâu thanh lý và ở tất

cả các khâu liên quan đến tài sản nhà nước. Đất đai, trụ sở làm việc của các
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức xã hội và doanh nghiệp còn bị
sử dụng lãng phí, sử dụng sai mục đích như: bỏ trống, cho thuê, cho mượn,
sử dụng để kinh doanh sai mục đích… Một số trường hợp thực hiện mua
sắm, điều chuyển, thanh lý tài sản nhà nước sai thẩm quyền, sai tiêu chuẩn,
chế độ dẫn đến thất thoát. Trong đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản, thì
tình trạng lãng phí trong đầu tư, mua sắm vượt tiêu chuẩn định mức, vượt
mức giá cho phép mặc dù đã có hạn chế nhưng vẫn còn xảy ra thường
xuyên.
Hiện nay vẫn còn tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức chiếm giữ quá nhiều
nhà, đất so với nhu cầu sử dụng thực tế, dẫn đến sử dụng sai mục đích hoặc
lãng phí. Qua công tác thanh tra đã phát hiện: năm 2001 có 6 bộ, ngành sử
dụng trụ sở sai mục đích 15.353 m2; có 14 tỉnh cho thuê 3.482 m2, 9 tỉnh,
thành phố sử dụng vào các mục đích khác 142.227 m2; năm 2002 kiểm tra
31/33 bộ, ngành ở trung ương và kiểm tra 59/61 địa phương phát hiện một
số đơn vị đã sử dụng trụ sở làm việc để cho thuê là 16.000 m2, để kinh
doanh dịch vụ và các mục đích khác là 157.000 m2.


Việc mua sắm xe mới, quản lý, sử dụng xe ô tô công cũng đang là vấn
đề hết sức bức xúc. Những tồn tại chủ yếu là mua xe vượt tiêu chuẩn, vượt
giá quy định. Năm 2001 có 14 bộ, ngành, 45 địa phương mua xe vượt giá,
vượt tiêu chuẩn; năm 2002 và năm 2003 có 32/64 đơn vị thuộc 7 bộ, ngành
và 60 đơn vị thuộc 7 địa phương mua xe vượt giá quy định; năm 2004 có
22/64 đơn vị mua 34 xe ô tô vượt giá quy định, cá biệt có trường hợp mua
xe với giá cao, lãng phí không cần thiết hoặc trang cấp xe ô tô cho cả những
đơn vị không có tiêu chuẩn sử dụng xe. Một số bộ, ngành và địa phương vẫn
còn hiện tượng sử dụng xe vượt định mức hay sử dụng xe cho mượn dài
ngày, sử dụng xe vào việc riêng…
Việc đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản vẫn còn hiện tượng vượt

tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép. Theo kết quả thanh tra năm
2001, có 14 bộ, ngành mua 29 xe ô tô vượt giá với tổng số tiền vượt là 1.079
triệu đồng; 45 tỉnh thành phố mua xe vượt tiêu chuẩn tới 265 xe, với tổng số
tiền vượt là 30.957 triệu đồng; 2 bộ, ngành xây dựng trụ sở làm việc vượt
tiêu chuẩn định mức 3.268 m2; 22 tỉnh, thành phố xây dựng trụ sở vượt định
mức 35.507 m2. Năm 2002 có 17/33 bộ, ngành ở trung ương và 41/61 địa
phương mua xe ô tô con vượt quy định về giá trị, vượt tiêu chuẩn về đầu xe
với tổng giá trị 33 tỷ đồng.
Công tác quản lý tài chính đất đai, tài nguyên khác còn nhiều sơ hở, cụ
thể như: một số địa phương xác định giá thuê đất thấp hơn nhiều so với quy
địnhm, cá biệt có một số địa phương áp dụng chỉ thu bằng 50% đối với các
tổ chức trong nước đã sử dụng đất thuê từ năm 1995 trở về trước. Bao cấp
đất đai cho tổ chức, cá nhân được nhà nước giao đất ở một số dự án tại một
số địa phương vẫn còn tiếp diễn do giá đất tính thu tiền sử dụng đất vẫn do
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành còn thấp so với quy
định.
Cho đến nay, vẫn còn tình trạng sử dụng nhà, đất của các cơ quan, tổ
chức để kinh doanh hoặc cho thuê, việc xây dựng trụ sở làm việc mới tại
một số cơ quan, tổ chức vẫn vượt tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà làm việc
do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo một kết quả kiểm tra năm 2005, có
2 bộ, ngành xây dựng trụ sở làm việc vượt 3268 m2, có 22 tỉnh xây dựng trụ
sở vượt mức 35.507 m2, và các cơ quan sử dụng nhà làm việc để cho thuê
tại thời điểm năm 2005 của 31 bộ, ngành trung ương và 59 địa phương với
173.000 m2 nhà.


