Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.5 KB, 50 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ ĐẦU TƯ

Đề tài: Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong
nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

2. Những vấn đề chung về vốn đầu tư
1. Sự cần thiết cửa việc huy động vốn cho sự phát triển kinh tế Việt nam hiện
nay.
2. Những nguồn vốn có thể huy động đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
hiện nay .
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn cho việc phát triển nền kinh
tế.
II.CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC
1.Huy động từ ngân sách Nhà nước
2.Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp Nhà nước
3.Nguồn vốn huy động từ trong dân cư và tư nhân
4.Thu hút từ vốn đầu tư nước ngoài.
IV.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU
TƯ TRONG NƯỚC.


1.Kinh nghiệm của Nhật Bản.
2.Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
3.Kinh nghiệm của Anh.
2


4.Những bài học vận dụng vào Việt Nam.
V. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC.
1.Tình hình chung
2. Sau cải cách kinh tế.
VI. HIỆU QỦA SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC TRONG THỜI
GIAN QUA.
1.Trong lĩnh vực nông nghiệp
2.Trong lĩnh vực công nghiệp .
3.Trong lĩnh vực dịch vụ.
4.Các chính sách được sử dụng để huy động nguồn vốn trong nước thời
gian qua.
VII. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
1.
2.
3.
4.

Mục tiêu phát triển kinh tế
Nhu cầu phát triển vốn đầu tư trong nước ở nước ta trong thời gian tới
Phương hướng huy động vốn đầu tư trong nước trong thời gian tới
Những giải pháp cụ thể để huy động nguồn vốn trong nước thời gian tới

C. KẾT LUẬN


3


A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt
động của nền kinh tế . Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách . Đầu
tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế , để thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng
vốn lớn .
Vốn cho phát triển kinh tế- xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách trong
cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta . Đương nhiên để duy trì những
thành quả đã đạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua , giữ vững
nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao , tránh cho đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu so
với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới . Trong giai đoạn hiện
nay nước ta đang tìm cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ bản thân nhân
dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh . Nguồn
nước ngoài từ ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI . Tuy nhiên cần thấy rõ
nguồn vốn trong nước là chủ yếu , nguồn vốn trong nước vừa phong phú , vừa chủ
động nằm trong tầm tay .
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đã mở ra những khả năng to lớn để huy động
nguồn vốn từ bên ngoài , nhưng nguồn vốn ở trong nước được xem là quyết định
cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kinh tế . Do vậy nhóm 3 chúng em
đã chọn đề tài “ Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư
trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu của nhóm. Trong quá trình làm bài do hạn chế về mặt kiến
thức nên bài làm của chúng em còn nhiều thiếu xót mong cô cho những nhận xét
để bài làm của chúng em hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

4



B. NỘI DUNG

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Những vấn đề chung về vốn đầu tư
Vốn đầu tư là vốn được sử dụng để thực hiện mục đích đầu tư đã dự tính. Hiện
nay ở các nước đang phát triển kể cả nước ta chưa có sự thống nhất nhận thức về
bản chất, vai trò của vốn cũng như các hình thức biểu hiện nó. Vì vậy khi đứng
trước thực trạng thiếu vốn của nền kinh tế, có ý kiến cho rằng cần phải phát hành
tiền cho hoạt dộng đầu tư hoặc có ý kiến khác cho rằng cần tiến hành vay vốn nước
ngoài trong đó không chỉ vay cho nhu cầu sản xuất mà còn vay cho cả nhu câù tiêu
dùng. Do vậy để huy động và sử dụng vốn đầu tư một trong những vấn đề cần thiết
đặt ra là phải có sự thống nhất nhận thức về vốn:
- Vốn là giá trị thực của tài sản hữ hình và vô hình. Tài sản hữu hình gồm 2 bộ
phận chính:
+ Bộ phận thứ nhất là tài sản phục vụ trực tiếp sản xuất như máy móc thiết
bị công cụ nhà xưởng ;
+ Bộ phận thứ hai là những tài sản không trực tiếp phục vụ sản xuất như nhà
ở, trụ sở, cơ quan.
Bộ phận thứ nhất có vai trò to lớn và quyết định đến quá trình làm tăng tổng sản
phẩm đầu ra nhiều hơn so với bộ phận thứ hai. Điều này gợi ý rằng việc hoạt động
vốn và sử dụng vốn cần tập trung vào việc làm tăng tài sản hữu hình là những năng
lực sản xuất. Đối với các nước đang phát triển kể cả nước ta chưa tự sản xuất và
chế tạo ra được đủ máy móc thiết bị thì vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường xuất
khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế, hàng tiêu dùng để có nguồn ngoại tệ và
phát triển nhập khẩu các tư liệu sản xuất bằng việc giảm tiêu dùng trong nước, hạn
chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Đồng thời khi trình độ công nghệ đạt mức đủ khả
năng sản xuất các tư liệu sản xuất trong nước thì cần tập trung vào đầu tư để tạo ra

