Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIẾP THU GIÁ TRỊ văn hóa của THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.52 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-

NGUYỄN THANH NGA

TIẾP THU GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA THẾ GIỚI
VÀO VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THỊ MINH OANH


HÀ NỘI - 2010

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Tôi chọn vấn đề này làm đề tài luận văn thạc sỹ vì những lý do
sau:
Một là: Giao lưu văn hóa là quá trình tiếp xúc, trao đổi và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn hóa


khác nhau với những phương thức sống khác nhau. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay, giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới lại
ngày càng sôi động, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.
Với thế mạnh là truyền thống nghìn năm văn hiến, văn hóa sẽ góp
phần bảo vệ an ninh, phục vụ phát triển và nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế và là một trong những động lực căn bản vì chính
nó là thước đo giá trị con người mà con người là nhân tố quyết định
sự phát triển.
Hai là: Hiện nay nước ta đang trong tiến trình tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
và xây dựng một nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc,
phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh thì hơn lúc nào hết chúng ta cần tận lực, phát huy những giá
trị văn hóa ưu tú của dân tộc để chuẩn bị giao lưu với nền văn hóa khác
trên thế giới để làm cho nhân dân thế giới hiểu thêm về đất nước Việt
Nam đồng thời chúng ta có thể mở rộng thêm tầm nhìn, lựa chọn tiếp
nhận những nhân tố nhân bản, khoa học, tiến bộ trong kho tàng văn hóa
thế giới, xem đó là động lực để thúc đẩy ta trong công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới.
Ba là: Với việc mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới thì
không thể tránh khỏi sự giao lưu với các nền văn hóa khác trên thế
giới. Trong sự giao lưu giữa các nền văn hóa khác sẽ ảnh hưởng đến
văn hóa Việt nam trong đó có cả mặt tích cực và tiêu cực trong đó có
văn hóa lối sống, văn hóa giáo dục đã ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam.
Vì vậy trong quá trình xây dựng văn hóa trong tiến trình hội nhập quốc
tế hiện nay chúng ta phải bảo tồn và phát triển truyền thống, giữ gìn


bản sắc văn hóa dân tộc đặc biệt là văn hóa giáo dục nhưng đồng thời

phải biết tiếp nhận những giá trị văn hóa đó của nhân loại vào việc xây
dựng văn hóa Việt Nam để phù hợp với thời đại.
Thứ tư: là với quan điểm giáo dục là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước, là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạc phát
triển kinh tế xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế vì vậy Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng,
toàn dân, giáo dục phải gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế,xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh. Nên việc phát triển giáo dục là vấn đề
trọng tâm trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang trong qua strình hội
nhập quốc tế vì vậy phát triển giáo dục theo hướng hiện đại hoá là yêu
cầu tất yếu để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia thị trưòng lao
động quốc tế nhất là bậc học giáo dục nghề nhgiệp và giáo dục đại học
hiện nay.
Với lý do trên, tôi đã chọn vấn đề: Tiếp thu giá trị văn hóa của thế
giới vào việc xây dựng văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Văn hóa nói chung và bàn v ề việc giao lưu văn hóa với các nền văn
hóa trên thế giới nói riêng là một lĩnh vực đa dạng đã có nhiều học giả
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau.đặc biêt là tác phẩm “Đề
cương văn hóa Việt nam” của Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã nhấn
mạnh ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa là: “Dân tộc
hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa” đó là định hướng cho sự ra đời
của nền văn hóa mới.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt nam, vấn đề giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc được Đảng, Nhà nước đặt ở vị trí tầm vĩ mô để
giải quyết các công việc nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì thế,

việc kế thừa phát huy các giá trị văn hóa mới và kết quả công việc


không chỉ là bảo lưu, gìn giữ văn hóa dân gian, truyền thống mặt khác
còn phải tiếp thu tinh hoa văn hóa các nước trên thế giới để xây dựng
nền văn hóa mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng ta đối với công tác văn hóa. Việc trao đổi văn hóa với các
nước trên thế giới được chú ý ngay từ sau hòa bình lập lại, đặc biệt kể
từ khi Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, đó cũng là
một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Một số
công trình tiêu biểu là:
- Nguyễn Trọng Chuẩn: Vấn đề khai thác giá trị văn hóa truyền
thống vì mục tiêu phát triển.
- Mai Thị Quý: Vấn đề kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống
Việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- Hồ Sỹ Vịnh: Giao lưu văn hóa thời hội nhập.
- Phạm Thái Việt: Bản sắc văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- Trần Thị Kim Cúc: Giao lưu văn hóa quốc tế nhìn từ góc độ quản
lý.
Những công trình nghiên cứu trên đã phân tích nhiều vấn đề, dưới
những góc độ khác nhau về vai trò của sự giao lưu, hội nhập văn hóa
Việt Nam với các nền văn hóa trên thế giới. Song việc nghiên cứu vấn
đề “ Tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào việc xây dựng văn hóa
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay” ít được đề cập
đến nhất là ở dưới góc độ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Xác định một số giá trị của văn hóa thế giới trong lĩnh vực giáo dục
và giải pháp để chủ động tiếp thu những giá trị đó trong quá trình phát
triển văn hoá giáo dục của Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.

* Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn đi đến giải quyết các vấn đề
sau:


- Luận chứng tính tất yếu của việc tiếp thu văn hoá trên giới trong
tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
- Xác định các giá trị hiện đại của văn hóa thế giới trong lĩnh vực
giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
mà Việt Nam cần tiếp thu để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước
hiện nay.
- Đưa ra các giải pháp cơ bản để tiếp thu các giá trị văn hóa giáo
dục của thế giới vào phát triển văn hoá giáo dục ở Việt Nam hiện nay.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn đi vào nghiên cứu các giá trị của văn hóa thế giới ở lĩnh
vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học để tìm ra những giá trị
mà Việt Nam cần tiếp thu trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số giá trị văn hóa giáo dục nghề nghiệp và giáo
dục đại học hiện đại phổ biến của thế giới, trên cơ sở đó để tiếp nhận
và phát triển những giá trị này trong việc xây dựng văn hóa giáo dục
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn
- Học thuyết Mác-Lênin, quan điểm của UNESCO về văn hóa; Tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn
hóa và xây dựng đời sống văn hóa mới.

* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật, cùng các
phương pháp như: phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, lịch
sử - logic, so sánh, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
- Xác định một số giá trị hiện đại phổ biến của văn hóa thế giới
trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học mà Việt Nam
cần tiếp thu trong quá trình phát triển đất nước.
- Xác định một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của những giá trị
văn hóa hiện đại phổ biến của thế giới vào việc xây dựng văn hóa Việt
Nam trong thời kỳ hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
các chuyên đề về văn hóa trong nhà trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 2 chương, 5 tiết:


Chương 1: Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam và các giá trị văn hóa của thế giới trong
lĩnh vực giáo dục hiện nay.
Chương 2: Tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào việc phát triển
văn hóa giáo dục trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.


Chương 1
TÍNH TẤT YẾU TIẾP THU VĂN HÓA THẾ GIỚI TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA THẾ GIỚI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC HIỆN NAY


1.1. Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
1.1.1. Quan niệm chung về văn hóa và giá trị văn hóa thế giới
* Định nghĩa về văn hóa:
Trong lịch sử, ở phương Đông cũng như ở phương Tây xuất hiện
rất sớm khái niệm văn hóa . Ở Trung Quốc thời kỳ Cổ đại, văn hóa
được hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng
“văn hóa” và “giáo hóa”, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa
con người.
Văn hoá ở phương Tây, bắt nguồn từ tiếng La tinh, có nghĩa là vun
trồng, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Khái
niệm văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú. Đến nay đã có
mấy trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, tuỳ cách tiếp cận khác nhau,
cách hiểu khác nhau mà chúng ta nghiên cứu định nghĩa văn hoá theo
mục đích của mình. Tuy các định nghĩa khác nhau, nhưng các định
nghĩa đó đều thống nhất ở một điểm, coi văn hóa là cái do con người
sáng tạo ra, cái đặc hữu của con người. Mọi thứ văn hóa đều là văn
hóa thuộc về con người, các thứ tự nhiên không thuộc về khái niệm văn
hóa. Văn hóa là đặc trưng căn bản, phân biệt con người với động vật,
cũng là tiêu chí căn bản để phân biệt sản phẩm nhân tạo và sản phẩm
tự nhiên.
Mỗi quốc gia khi nghiên cứu về văn hóa đều xuất phát từ những
cứ hiệu liệu riêng, góc độ riêng mục đích riêng cho phù hợp với vấn đề
mình cần nghiên cứu để đưa ra các định nghĩa về văn hoá nên việc xác
định khái niệm văn hoá là rất khó và không đơn giản. Vì vậy khi tiếp
cận về văn hoá, tuỳ vào mục tiêu, mục đích cụ thể của người nghiên
cứu mà dựa trên các cách tiếp cận về văn hoá khác nhau và từ đó đưa