• . Việc quản lý nhà nước chuyên ngành về tài sản nhà nước trên thực tế
còn nhiều hạn chế, bị động và thiếu tính chuyên nghiệp.
Tổ chức bộ máy quản lý tài sản nhà nước các cấp là bộ phận giúp chính
quyền các cấp, thủ trưởng bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước

đối với tài sản nhà nước mặc dù đã được quy định nhưng việc triển khai trên
thực tế còn rất chậm, dẫn đến các chế độ và biện pháp cụ thể để quản lý tài
sản nhà nước chưa được thực hiện thống nhất tại các bộ, ngành, địa phương;
hệ thống thông tin trong phạm vi cả nước làm căn cứ để chỉ đạo công tác
quản lý tài sản nhà nước rất thiếu và yếu.
3 . Phương hướng và giải pháp đổi mới Tài sản công trong các đơn
vị sự nghiệp công.
3.1. Định hướng về đổi mới quản lý tài sản công
Đối với quản lý, sử dụng tài sản tại cơ quan Nhà nước, đơn vị sự
nghiệp và các tổ chức, sẽ hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng
tài sản công; Tiếp tục triển khai thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà
nước; tổ chức đánh giá 5 năm triển khai Luật để tiến tới xây dựng Luật bổ
sung, sửa đổi với mục tiêu bao quát hết các loại tài sản công; Đẩy nhanh tiến
độ sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước đồng thời thực hiện
hậu kiểm tra sau khi phương án được phê duyệt; Hiện đại hóa công tác quản
lý công sản và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia; Thực hiện công khai, minh
bạch trong quản lý, sử dụng tài sản công và tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát.
Đối với quản lý, sử dụng tài sản công là kết cấu hạ tầng, sẽ tập trung
xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật thống nhất về quản lý tài tài sản công thuộc kết cấu hạ tầng với
quan điểm Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển, khai thác và bảo vệ tài
sản công thuộc kết cấu hạ tầng; Huy động các nguồn lực ngoài Nhà nước để
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; Thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý tài
sản công thuộc kết cấu hạ tầng và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, sử
dụng tài sản công thuộc kết cấu hạ tầng.
Đối với quản lý, sử dụng tài sản công do xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước, về xử lý tài sản tịch thu do vị phạm hành chính, sẽ sửa đổi Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng
thống nhất một cơ quản quản lý và xử lý. Việc xác định giá tài sản Nhà nước



theo hướng, giá trị tài sản Nhà nước phải do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định. Về tổ chức bán tài sản nhà nước, sẽ xác định công tác bán
đấu giá là một nghề kinh doanh vì vậy cần được xã hội hoá để tạo ra sự cạnh
tranh bình đẳng. Đối với trường hợp bán đấu giá tài sản công thì nhất thiết
phải thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý sử dụng tài sản công,
bao gồm Hội đồng bán đấu giá đối với tài sản có giá trị lớn, phức tạp, Hội
đồng không cần có đấu giá viên, việc niêm yết công khai tài sản bán đấu
giá...
Đối với quản lý tài chính đất đai, sẽ rà soát, đánh giá, tổng kết hệ thống
cơ chế, chính sách về quản lý đất đai và tài nguyên thiên nhiên; Sửa đổi bổ,
sung Luật Đất đai năm 2003. Sau khi Luật Đất đai sửa đổi được ban hành thì
tổng kết, rà soát các cơ chế tài chính đối với đất đai hiện đang được quy
định tại rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để thống nhất hệ
thống chính sách tài chính đối với đất đai
Bên cạnh các giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý tài sản công, đề án
còn đề cập đến các giải pháp về tổ chức thực hiện như công tác tuyên
truyền, phổ biến; thanh tra, kiểm tra; bộ máy tổ chức thực hiện và sự phối
hợp của các bộ, ngành, địa phương và các cấp chính quyền…, coi đây là
những biện pháp có ý nghĩa quan trọng góp phần quản lý tiết kiệm, có hiệu
quả tài sản công.
Đồng thời, Đề án xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ tài sản công hiện có
gắn với thị trường sẽ làm tăng hiệu quả của quản lý. Tổ chức tốt việc xây
dựng và thực hiện những định hướng đổi mới cơ chế quản lý tài sản công
nhằm thực hiện quản lý chặt chẽ tài sản công và khai thác cao nhất nguồn
lực từ tài sản, đất đai, tài nguyên quốc gia phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2011-2020.
3.2. Quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp công lập
Đối với những tài sản nhà nước đã được cấp có thẩm quyền (Thủ tướng

Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh và cơ quan chủ quản) quy định tiêu chuẩn, định mức sử
dụng thì đơn vị được trang cấp tài sản để sử dụng theo tiêu chuẩn, định mức
và chế độ đã quy định.
Trường hợp tài sản chưa được cấp có thẩm quyền qui định về tiêu chuẩn,
định mức, chế độ sử dụng thì trên cơ sở nhu cầu sử dụng tài sản để phục vụ
hoạt động của đơn vị và các quy định của Nhà nước có liên quan đến việc đầu


tư, mua sắm, sử dụng tài sản, đơn vị tự xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử
dụng cụ thể đối với từng loại tài sản, báo cáo Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương (sau đây gọi chung là thủ trưởng cơ quan
trung ương) phê duyệt đối với đơn vị sự nghiệp thuộc trung ương quản lý; báo
cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt đối với đơn vị sự nghiệp thuộc địa
phương quản lý. Trường hợp thủ trưởng cơ quan trung ương, Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh có quy định phân cấp thẩm quyền phê duyệt thì việc phê duyệt
được thực hiện theo phân cấp.
Đơn vị tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động và đơn vị tự bảo đảm một
phần kinh phí hoạt động, căn cứ vào nhu cầu sử dụng tài sản phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được phép đầu tư xây dựng, mua sắm
thêm tài sản từ các nguồn Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ phúc lợi,
các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị được phép sử dụng và các
nguồn vốn huy động, liên doanh, liên kết theo quy định. Việc đầu tư xây
dựng, mua sắm thêm những tài sản này không được sử dụng từ nguồn kinh
phí do ngân sách nhà nước cấp. Riêng đối với trụ sở làm việc và xe ô tô phục
vụ công tác không được đầu tư xây dựng, mua sắm thêm vượt tiêu chuẩn,
định mức đơn vị được phép sử dụng.
Đối với những tài sản nhà nước đã được cấp có thẩm quyền (Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban

nhân dân cấp tỉnh và cơ quan chủ quản) quy định tiêu chuẩn, định mức sử
dụng thì đơn vị được trang cấp tài sản để sử dụng theo tiêu chuẩn, định mức
và chế độ đã quy định.
Trường hợp tài sản chưa được cấp có thẩm quyền qui định về tiêu chuẩn,
định mức, chế độ sử dụng thì trên cơ sở nhu cầu sử dụng tài sản để phục vụ
hoạt động của đơn vị và các quy định của Nhà nước có liên quan đến việc đầu
tư, mua sắm, sử dụng tài sản, đơn vị tự xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử
dụng cụ thể đối với từng loại tài sản, báo cáo Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương (sau đây gọi chung là thủ trưởng cơ quan
trung ương) phê duyệt đối với đơn vị sự nghiệp thuộc trung ương quản lý; báo
cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt đối với đơn vị sự nghiệp thuộc địa
phương quản lý. Trường hợp thủ trưởng cơ quan trung ương, Uỷ ban nhân