5


các tư liệu sản xuất không vay nước ngoài để tiêu dùng, chỉ vay để nhập khẩu tư
liệu sản xuất tài sản vô hình như : bằng phát minh sáng chế, bản quyền, chi phí
nhân công phát triển… cùng với tài sản hữu hình nên trên đều là kết quả của quá
trình bỏ vốn theo mục đích đầu tư. Các tài sản này chính là cơ sở đảm bảo cho quá
trình phát triển của tổng sản phẩm đầu ra và do vậy làm tăng nguồn vốn đầu tư cho
quá trình đầu tư tiếp theo. Đó là lý do về sự cần thiết phải nhận thức vốn là giá trị
thực của tài sản hữu hình và vô hình.
- Vốn là hàng hóa cũng giống hàng hoá khác ở chỗ đều có giá trị và giá trị sử
dụng, có chủ sở hữu và là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như các
yếu tố đầu vào sản xuất khác. Nhưng vốn khác hàng hoá ở chỗ:
+ Vốn là yếu tố đầu vào phải tính chi phí như hàng hoá khác nhưng bản thân
nó lại được cấu thành trong đầu ra của nền kinh tế.
+ Có thể tách rời quyền sở hữu vốn với quyền sử dụng vốn trả hay còn gọi
là lãi suất, trên phương diện người sử dụng vốn thì phải chi phí sử dụng vốn
hay còn gọi là mua quyền sử dụng vốn. Việc huy động vốn phải chú ý đến
các mối quan hệ lợi ích và giá mua và bán quyền sử dụng vốn nếu không sẽ
rất khó khăn hoặc không huy động được vốn .
+ Chi phí vốn phải quan niệm như chi phí sản xuất khác kể cả trường hợp
vốn tự có nếu phần vốn đầu tư sau khi tính toán thấy rằng không thu được
chi phí vốn hay do bị mất mát chi phí cơ hội thì họ sẽ đầu tư ở chỗ khác( đầu
tư gián tiếp )
- Dưới dạng tiền tệ vốn được định nghĩa là khoản tích luỹ là một bộ phận
của thu nhập chưa được tiêu dùng. Bộ phận thu nhập này đại diện cho một
lượng giá trị hàng hoá tài sản dịch vụ nằm trong tổng sản phẩm đầu ra. Vì
vậy không thể phát hành tiền bỏ vào đầu tư như ý kiến của một số người đề
nghị. Như vậy vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền phải vận động trong
môi trường của hoạt dộng đầu tư kinh doanh và sinh lời thì tiền mới được

coi là vốn tiền đem ra dùng hàng ngày, đưa vào cất trữ thì người sở hữu tiền
6


đó phải trả phải trả cho việc làm này đó là hy sinh tiền lãi và và lợi nhuận do
việc giữ tiền cất trữ. Vốn có giá trị về mặt thời gian, vốn phải được tích tụ
giá vốn( lãi suất ) là giá trị để mua được quyền sử dụng vốn được tính bằng
tỷ lệ phần trăm so với vốn theo đơn vị thời gian ( tháng, quý, năm, 10 năm ).
Giá này cho ta một cách nhìn đối với vốn đó là quan hệ đặc biệt của nó đối
với thời gian. Thời gian dài lãi suất tín dụng sẽ cao hơn lãi suất của thời gian
ngắn. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng theo
thời gian đã làm cho vốn có thể tích tụ vận động và lưu thông trong đầu tư
kinh doanh và sinh lời. Nói cách khác là quá trình vận động cần tích tụ vốn
theo thời gian đã làm cho vốn được hình thành từ những khoản tiết kiệm nhỏ
hoặc khoản vốn chưa có cơ hội đầu tư và chuyển đến những nhà đầu tư.
( Vốn đầu tư là giá trị tài sản xã hội được bỏ vào đầu tư nhằm mang lại hiệu
quả trong tương lai.
2. Sự cần thiết cửa việc huy động vốn cho sự phát triển kinh tế Việt nam
hiện nay.
Với nền kinh tế như Việt Nam hiện nay,việc có vốn đang là một nhu cầu cấp
thiết. Để trở thành một nước phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới Con
đường ngắn nhất chỉ có thể là làm cách nào để huy động được vốn đầu tư nhằm
cung cấp cho nền kinh tế.Trước đây khi còn thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung nhà nước nắm toàn quyền quản lý cũng như kiểm soát thì việc huy động
vốn là rất khó khăn. Chủ yếu huy động vốn qua các kênh ở trong nước hoặc không
thì cũng là những viện trợ không hoàn laị của các chính phủ các nước khác tài trợ
cho Việt Nam, hoặc kênh huy động khác là vay nợ nước ngoài nhưng nguồn vốn
này đã bộc lộ hạn chế lớn đó là việc nợ nước ngoài quá nhiều. Khi nhà nước đổi
mới cơ chế kinh tế năm 1986 từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường thì việc huy động vốn trở nên dễ dàng hơn. Đã có hàng trăm

các doanh nghiệp nước ngoài đã đến Việt Nam đầu tư phát triển kinh tế. Có thể nói
7