ra những định nghĩa khác nhau về văn hoá. Do đó, khi xét mối tương

quan giữa văn hoá và xã hội chúng ta có thể lựa chọn ra bốn cách tiếp
cận chủ yếu là: Tiếp cận giá trị học, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân
cách và tiếp cận ký hiệu học. Tuy có sự khác nhau ở bốn goc tiếp cận
này nhưng tất cả các cách tiếp cận này đều dựa trên những nguyên tắc
chung đó là dựa trên mối quan hệ giữa tồn tại xã hội ý thức xã hội, dựa
trên hình thái kinh tế xã hội và những nguyên tắc hoạt động của triết
học Mác như nguyên tắc thực tiễn.
Với nội dung như vậy nên theo hướng nghiên cứu của mình tôi đã
sử dụng định nghĩa về văn hoá như sau:
"Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn
của con người. Các giá trị này được cộng đống chấp nhận, vận hành
trong đời sống xã hội, được xã hội giữ gìn, trao chuyển cho thế hệ sau.
Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi
dân tộc.
* Giá trị văn hoá thế giới.
Văn hóa là những giá trị được chọn lọc và thẩm thấu rất sâu rộng
trong đời sống thực tiễn, trước hết là thực tiễn tồn tại và phát triển của
con người. Mặt khác, hoạt động tạo ra giá trị nên tiếp cận văn hóa từ
hoạt động gắn liền với tiếp cận văn hóa từ giá trị. Chỉ những hoạt động
sáng tạo, tích cực, hướng tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là
hoạt động văn hóa. Do đó, về phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa
phải đi liền với những giá trị đích thực, những chân giá trị (chân - thiện
- mỹ). Cần phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ dùng để nói về những gì
tốt đẹp, đúng đắn, hướng tới phát triển và hoàn thiện nhân tính.
Những gì đối lập với nó không thể gọi là văn hóa và giá trị văn hóa.
Giá trị văn hoá là những giá trị do con người sáng tạo ra và phải
được cộng đồng chấp nhận. Vì vậy ta có thể nói rằng giá trị văn hoá
thế giới là những giá trị thuộc về lĩnh vực vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và nhằm phục vụ con người, được mọi dân tộc trên

thế giới công nhận và hướng vào đó để học tập, tiếp thu, vận dụng vào


dân tộc mình. Hơn nữa những giá trị của văn hoá thế giới là những giá
trị tinh hoa của nhân loại được kết tinh trong cuộc sống và được các tổ
chức trên thế giới thừa nhận


1.1.2. Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Và nói văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội bởi vì văn hoá thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát
triển và bản lĩnh của một dân tộc. Văn hoá có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với kinh tế, chính trị. Xây dựng và phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hoá, vì văn hoá có khả năng khơi dậy
tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn nhân lực quyết định sự phát
triển xã hội.
Vì vậy trong thời kỳ nước ta trong quá trình hội quốc tế như hiện
nay thì việc tiếp thu những giá trị văn hoá của thế giới là tất yếu vì bởi
những lý do sau.
Thứ nhất: nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, kết tinh truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc
vừa tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại, khẳng định được tầm vóc,
trình độ, bản lĩnh và bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lưu và hợp
tác quốc tế.
Thứ hai: chúng ta đều biết, hội nhập quốc tế là cơ hội tốt để nước
ta tiếp cận và tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, nhằm làm phong phú

thêm nền văn hoá dân tộc - hiện đại đậm đà bản sắc của người Việt
Nam và tạo cơ hội, khả năng tiếp xúc, giao lưu; làm xích lại gần nhau
và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, qua đó góp phần nâng cao dân
trí và tự khẳng định mình trước cộng đồng quốc tế.
Mặt khác trong bối cảnh quốc tế hiện thời, hội nhập không chỉ mang
lại thời cơ lớn mà còn tạo ra những thách thức không nhỏ đối với tất
cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển trong trào lưu
hội nhập quốc tế.
Thứ ba: trong tiến trình hội nhập quốc tế bên cạnh sự phát triển
khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo ra


những cơ hội, trở thành cầu nối cho các quốc gia, dân tộc mở rộng giao
lưu, sự hiểu biết và xích lại gần nhau hơn. Chính nhờ cơ hội này mà
nền văn hoá Việt Nam có điều kiện để giao lưu rộng rãi với nhiều nền
văn hoá khác trên thế giới. Thông qua đó, con người Việt Nam có điều
kiện học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hoá của các dân tộc để
làm phong phú thêm nền văn hoá của dân tộc mình.
Đồng thời, thông qua hội nhập quốc tế, các dân tộc có thể thấy
được cả những giá trị truyền thống cần phải bảo tồn, cần được phát
huy, lẫn những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự
tiến bộ.
Thứ tư: phải thấy rằng, hội nhập quốc tế hiện nay là một quá trình đi
lên của lịch sử nhân loại, cho nên, sẽ là sai lầm nếu có một nước nào đó tự
mình tách ra đứng ngoài toàn cầu hóa, từ chối hợp tác, hội nhập hoặc
đóng cửa với thế giới. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề sự phát triển chung và sự
tiến bộ của lịch sử các nước, căn cứ vào mục tiêu phát triển và khả năng
thực tế của mình, mà đề ra chính sách hội nhập quốc tế một cách có lợi
nhất trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Tóm lại: tiếp thu văn hoá thế giới là sự vận động thường xuyên gắn