dân cấp tỉnh có quy định phân cấp thẩm quyền phê duyệt thì việc phê duyệt
được thực hiện theo phân cấp.
Đối với phương tiện vận tải, máy móc và các trang thiết bị chuyên dùng
khác mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, quyền quản
lý sử dụng tài sản nhà nước, thì đơn vị phải thực hiện việc đăng ký theo quy
định ngay sau khi thực hiện mua sắm hoặc tiếp nhận tài sản.
Việc sử dụng tài sản tại đơn vị sự nghiệp để góp vốn liên doanh, liên kết
được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Quy chế phải bảo đảm
nguyên tắc: hoạt động liên doanh, liên kết phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của đơn vị đã được giao, không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ nhà nước giao
cho đơn vị và hỗ trợ, tăng cường cho các hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Giá
trị tài sản đưa vào góp vốn liên doanh, liên kết phải được tổ chức có chức
năng thẩm định giá tài sản được phép hoạt động theo quy định của pháp luật,
định giá lại theo giá trị thực tế trên thị trường tại thời điểm đưa vào góp vốn
liên doanh, liên kết và phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng tài

sản để góp vốn liên doanh, liên kết phê duyệt.

Đơn vị sự nghiệp chỉ được dùng những tài sản đã mua sắm từ nguồn Quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp và từ các nguồn vốn huy động để thế chấp vay
vốn phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của đơn vị. Trên
cơ sở số tài sản hiện có được hình thành từ các nguồn vốn trên, thủ trưởng
đơn vị sự nghiệp căn cứ vào kế hoạch, dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ của
đơn vị đã được cấp thẩm quyền phê duyệt, nhu cầu sử dụng vốn, khả năng
bảo toàn và hiệu quả sử dụng vốn để quyết định việc thế chấp tài sản vay vốn
và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
Thủ tục thực hiện thế chấp tài sản để vay vốn phục vụ cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và xử lý tài sản đã thế chấp thực hiện theo quy
định của pháp luật có liên quan và quy định cụ thể của tổ chức tín dụng mà
đơn vị lựa chọn để thực hiện việc thế chấp tài sản vay vốn.
Đơn vị phải sử dụng đất do nhà nước giao đúng với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; nghiêm cấm
đơn vị sự nghiệp sử dụng đất được giao để xây dựng trụ sở cơ quan, công
trình sự nghiệp vào mục đích khác. Đất được giao để phục vụ cho hoạt động
sự nghiệp, đơn vị phải xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị


tài sản nhà nước tại đơn vị theo quy định tại Nghị định số 13/2006/NĐ- CP
ngày 24 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về xác định giá trị quyền sử dụng
đất để tính vào giá trị tài sản của các tổ chức được Nhà nước giao đất không
thu tiền sử dụng đất và lập hồ sơ quản lý theo quy định của pháp luật về đất
đai hiện hành.
Đối với tài sản có quyết định bán, chuyển nhượng thì đơn vị trực tiếp
quản lý tài sản thực hiện thuê tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản được
phép hoạt động theo quy định của pháp luật để bán đấu giá. Trường hợp được
cơ quan có thẩm quyền cho phép bán, chuyển nhượng tài sản theo phương