Việt nam rất vui mừng khi được đón tiếp và hoan nghênh các nhà đầu tư. Một lý
do rất đơn giản cho việc đó là vì Việt Nam rất coi trọng những nguồn vốn này. Có
vốn đầu tư để phát triển Việt Nam sẽ nhanh chóng dùng nó để xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển kinh tế và từ đó có cơ sở để phát triển kinh tế nhanh chóng sánh vai
với khu vực và trên thế giới. Như vậy vốn có thể coi như một yếu tố không thể
thiếu được đối với sự phát triển của một đất nước.
3. Những nguồn vốn có thể huy động đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
hiện nay .
Kinh nghiệm các nước phát triển trên thế giới cho thấy rằng vốn là một nhu cầu
vô cùng cần thiết đối với sự phát triển kinh tế. Nguồn vốn đầu tư là một yếu tố
đầu vào của sản xuất. Muốn đạt được tốc độ tăng trưởng GNP theo dự tính thì
cần phải giải quyết mối quan hệ cung, cầu về vốn và các yếu tố khác. ở hầu hết
các nước đang phát triển thường theo quy luật chung là lượng cầu về vốn lớn
hơn nhiều so với lượng cung về vốn, tức là nền kinh tế luôn trong tình trạng
thiếu vốn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác. Để
đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế thì muốn khai thác tốt nhất các nhân tố cung
về vốn để nhằm thoả mãn nhu cầu vốn trong toàn bộ nền kinh tế, mỗi nước đều
có một chiến lược riêng song đều phải đi vào khai thác 2 luồng vốn chủ yếu sau
a. Nguồn vốn trong nước .
Bao gồm các nguồn thu được từ ngân sách nhà nước các tổ chức tài chính trung
gian, thị trường vốn , thị trường chứng khoán, và nguồn vốn từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả… Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu từng nguồn
vố
b. Ngân sách nhà nước .

8



Là nguồn mà nhà nước có thể trực tiếp kế hoạch hoá và điều hành, cũng là
nguồn có tác dụng tạo ra các công trình trọng điểm của đất nước, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những lĩnh vực, những địa bàn mà các thành phần
kinh tế khác không làm được hoặc không muốn làm ; có tác dụng là nguồn vốn
để thu hút các nguồn vốn khác. Nguồn vốn ngân sách nhà nước bao gồm nguồn
vốn thuộc ngân sách nhà nước tập trung và nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ngân
sách tập trung chỉ chiếm dưới 10% tổng số vốn đầu tư xã hội và phụ thuộc vào
cân đối thu chi ngân sách. Trong điều kiện thu ngân sách còn hạn hẹp, dân cư
đầu tư trực tiếp còn ít, thường gửi vào ngân hàng và kênh đầu tư của ngân sách
còn đang trầm lắng thì cần tăng tỷ lệ bội chi ngân sách dành cho đầu tư, phát
hành công trái, trái phiếu, kỳ phiếu để đầu tư thay cho dân cư là cần thiết. Song
đây là nguồn vốn dễ bị co kéo dần đến đầu tư dàn trải, dở dang nhiều, dễ bị tác
động bởi cơ chế “xin–cho”, dễ lãng phí, thất thoát cần được khắc phục.
c. Nguồn vốn thu được từ kênh các tổ chức tài chính trung gian .
 Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian
Cũng như thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức
năng dẫn vốn từ người có vốn tới những người cần vốn, nhưng khác với tài chính
trực tiếp trong thị trường tài chính , các trung gian tài chính thực hiện quá trình dẫn
vốn thông qua một chiếc cầu nối, có nghĩa là để người cần vốn đến được người có
vốn phải thông qua người thứ ba. Một trung gian tài chính đứng giữa người cho
vay và người vay và giúp chuyển vốn từ người này sang người kia được gọi là tài
chính gián tiếp. Chúng thực hiện những chức năng chủ yếu sau :
- Chức năng tạo vốn : để có thể cho vay hoặc đầu tư, các trung gian tài chính tiến
hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền tệ
tập trung, phương thức huy động vốn hoặc theo thể thức tự nguyện thông qua cơ
chế lãi suất, hoặc theo thể thức bắt buộc qua cơ chế điều hành của chính phủ. Với
9