với sự phát triển của văn hóa xã hội. Trong đời sống xã hội, giao lưu càng
mạnh mẽ thì mọi sáng tạo văn hóa được phổ biến và chuyển tải càng rộng
rãi, sẽ góp phần nâng cao đời sống văn hóa của cộng đồng. Ngược lại, đời
sống cộng đồng càng được nâng cao càng có điều kiện mở rộng giao lưu
văn hóa. Đó là phép biện chứng của sự phát triển văn hóa trong cộng đồng
xã hội.
Từ 1986 đến nay, với đường lối mở cửa “đa phương hoá, đa dạng
hoá” trong quan hệ đối ngoại, đất nước ta có điều kiện giao lưu văn hoá
với rất nhiều nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực, trong
châu lục. Để vừa kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp
nhận được những thành tựu của loài người, trong các nghị quyết của Đảng
đều chỉ rõ: Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa thế giới.


1.2. Các giá trị văn hóa của thế giới trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học
1.2.1. Giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp là một bộ phận quan trọng trong việc đào tạo
chuyên nghiệp cho người học vì mục tiêu chung trong việc học tập của
từng cá nhân là để có một nghề nghiệp sinh sống. Tuỳ theo khả năng,
năng lực của từng cá nhân và yêu c ầu của xã hội mà người học có thể
học nghề từ thấp đến cao. Nghề nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả sơ
cấp, trung cấp và cao cấp ở trình độ đại học và sau đại học.
Có thể nói rằng, giáo dục nghề nghiệp là mục tiêu hướng tới của
các nền giáo dục trên thế giới. Mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu
phát triển của nền kinh tế mỗi nước và khả năng, năng lực của dân
chúng.
Giáo dục nghề nghiệp phải hiểu theo phạm vi rộng và thực hiện ở
nhiều trình độ, nhiều cách kết hợp để thoả mãn tối đa nhu cầu của

người học. Không nhất thiết phải trang bị đủ kiến thức phổ thông mới
đi vào giáo dục nghề nghiệp, tuỳ theo từng nghề mà phải bổ sung kiến
thức văn hoá phù hợp theo từng đối tượng ở các thời kỳ khác nhau.
Mục tiêu học nghề là để có việc làm, có việc làm để có thu nhập.
Hiệu quả giáo dục nghề nghiệp là tạo ra những con người có nghề
nghiệp trình độ cao được thị trường chấp nhận trong điều kiện chi phí
tài chính và thời gian đào tạo thấp, chất lượng cao.
1.2.2. Giáo dục đại học
Giáo dục đại học ngày nay của các nước đã phát triển nhanh, mạnh
nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ kỹ thuật cao, đa dạng của
nhiều ngành nghề và thích ứng với nền kinh tế tri thức.
Thực chất giáo dục đại học cũng là giáo dục nghề nghiệp nhưng ở
trình độ cao. Các nước phát triển có nền công nghiệp hiện đại và các
nước công nghiệp mới đều có tỷ lệ cao về sinh viên đại trên số dân.
Kinh tế phát triển là điều kiện cho giáo dục phát triển. Giáo dục phát
triển là động lực cho kinh tế phát triển. Kinh tế phát triển là điều kiện
để phát triển xã hội.Hạt nhân của sự phát triển và tăng trưởng bền


vững là lực lượng lao động được đào tạo, làm việc có năng suất và
hiệu quả cao. Đây là nguồn tài nguyên vô giá mà chỉ khi biết đầu tư,
sử dụng có hiệu quả sẽ là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc vươn lên
làm giàu cho bản thân và đất nước.
Ngày nay, các trường đại học trên thế giới không phân rõ ranh giới
hai hướng đào tạo này, mà ưu thế thiên hướng đại học khoa học ứng
dụng, đào tạo nghề nghiệp, kĩ năng thực hành đang thu hút nhiều
người học. Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế tri thức càng phát
triển thì việc chuyển từ đại học tinh hoa sang đại học đại trà là xu thế
phù hợp với yêu cầu của cuộc sống. Về chương trình, nội dung và
phương pháp, các trường đại học trên thế giới cũng đang chuyển đổi,

cải cách theo hướng đa dạng ở nhiều cấp, trình độ khác nhau.
Mặt khác mô hình giáo dục đại học của các nước cũng có sự khác
nhau. Ví dụ như một số nước điển hình tiên tiến sau:
Mô hình giáo dục đại học Hoa Kỳ
Mô hình giáo dục đại học Liên Xô (cũ)
Mô hình giáo dục đại học Đức
Mô hình giáo dục đại học Anh
Mô hình giáo dục đại học Pháp.