thức chỉ định, thì giá bán, chuyển nhượng tài sản phải được tổ chức có chức
năng định giá tài sản được phép hoạt động theo quy định của pháp luật xác
định và được cấp thẩm quyền đã cho phép bán, chuyển nhượng tài sản phê
duyệt.
Đối với tài sản có quyết định thu hồi, điều chuyển thì đơn vị có tài sản
bị thu hồi, điều chuyển và đơn vị được giao tiếp nhận tài sản phối hợp tổ chức
việc bàn giao tài sản, có sự tham gia của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp.
Tài sản thu hồi, điều chuyển giữa các đơn vị sự nghiệp, giữa các đơn vị
sự nghiệp với các cơ quan khác được thực hiện kiểm kê về số lượng theo thực
tế, giá trị đang theo dõi trên sổ sách kế toán tại thời điểm có quyết định thu
hồi, điều chuyển và là căn cứ để hạch toán tăng, giảm tài sản (theo mẫu Biên
bản bàn giao tài sản đính kèm thông tư này). Riêng trường hợp thu hồi, điều
chuyển tài sản giữa đơn vị sự nghiệp với tổ chức kinh tế thì phải xác định giá
trị còn lại thực tế của tài sản (do tổ chức có chức năng thẩm định giá tài sản
được phép hoạt động theo quy định của pháp luật thực hiện); kết quả thẩm
định được sử dụng làm căn cứ để hạch toán tăng, giảm giá trị tài sản.
Đối với tài sản có quyết định thanh lý, đơn vị có tài sản thanh lý thuê tổ
chức có chức năng bán đấu giá tài sản được phép hoạt động theo quy định của
pháp luật thực hiện bán tài sản thanh lý theo phương thức đấu giá; nếu tại địa
bàn quận, huyện nơi có tài sản thanh lý không có tổ chức có chức năng bán
đấu giá tài sản hoặc có nhưng các tổ chức này từ chối thực hiện bán, thì đơn
vị được thành lập Hội đồng thanh lý tài sản theo quy định để bán đấu giá tài
sản. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cho phép thực hiện thanh lý phá dỡ,
huỷ tài sản thì đơn vị có tài sản thanh lý được thực hiện phá dỡ, huỷ tài sản,
nhưng phải thu hồi nguyên vật liệu tài sản phá dỡ (nếu có) để bán. Sau khi đã


tổ chức thanh lý tài sản theo quyết định, đơn vị hạch toán giảm giá trị tài sản
đã thanh lý đang theo dõi trên sổ sách kế toán của đơn vị.
3.3.Những kiến nghị

Việc xây dựng quy chế quản lý tài sản cho phù hợp với mỗi cơ quan,
đơn vị là cần thiết, song trong quá trình xây dựng cũng cần tiếp thu kinh
nghiệm quản lý tài sản của các đơn vị khác để áp dụng tại đơn vị mình.
Đồng thời, để quy chế dễ áp dụng, cần quy định ngắn gọn, tập trung,
tránh dàn trải những quy định mang tính nguyên tắc không cần thiết.
Sau khi quy chế được xây dựng, để việc thực hiện có hiệu quả và triệt
để, cần có biện pháp tổ chức tuyên truyền nội dung quy chế đến từng cán bộ,
viên chức trong cơ quan, đơn vị, đặc biệt những quy định liên quan trực tiếp
đến trách nhiệm của mỗi bộ phận.
Đối với một số quy định quan trọng, có thể trích dẫn, phóng to treo tại
phòng làm việc hoặc nơi có tài sản.
Bên cạnh đó, đối với tài sản đòi hỏi thao tác chuẩn khi sử dụng để tránh
hư hỏng, có thể ghi rõ trình tự một số thao tác quan trọng hướng dẫn sử
dụng ngay tại nơi có tài sản.
Ngoài ra, có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ khác như quy định
việc bắt buộc đeo thẻ đối với học viên ra vào trường, người lao động của
trường hay áp dụng các sản phẩm, công nghệ tiên tiến trong quản lý.
Nói tóm lại, xuất phát từ thực trạng quy định cũng như hoạt động quản
lý tài sản nhà nước hiện nay, đòi hỏi mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng quy
chế quản lý tài sản để đảm bảo quản lý có hiệu quả, tránh lãng phí trong sử
dụng nguồn lực nhà nước. Tuy nhiên để quy định có thể thực thi, cần đảm
bảo nguyên tắc pháp chế, đảm bảo ngắn gọn và có biện pháp tổ chức thực
hiện phù hợp, kiên quyết.
III. KẾT LUẬN
Tài sản nhà nước là một bộ phận quan trọng của tài nguyên quốc gia,
đóng vai trò quan trọng việc phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng nên cần phải bảo đảm sự quản lý và sử dụng một cách có hiệu
quả, đúng mục đích và tiết kiệm. Việc Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước lần này mặc dù có thể sẽ không dễ
dàng do đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của một bộ phận không nhỏ các cơ

quan, tổ chức và cá nhân đang được hưởng lợi từ tài sản nhà nước, nhưng rất
được sự quan tâm và ủng hộ của nhân dân.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình quản lý công sản
/> /> /> />

MỤC LỤC


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
Đề tài:

QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG

HÀ NỘI - 2013




×