chức năng này các trung gian tài chính đem lại lợi ích cho chính mình và cho phần
lớn những người có khoản tiết kiệm, để dành
. - Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế : Tiền vốn được huy động từ người có
vốn là để thực hiện mục tiêu cung ứng vốn cho những người cần nó. Trong nền
kinh tế thị trường , người cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ,cá nhân
trong và ngoài nước. Với chức năng này các tổ chức tài chính trung gian đáp ứng
chính xác và đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các cá nhân và doanh nghiệp.
- Chức năng kiểm soát : các trung gian tài chính thực hiện chức năng kiểm soát
nhằm giảm tới mức tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông
tin không cân xứng gây ra ; yêu cầu của chức năng này là các trung gian tài chính
phải thường xuyên hoặc định kỳ liểm soát trước, trong và sau khi cho vay các
doanh nghiệp.
 Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian.
Các trung gian tài chính ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính.
Nó thực sự đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả người có vốn, người cần vốn,
cho cả nền kinh tế xã hội và bản thân các tổ chức tài chính trung gian.
- Hoạt động của các trung gian tài chính góp phần giảm bớt những chi phí thông
tin và giao dịch lớn cho mỗi cá nhân tổ chức và toàn bộ nền kinh tế.
- Do chuyên môn hoá và thành thạo trong nghề nghiệp, các tổ chức tài chính trung
gian đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có
vốn.

10


- Do cạnh tranh, đan xen và đa năng hoá hoạt động, các trung gian tài chính thường
xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý, làm cho nguồn vốn thực tế được tài trợ
cho đầu tư tăng lên mức cao nhất.
- Thực hiện có hiệu quả các dịch vụ tư vấn, môi giới, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa

rủi ro.
Các trung gian tài chính ở Việt Nam : ở Việt Nam với quan điểm thiết lập hệ
thống trung gian tài chính theo hướng đa dạng hoá, đa năng hoá, thể hiện trong hệ
thống các văn bản pháp luật như luật các tổ chức tín dụng, các nghị định của chính
phủ đã hình thành hệ thống tài chính trung gian khá đa dạng gồm có hai khối đó là
các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Muốn huy động ngày càng
nhiều vốn qua các tổ chức tài chính trung gian từ các đơn vị sản xuất kinh doanh,
các tổ chức có nguồn vốn tạm nhàn rỗi nhất là nguồn vốn trong dân cư, hộ gia đình
thì cần có những chính sách thật thích hợp để họ đưa vốn của mình vào các ngân
hàng, các tổ chức tài chính tín dụng hoặc đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường các nguồn vốn phải khai thông và tìm mọi biện pháp
huy động cho phát triển kinh tế.
d. Nguồn vốn thông qua thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Thị trường vốn, thị trường chứng khoán đóng vai trò thu hút, huy động các
nguồn tài chính nhàn rỗi để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Thông
qua thị trường vốn, thị trường chứng khoán với cơ chế hoạt động nó thu hút và
chuyển giao các khoản tiền nhàn rỗi phân tán thành nguồn vốn lớn để trở thành
vốn sản xuất tài trợ kịp thời cho sự phát triển kinh tế xã hội, là chiếc cầu trực tiếp
giữa dự trữ và đầu tư. Sự tài trợ của thị trường vốn hay thị trường chứng khoán có
thể trực tiếp hay gián tiếp. Các tác nhân thừa vốn hay thiếu vốn không tài trợ trực
tiếp cho các tác nhân thiếu vốn là người chi tiêu cuối cùng mà thông qua các tổ
11


chức tài chính, ngân hàng đóng vai trò trung gian. Các trung gian tài chính phát
hành các chứng khoán của mình để thu gom vốn và sau đó tài trợ cho những tác
nhân thiếu vốn. Thị trường vốn đóng vai trò thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, giúp cho việc luân chuyển vốn từ khu vực kém hiệu quả sang khu vực kinh
doanh có hiệu quả. Mở ra khả năng cho người có tiền nhàn rỗi tự do lựa chọn hình
thức và lĩnh vực để thu lợi nhuận cao và vốn sẽ luân chuyển linh hoạt trong nền