Chương 2
TIẾP THU GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA THẾ GIỚI
VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA GIÁO DỤC
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Tác động của hội nhập quốc tế dối với việc phát triển văn
hóa giáo dục Việt Nam
Những yếu tố tác động đến việc phát triển văn văn hoá giáo dục ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế đó là:
- Bối cảnh thế giới
Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan trong tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Đó là quá trình tiến tới nhất thể hoá nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế và xã hội.
Về kinh tế, như chúng ta đã biết, kinh tế là nhân tố quan trọng đóng
vai trò quyết định đối với sự phát triển của văn minh nhân loại đồng
thời tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hoạt động kinh tế của con
người, làm thay đổi tính chất và vị trí của thị trường. Nếu như trước
đây, thị truờng mang tính chất quốc gia thì hiện nay, thị trường mang
tính quốc tế. Về bản chất, hội nhập kinh tế là sự ra tăng nhanh chóng
các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu vực, tạo
ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát

triển hướng tới một nền kinh tế giới hội nhập và thống nhất đó là:
+ Tạo ra sự tự do hoá các yếu tố của tái sản xuất xã hội mang tính
toàn cầu hoá được thể hiện qua tự do hoá thương mại đang trở thành
nội dung quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế. Bằng chứng là,
mục tiêu của các thể chế kinh tế thương mại song phưong, đặc biệt là
WTO, đều tập trung giải quyết vấn đề tiếp cận thị truờng thông qua cam
kết cam kết về tự do hóa thương mại.
+ Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế
được đẩy mạnh. Toàn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính được đẩy
mạnh thông qua việc tự do hóa rộng rãi các giao dịch tài chính quốc gia


và phát triển các thị trường tài chính quốc tế, hướng tới một thị trường
tài chính mang tính toàn cầu.
+ Các công ty đa quốc gia (MNCs) ngày càng đóng vai trò quan
trọng và chủ đạo trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tính đến năm
2004, toàn thế giới có khoảng 63.000 công ty đa quốc gia với trên
800.000 chi nhánh. Các công ty đa quốc gia hiện chi phối hơn 80% giá
trị thương mại quốc tế, chiếm hơn 90% tổng giá trị vốn đầu tư và
thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới.
+ Hình thành ngày càng nhiều tổ chức liên kết kinh tế quốc tế ở
những cấp độ khác nhau (khu vực và thế giới) và vai trò quan trọng của
WTO trong quá trình hội nhập kinh tế. Trong những thập kỷ gần đây,
nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh
mẽ của các hoạt động liên kết kinh tế quốc tế.
Vì vậy, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế, các quốc gia
có cơ hội to lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tiếp
nhận được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của thế giới, đồng thời rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Còn đối với
các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế đã tạo điều kiện cho các

quốc gia nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế. Từ đó hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và sức
cạnh tranh cao, rút ngắn được tiến trình hiện đại hóa.
- Về mặt xã hội:
Những nhu cầu về kinh tế mà nền kinh tế trong tiến trình hội nhập
kinh tế đã và đang mang lại những thay đổi to lớn trong thói quen lao
động và lối sống của con người ở tất cả các quốc gia dân tộc. Sự phân
hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế… đang là
vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc. Ví như không có một quốc
gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một cách nhanh
chóng và rộng rãi của các đại dịch như HIV, AIDS, SARS, cúm gà, v.v..;
của các nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v...
Bối cảnh ở Việt Nam


- Về kinh tế: nằm trong nhóm các nước đang phát triển, Việt Nam
bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới từ năm 1986. Nhờ chủ trương đổi mới, mở cửa, trong gần 25 năm
qua, Việt Nam đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đạt tốc
độ tăng trưởng cao trong khu vực. .
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế,
tạo điều kiện để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho sự
nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Các khu công nghiệp, khu chế xuất
mọc lên nhiều các liên doanh, liên kết kinh tế quốc tế mở rộng, các khu
vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao được nâng cấp, tạo điều kiện đáp
ứng nhu cầu học tập, thưởng thức văn hóa, nghệ thuật của nhân dân
ngày càng cao.
- Về xã hội:
Trong lĩnh vực xã hội cũng đồng thời có sự tác động to lớn bởi hội

nhập quốc tế. Cụ thể là:
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để chuyển giao vốn, chuyển giao
khoa học kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao kỹ năng và kinh nghiệm tổ
chức và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa
(công nghệ truyền thông, công nghệ sản xuất phim, băng hình, dịch vụ vui
chơi giải trí, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá về thông tin toàn cầu, kích
thích năng lực sáng tạo của nền văn hóa dân tộc).
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để mở rộng xuất nhập khẩu văn
hóa phẩm, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, góp phần nâng cao trình
độ dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân
du nhập các loại hình văn hóa, nghệ thuật, giải trí, thể thao, giới thiệu các
thành tựu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài...).
Thứ hai: Hội nhập kinh tế tác động đến sự phân hoá xã hội trên lĩnh
vực văn hóa diễn ra mạnh mẽ . Đời sống văn hóa của các vùng nông
thôn, miền núi, đời sống văn hóa của những nhóm xã hội nghèo so với
các vùng đô thị, các loại hình nghề nghiệp có thu nhập cao khoảng cách
ngày càng xa. Đặc biệt là đời sống văn hóa của công nhân, của nông


dân, nhất là ở những vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ ngày càng
gặp nhiều khó khăn trước quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước những diễn biến tình quốc tế và trong nước trong quá trình
hội nhập quốc tế đã ảnh hưởng đến toàn bộ nền giáo dục ở nước ta,
đòi hỏi giáo dục phải tự nâng mình lên để đáp ứng nhu cầu và giải
quyết mọi vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Bởi khi bước vào tiến
trình hội nhập thì có rất nhiều những thách thức đặt ra vì thế việc
chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt là hết sức quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển nguồn nhân lực là phát triển con người, là thức tỉnh, là
phát huy tiềm năng của con người thành sức lao động của xã hội. Phát

triển nguồn nhân lực trước hết là đào tạo nguồn nhân lực có năng lực
lao động, là mỗi người tự hào và phát triển bản thân, phát huy năng
lực tạo ra sản phẩm cho xã hội.
2.2. Thực trạng tiếp thu các giá trị văn hóa của thế giới trong
lĩnh vực giáo dục của Việt Nam hiện nay và vấn đề đặt ra
2.2.1. Một số nét khái quát về giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học ở Việt Nam
2.2.1.1 Khái niệm về giáo dục
Theo các giáo trình giáo dục học ở Việt Nam đã trình bày khái
niệm về" Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người."
Còn theo John Dewey đề cập đến giáo dục là việc truyền đạt,
nhưng ông nói rõ hơn mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, dạy dỗ.
Theo J. Dewey, cá nhân con người không bao giờ vượt qua được qui
luật của sự chết, và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm
mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại
đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt
qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự
sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại


xã hội. Hơn nữa, J. Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ
truyền dạy, nhưng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy.
Còn theo Hồ Chí Minh giáo dục không chỉ bó hẹp trong việc giáo
dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng
vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn
diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức
khoẻ, thẩm mỹ...
Tóm lại: Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng

mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ
sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho
việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo
dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm
ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng
dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ
giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ
được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử
trong xã hội
2.2.1.2. Giáo dục nghề nghiệp
Mục tiêu giáo dục nghề nghiệp:
Nội dung và phương pháp giáo dục nghề nghiệp
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp
2.2.1.2. Giáo dục đại học
Mục tiêu của giáo dục đại học
Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục đại học
Chương trình, giáo trình giáo dục đại học
Cơ sở giáo dục đại học
Văn bằng giáo dục đại học.
2.2.2. Thực trạng việc tiếp thu những giá trị trong văn hoá giáo
dục thế giới vào phát triển văn hoá giáo dục nghề nghiệp và đại học
ở Việt Nam hiện nay.


Một số vấn đề đặt ra:
Từ những mặt chưa được của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học như đã nêu ở trên nên có một số vấn đề đặt cho là:
Phải có sự phát triển đồng bộ trong chương trình phát triển giáo
dục nghề nghiệp để theo kịp với các nước khác trên thế giới để khi ta

học hỏi kinh nghiệm các nước để thực hành vào hệ thống giáo dục
nước ta nó không có sự chênh lệch và nảy sinh những khó khăn và bất
cập như hiện nay.
Giáo dục đại học Việt Nam phải thực hiện một chương trình đổi
mới cơ bản và toàn diện. Mục tiêu căn bản của chương trình này là
làm cho giáo dục đại học Việt Nam đạt chuyển biến cơ bản về chất
lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, xã hội, nâng cao trí lực của dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới, nâng một số trường ĐH lên đẳng cấp
quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực và
nền kinh tế đất nước.
Trong giáo dục nghề nghiệp của nước ta đã có những bước chuyển
biến rất lớn do đã vận dụng những kinh nghiệm của thế giới đó là:
Thứ nhất: Người lao động được bồi dưỡng nâng cao trình độ
nghề nghiệp và đào tạo lại để chuyển đổi vị trí làm việc.
Thứ hai: Hình thức đào tạo nghề nghiệp phải gắn với nhu cầu của
thị trường lao động mà trước hết là gắn với người sử dụng lao động
( các doanh nghiệp).
- Thứ ba: Hình thức dào tạo ra có thích ứng với nhiều loại hình
nghề nghiệp. Từ đó giáo dục nghề nghiệp phải chú trọng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhân lực phải đa năng... người lao động phải
biết di chuyển kĩ năng, di chuyển cảm xúc khi di chuyển công việc.
Về giáo dục đại học
Bước vào thế kỷ XXI, Đảng ta xác định mục tiêu tổng quát chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp


theo hướng hiện đại, thì chúng ta đã kịp thời cụ thể hoá chiến lược đối

với giáo dục trong đó giáo dục đại học có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển đất nước. Vì thế giáo dục đại học nước ta không những phát
triển mạnh mẽ mà còn tiếp thu những ưu điểm giáo dục đại học trên
thế giới để thích ứng với điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển
của xã hội mới và nhưng ưu điểm mà ước ta tiếp thu của ccác nước
trên thế giới ở các điểm sau:
- Một là: về phương pháp giảng dạy đã có những chuyển biến tích
cực là không bắt sinh viên thụ động bằng phương pháp thuyết trình
truyền thống giáo viên truyền đạt kiến thức, độc thoại, pháp vấn hay
đặt câu hỏi, giáo viên áp đặt kiến thức có sẵn, còn học viên thì học
thuộc lòng và nhớ máy móc. Giáo viên độc quyền đánh giá và cho điểm
mà đã có sự gắn kết các phương pháp hiện đại như phương pháp nêu
câu hỏi, thảo luận cho sinh viên tự nghiên cứu, kết hợp viết bảng lẫn
trình chiếu powerpoint mặt khác sinh viên.
- Hai là: Là hình thức học tiến chỉ là hình thức học chuyển từ hệ
thống chương trình đào tạo được qui định cứng nhắc sang hệ thống
gần như hoàn toàn tự chọn có nghĩa là sinh viên tự mình lựa chọn
chuyên ngành, tự mình xác định lĩnh vực quan tâm chủ yếu, còn trường
đại học thì cần cung cấp nền giáo dục tổng quát, tức là “một chương
trình đào tạo nhằm mục đích phổ biến những kiến thức tổng quát và
phát triển năng lực trí tuệ nói chung, hơn là nhằm vào những kiến
thức kỹ thuật hoặc kỹ năng nghề nghiệp chuyên biệt”.
- Ba là: Nội dung chưong trình học cũng đã có sự tiếp thu có chọn lọc
ở các nước trên thế giói.
Nói chung giáo dục đại học ở nước ta trong thời gian qua đã có
những đổi mới theo hướng hội nhập với xu hướng phát triển của thế
giới và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên,
việc đổi mới trong giáo dục đại học ở nước ta vẫn còn chậm, chưa tạo
được bước đột phá mạnh mẽ trong khâu đổi mới nội dung, chương
trình và phương pháp giảng dạy nên nhìn chung chất lượng đào tạo



vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
xã hội trong điều kiện của nền kinh tế tri thức. Đó là:
- Giáo dục nước ta hiện nay lẫn còn theo giáo dục truyền, chưa cấp
chứng chỉ cho từng giai đoạn, đa số là các trường đào tạo đơn ngành.
Mặt khác phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới. Kiến
thức cơ bản về xã hội, kỹ năng thực hành và khả năng tự học của sinh
viên còn kém, cách học trong nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một
chiều, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy được tinh
thần tự học và tư duy sáng tạo của người học. Cách thức đánh giá, tổ
chức thi cử chậm đổi mới, tạo ra tâm lý dạy và học để đối phó với thi
cử, gây căng thẳng cho người học, người dạy, cho xã hội, làm chậm
quá trình đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường.
- Việc học theo hình thức tín chỉ, mặc dù đã được các trường đại
học ở nước ta đưa vào học nhưng do cơ sở vật chất và về số lượng
lẫn chất lượng của giảng viên nên việc học theo hình thức tín chỉ còn
nhiều bất cập như chúng ta chưa đủ số lượng giảng viên để cho sinh
viiên lựa chọn mặt khác chất lượng giảng viên cũng chưa đáp ứng
được việc hcọ theo tín chỉ, cơ sở vật chất chưa đủ để có chỗ cho
những sinh viên học theo tín chỉ.
- Nội dung chương trình còn quá nặng so với thời gian đào tạo,
mặc dù đã có sự xen kẽ giữa học lý thuyết và thực hành nhưng do cơ
sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu của người học nên việc sinh
viên được thực hành những gì mình đã học qua lý thuyết còn nhiều
hạn chế và còn mang tính hình thức, đối phó.
Người học khi ra trường để làm được việc còn hạn chế vì giữa
việc học với việc ra ngoài để làm việc còn có khoảng cách khá xa .
Tóm lại, trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt
Nam được tiếp cận với xu thế phát triển hiện đại, những kinh nghiệm