kinh tế. Việc hình thành và phát triển thị trường vốn của một nước nằm trong xu
thế quốc tế hoá nền kinh tế, tạo diều kiện cho nền kinh tế hoà nhập với nền kinh tế
thế giới. Hoạt động của thị trường tài chính tạo điều kiện cho cácnhà đầu tư nước
ngoài có thể mua trái phiếu trực tiếp trên thị trường vốn. Thị trường vốn tạo điều
kiện thu hút vốnnước ngoài. Thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhà nước
thực hiện tốt chính sách tài chính, tiền tệ trong việcđiều hoà các nguồn vốn cho các
hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời thị trường vốn và thị trường chứng khoán còn
đóng vai trò huy động vốn rất mạnh mẽ cho đầu tư phát triển kinh tế và sự hình
thành thị trường này là một quy luật của tất cả các nước có nền kinh tế thị trường ở
một mức độ phát triển nào đó.
e. Nguồn vốn thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
Một sai lầm lớn nếu mọi đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế chỉ lo
tìm nguồn đầu tư bên ngoài doanh nghiệp của mình để phục vụ cho quá trình phát
triển sản xuất kinh doanh mà không biết tận dụng khai thác sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đã có tại doanh nghiệp để phát triển. Nguồn vốn của từng đơn vị phải
được bảo toàn và phát triển vì nó là yêu cầu tồn tại của doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, nếu mất dần vốn đồng nghĩa với nguy cơ bị phá
sản. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi đơn vị chỉ có một số vốn nhất định.
12


Thông thường vốn cho nhu cầu hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp vượt
quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Vì thế ngoài khả năng tự tài trợ doanh
nghiệp còn phải huy động vốn từ bên ngoài để phát triển mở rộng sản xuất kinh
doanh. Trong trường hợp này huy động vốn từ bên ngoài càng gắn chặt với yêu cầu
sử dụng vốn có hiệu quả vì không ai dại gì bỏ vốn vào nơi không có khả năng phát
triển hoặc có nguy cơ mất vốn nếu điều đó chắc chắn. Sử dụng có hiệu quả đồng
vốn đồng nghĩa với doanh nghiệp đó tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh mãnh liệt để tồn tại. Sản phẩm làm ra được tiêu thụ , sản

lượng , lợi nhuận ngày càng cao sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, thực hiện
nghĩa vụ thuế với nhà nước ngày càng lớn. Chính khi đó sẽ là điều kiện tốt để thu
hút thêm vốn đầu tư. Để bảo toàn và phát triển vốn ở từng đơn vị là sự vận dụng
tổng hợp rất nhiều vấn đề. Song vấn đề cần lưu ý nhất là phải biết giải quyết tốt
mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ, giữa tiết kiệm và đầu tư trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Sử dụng tiết kiệm hiệu quả các nguồn vốn của đơn vị mình trong
chừng mực nào đó cũng chính là phát triển vốn.
f. Nguồn vốn nước ngoài
Bao gồm :
 Nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA).
-ODA là gì ?
ODA (oficial development asistance) là nguồn hỗ trợ của các nước phát triển, các
tổ chức tài chính, các tổ chức phi chính phủ, dành cho các nước đang và chậm phát
triển nhằm giúp các nước này tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Trong
một số trường hợp, ODA giúp các nước vượt qua khủng hoảng kinh tế hoặc tái xây
dựng đất nước do chiến tranh…

13


-Tầm quan trọng của ODA với kinh tế Việt Nam Đối với Việt Nam, ODA có tầm
quan trọng đặc biệt, giúp chúng ta giải quyết tình trạng cơ sở hạ tầng lạc hậu, và
phân bố không đồng đều, xoá bớt sự cách biệt về phát triển kinh tế giữa các vùng
lãnh thổ trong cả nước, giữa thành thị và nông thôn góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đại hội VII của Đảng đã khẳng
định : ” Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ chính thức (ODA) đa phương và song
phương, tậo trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội,
nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần tín
dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu
tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển…” Thời gian

qua, số các dự án ODA trong nông nghiệp , nông thôn còn ít chưa được quan tâm
khai thác và sử dụng cá hiệu quả. Vì vậy, việc đẩy mạnh thu hút và sử dụng có
hiệu quả ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang là đòi hỏi hết
sức cấp bách.
 Nguồn vốn từ thu hút trực tiếp nước ngoài (FDI).
Ngay khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế Nhà nước đã ban hành
luật đầu tư trực tiếp nước ngoài và được áp dụng từ cuối năm 1987. Với vai trò là
một nguồn vốn bổ sung quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Việc thu hút nguồn vốn FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng, mũi
nhọn trong hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, là tiền đề cần thiết để phát
triển kinh tế xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu. Trong thực tế, khu vực có vốn FDI đã
ngày càng trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn bộ nền kinh tế nước ta.
Sự thành bại của khu vực này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể
FDI là nguồn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển trong nước ; nâng cao trình
độ công nghệ của đất nước thông qua việc chuyển giao công nghệ ; tiếp nhận kinh
14