tốt của giáo dục thế giới, đẩy mạnh hợp tác trong quá trình phát triển
giáo dục. Đồng thời có điều kiện thu hút các nhuồn lực phát triển giáo
dục từ nước ngoài, đặc biệt là đầu tư lớn hơn về cơ sở vật chất, thiết
bị dạy học, hiện đại hoá điều kiện học tập và lực lượng chuyên gia


giáo dục hơn nữa là đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù
hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Như đã thấy những hạn chế, yếu kém của GDĐH Việt Nam hiện
nay như chương trình, phương pháp đào tạo lạc hậu, cơ cấu ngành
nghề, trình độ và hình thức đào tạo không hợp lý, cấu trúc chương
trình mất cân đối, nặng về lý thuyết, trang thiết bị lạc hậu, đội ngũ
giảng viên thiếu và yếu, thiếu gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học
và với thực tế. Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là GDĐH Việt Nam phải
thực hiện một chương trình đổi mới cơ bản và toàn diện. Mục tiêu
căn bản của chương trình này là làm cho giáo dục đại học Việt Nam
đạt chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao trí lực của
dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, nâng
một số trường ĐH lên đẳng cấp quốc tế, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của nguồn nhân lực và nền kinh tế đất nước.
2.3. Giải pháp cơ bản tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào
việc phát triển văn hóa giáo dục của Việt Nam hiện nay
Từ những mặt chưa được của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học như đã nêu ở trên nên có một số vấn đề đặt cho là:
Phải có sự phát triển đồng bộ trong chương trình phát triển giáo
dục nghề nghiệp để theo kịp với các nước khác trên thế giới để khi ta
học hỏi kinh nghiệm các nước để thực hành vào hệ thống giáo dục

nước ta nó không có sự chênh lệch và nảy sinh những khó khăn và bất
cập như hiện nay.
Giáo dục đại học Việt Nam phải thực hiện một chương trình đổi
mới cơ bản và toàn diện. Mục tiêu căn bản của chương trình này là
làm cho giáo dục đại học Việt Nam đạt chuyển biến cơ bản về chất
lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, xã hội, nâng cao trí lực của dân tộc, tiếp cận trình độ tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới, nâng một số trường ĐH lên đẳng cấp


quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực và
nền kinh tế đất nước.
* Các giải pháp cơ bản tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào việc
phát triển văn hóa giáo dục của Việt Nam hiện nay.
Vậy nên những giải pháp cơ bản để tiếp thu giá trị văn hoá thế giới
vào phát triển văn hoá giáo dục của Việt Nam hiện nay để đáp ứng được
yêu cầu của Đảng về giáo dục trong thời gian tới được thể hiện qua những
nội dung sau.
Đây là những giải pháp để tiếp thu tốt những kinh nghiệm giáo dục
thế giới vào phát triển giáo dục Việt Nam cần có những giải pháp sau:
- Đổi mới mục tiêu chương trình giáo dục trong toàn bộ hệ thống.
Hoàn thiện chương trình,nội dung giáo dục là vấn đề cơ bản để hiện
đại hoá giáo dục.
Nghiên cứu giảm tải chương trình, nội dung giáo dục trong toàn hệ
thống, tăng thời gian vui chơi, thể thao, ngoại khoá cho học sinh, sinh
viên.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo:
Muốn tiếp thu những kinh nghiệm giáo dục của các nước trên thế giới
vào nước ta một cách khoa học thì cần phải tập trung đào tạo đôi ngũ giáo
viên có trình độ. Đội ngũ giáo viên này cần được đào tạo ở các trường

danh tiếng trong khu vực, quốc tế và họ có thể tham gia giảng dạy các
trưòng đại học trong khu vực và quốc tế. Ngoài số giáo viên cử đi đào tạo,
cần mời các giáo sư, người Việt Nam đang giảng dạy ở các trường đại học
trên thế giới và các chuyên gia, giáo sư nước ngoài cùng tham gia giảng
dạy để ta có thể tiếp thu những phương pháp giảng dạy hiện đại của họ để
áp dụng vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục của nước ta
- Đổi mới quản lý giáo dục:
Về phương diện quản lý giáo dục, phần lớn các nước đã cải cách
mạnh theo hướng nhà nước tập trung quản lý nội dung, chương trình và
giám sát chất lượng. Bộ giáo dục thay mặt nhà nước quản lý thống nhất,
có sự phân cấp mạnh cho địa phương và mở rộng quyền tự chủ cho các cơ
sở giáo dục.


×