nghiệm, trình độ quản lý tiên tiến của nước ngoài ; tạo công ăn việc làm, nâng cao
trình độ kỹ năng lao động và thu nhập cho người lao động; phát triển thị trường
trong nước, tạo điều kiện mạnh mẽ để thâm nhập thị trường thế giới góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế và thâm hụt ngân sách nhà nước.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn cho việc phát triển nền kinh
tế.
a. Mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm
Tổng tiết kiệm trong nước mà mỗi quốc gia dù được hình thành từ các nguồn tiết
kiệm của chính phủ, dân cư, hay tiết kiệm của các doanh nghiệp thì chúng đều có
chung nguồn gốc là bộ phận của GDP, do việc tăng trưởng nền kinh tế quyết định.
Sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định tạo ra mức thu nhập bình quân đầu
người cao sẽ là tiền đề vững chắc cho việc mở rộng tiết kiệm trong mỗi quốc gia.

Điều này cho thấy việc phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm không thể
bỏ qua tác động của tiêu dùng . Nếu thu nhập tăng như vậy khả năng đầu tư giảm
và ngược lại
b. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư .
Tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ
-Tiết kiệm là tiền đề của đầu tư . Đầu tư phải cần đến vốn đầu tư . Vốn này do
nguồn tiết kiệm hình thành , tiết kiệm quá ít không đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu
đầu tư , sẽ hạn chế đến quá trình mở rộng đầu tư và rất khó hoặc không thể đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế như mong muốn.tiết kiệm quá nhiều tạo ra lực cản
với quá trình mở rộng đầu tư.cần phải có sự phù hợp giữa tiết kiệm,đầu tư tăng
trưởng của từng nước và từng giai đoạn phát triển của đất nước.

15


-Đầu tư sẽ tạo ra cơ sở để mở rộng nguồn tiết kiệm vì bất kỳ người nào khi cảm
thấy có cơ hội đầu tư có lợi hay có hiệu quả về kinh tế xã hội thì người ta sẵn sàng
đầu tư không phân biệt đầu tư đố thuộc loại sở hữu nào và đầu tư theo hình thức
trực tiếp hay đầu tư gián tiếp.hiệu quả của đầu tư đạt được do kết quả đầu tư mang
lại sẽ là cơ hội để huy động được các nguồn tiết kiệm cho đầu tư kế tiếp.
Để tiết kiệm biến thành đầu tư có nhiều nhân tố tác động suy cho cùng có hai nhân
tố cơ bản là an toàn và lợi ích.đồng thời đầu tư là cơ sở để tạo ra tiết kiệm với quy
mô lớn hơn cũng bị hai nhân tố cơ bản nói trên chi phối và quyết định.
-Hoạt động tiết kiệm và đầu tư trong những trường hợp cụ thể có thể độc lập với
nhau vì tiết kiệm bị động phụ thuộc vào yếu tố khác nữa.
c. yếu tố giao lưu giữa các dòng vốn.
Quá trình đi tìm các biện pháp rút ngắn khoảng cách để người tiết kiệm và người
đầu tư gặp nhau trực tiếp hoặc gián tiếp ,tiến hành mua bán quyền sử dụng vốn,sau
khi thỏa thuận với nhau về giá cả của vốn và các điều kiện ràng buộc khác dẫn đến
hình thành và phát triển thị trường tài chính là một yếu tố khác quan của nền kinh

tế thị trường.nó cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy giao lưu vốn để phát triển
kinh tế xã hội. Vai trò của thị trường tài chính :
-Đóng vai trò to lớn trong việc thu hút ,hoạt động các nguồn tài chính nhàn rỗi để
tài trợ cho nhu cầu vốn đang bị thiếu hụt của những người chi tiêu hay đầu tư góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
-Đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nâng cao hiệu sử dụng các nguồn tài chính tạo
điều kiện cho việc giao lưu vốn từ khu vực kinh doanh hay chi tiêu kém hiệu quả
sang lĩnh vực có hiệu quả hơn.

16


- Góp phần tạo điều kiện giao lưu vốn trong nước với nước ngoài đồng thời có thể
thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào.
II. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC
1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước
Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất quan trọng
trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tư của mọi
thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch. Chính sách và pháp luật
đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh
tế- xã hội.
Nguồn ngân sách bao gồm:
-Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua
nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ của tư nhân nước ngoài. Để nâng cao hiệu
quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần có những sửa đổi trong chính sách đầu
tư.
-Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:là các nguồn tàI chính có
khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nước mang lại.

-Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất.
-Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông-phân phối.
-Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản:
17


-Thuế ,phí và lệ phí.
-Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
-Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
-Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm mà còn là
công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ động viên
GDP vào ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên qua các năm, bình quân từ
13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% ( thời kỳ 1991- 1995) ngân sách nhà
nước từ chỗ thu không đủ chi đến nay đã có một phần tích luỹ dành cho đầu tư
phát triển từ 2,3% GDP năm 1991 tăng lên 6,1% GDP vào năm 1996 ( nếu cả do
khấu hao cơ bản).
Nguyên nhân chủ yếu của nó là:
- Ngân sách nhà nước đã điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm tạo ra các tiền đề thu
hút vốn đầu tư.
- Chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung vào cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội.
- Ngân sách nhà nước không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nước thông qua cổ
phần hoá và tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp- lâm nghiệp.
Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nước phải dành khoảng từ 20- 25% tổng
số chi ngân sách cho đầu tư phát triển hàng năm. Khai thác có hiệu quả tín dụng
nhà nước đầu tư phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh hình thức vay vốn trong nhân


18


dân, cho đầu tư phát triển kinh tế là quốc sách hàng đầu. Muốn đạt được các hiệu
quả trên cần phải thực các biện pháp sau:
Hình thành nguồn vốn đầu tư trong ngân sách: Các biện pháp quan trọng nhất
để tăng thu là thu đúng, thu đủ các khoản vay trong nước.
Thu ngân sách nhà nước trong sự phát triển bền vững, tức là thu nhưng không
làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bổi dưỡng phát triển và mở rộng
các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. Điều đó nghĩa là cần xác định mức thu
hợp lý vừa đảm bảo NSNN có nguồn thu cao, vừa đảm bảo để các đối tượng
NSNN có đủ điều kiện tài chính tiếp tục phát triển. Xác định mức thu tại diểm
“giới hạn tối ưu”này không đơn giản mà cần phân tích, cân nhắc nhiều nhân tố
khác nhau. Những nguồn thu thuộc khu vực kinh tế quốc doanh và có ý nghĩa đặc
biệt thì cần chú ý bồi dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tư, trợ giúp về
khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực... trong một chừng mực không bao cấp.
Không tận thu NSNN quá mức để bao cấp trong cấp phát mà chỉ thu trong
chừng mực tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu chi của Nhà nước. Đối với những
ngành , những địa phương có thất thu lớn thì cần tăng cường thu và tận thu, nhưng
quan điểm bao trùm thì không phải là tận thu.
-Vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhưng thuế xuất đơn
giản hoá. Kết quả là: giảm được tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách,
đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển, đồng thời
tránh được các khoản lạm thu, gây khó khăn phiền hà đến sinh hoạt và các hoạt
động khác của đời sống dân cư.

19



+ Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo đúng đối tượng trả nợ và tính kỹ các điều kiện
trả trước khi ký hợp định khung vay vốn, và hiệp định vay cho từng công trình,
chương trình dự án đầu tư. Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dàI
hạn cho phát triển kinh tế -xã hội cần thường xuyên đổi mới cảI tiến các hình thức
huy động, đặc biệt là hệ thống thuế.
- Phân bổ và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
+ Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách nhà nước và sử dụng đúng hướng nguồn vốn
này với biện pháp bao chùm là chống thất thu và tiết kiệm chi thường xuyên để
tăng quy mô nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
+ Từng bước xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nước.
+ Tăng cường công tác quản lý sau dự án. Những dự án này dùng nguồn vốn nhà
nước thường có quy mô vốn rất lớn, hiện nay việc thẩm định các dự án là tương
đối chặt chẽ thì trái lại việc quản lý sau dự án lại bị buông lỏng dẫn đến tình trạng
chi tiết trên danh nghĩa nhưng lại lãng phí trên thực tế. Sử dụng nhiều cơ chế khác
nhau để quản lý vốn, với nguồn vốn nhà nước được thông qua vay nước ngoài với
điều kiện ưu đãi thì tiến hành cho vay lại để tạo điều kiện bình đẳng trong sản xuất
kinh doanh và tái tạo nguồn vốn. Tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách hiện vẫn là
một khả năng rất lớn cần tận dụng, bởi lẽ so với các nước tỷ lệ động viên thu nhập
quốc dân vào ngân sách nhà nước là tương đối cao. Tỷ lệ thuế ở các nước so với
GDP là tương đối cao ( thường đạt mức dưới 20% ).
2. Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp nhà nước.
Trong chiến lược ổn định kinh tế Việt nam đến năm 2000, Đảng ta đã chỉ rõ “
chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu
20


quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân” . Tạo
vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề mà Đảng và các doanh
nghiệp nhà nước luôn quan tâm. Bởi có huy động được vốn mới tiến hành được

quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Đối với doanh nghiệp, chính
sách tài chính hướng vào các việc mở rộng khả năng hoạt động mạnh mẽ có hiệu
quả cao của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đó là những tế bào tài chính; làm cho
các nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt, đồng thời tạo ra cơ sở để nhà nước
có khả năng kiểm soát được nền tài chính quốc gia. Trong lĩnh vực đầu tư cho khu
vực doanh nghiệp nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp và chính sách sau:
-Các doanh nghiệp nhà nước thuần tuý kinh doanh tự huy động nguồn vốn trong xã
hội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo được điều kiện đầu tư bình đẳng với các
thành phần kinh tế của doanh nghiệp.
-Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp thật cần
thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu, với sở hữu đan xen, cổ phần hoá"
Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa, cùng loại hình
hoạt động, nếu như không có các quy chế đặc biệt thì đều có cơ chế về thuế, tín
dụng và lãnh thổ.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ chế chính
sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian, gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ chuyển nhanh sang các chức
năng quản lý nhà nước và chuyển nhanh về cơ chế Bộ chủ quản để các doanh
nghiệp tự chủ trong bảo bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Hiện nay nguồn tích luỹ
của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ chưa được đổi mới, chất lượng của sản phẩm
chưa cao, nên khả năng tiết kiệm cho đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao
21


chưa được quản lý nghiêm ngặt và khấu hao đủ. Vì vậy để huy động được nguồn
vốn lớn trong doand nghiệp nhà nước thì đòi hỏi nhà nước phải tiến hành sửa đổi
và ban hành các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu , để có
thể đầu tư phát triên sản xuất. Trong giai đoan 1996- 2000 vốn của doanh nghiệp
nhà nước tự đầu tư khoảng14-15% tổng số của toàn xã hội. Mở rộng quyến tự chủ

của các doanh nghiệp theo hướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh
nghiệp một cách hợp lý, tính đầy đủ giá trị quyền sử đất vào vốn vào tài sản tại
doanh nghiệp.
3. Nguồn vốn huy động từ trong dân cư:
Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong dân cư có
khoảng 6 tỷ USD được sử dụng qua điều tra của bộ kế hoach kế hoạch đầu tư và
tổng cục thống kê như sau:
- 44% để dành của dân là dùng để mua vàng và ngoại tệ
-20% để dành của dân được dùng để mua nhà đất và cải thiện đời sống sinh hoạt.
-Tuy nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhà nước huy động vốn từ trong dân với
nhiều chính sách khác nhau, khi thực tế áp dụng còn nhiều ràng buộc. Để tăng
cường sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài vùng ngân sách thì cần phải
có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm giàu chính
đáng tạo lòng tin cho nhân dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư, tiềm lực trong nhân dân
còn rất rất lớn, muốn vậy nhà nước phải ổn dịnh tiền tệ. Vốn đầu tư của tư nhân và
dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, mở mang
ngành nghề ở nông thôn phát triển công nghiệp thủ công, thương mại , dịch vụ, vận
tải…Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện các chính sách sau:

22


- Đa dạng hoá các công cụ, huy động vốn để cho mọi ngườ dân ở bất cứ nơI nào
cũng có đIều kiện sản xuất kinh doanh.
- Tăng lãi xuất tiết kiệm đảm bảo lãi xuất dương. Khuyến khích sử dụng tài sản cá
nhân, thực hiện chế độ thanh toán tiền gửi ở một nơi và rút ra bất cứ lúc nào, có
vậy chúng ta mới đưa được nguồn vốn dưới dạng cất giấu vào lưu thông. Tao môi
trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo quy định của luật pháp để người dân
dễ dàng bỏ vốn đầu tư. Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ
gia đình ở các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất trên cơ sơ khai thác thế mạnh của

từng vùng, phát huy truyền thống hiện có của địa phương. Chính phủ ban hành
chính sách khuyến khích tư nhân trong nước như tự đầu tư Thực hiện chính sách
xã hội hoá dần đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động
thêm nguồn lực của nhân dân.
4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài .
Nó có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần lớn các nước
đang phát triển và là điều kiện để nhang chóng thiết lập cacad quan hệ kinh tế quốc
tế, gắn thị trường nội dịa với thị trường thế giới trên cả bốn mặt :thị trường hàng
hoá, thị trường tàI chính, thị trường lao động và thị trường thông tin. Vì vậy, phảI
xây dung một chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù hợp voí những chuyển
biến to lớn về kinh tế, chính trị -xã hội và khoa học hiện nay. Cần có chính sách tàI
chính thích hợp để khuyến khích đầu te nước ngoài dưới hình thức vay nợ, đầu tư
tài chinh, đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh doanh, thuê chuyên gia… Thực hiện
chế độ tài chính ưu tiên như thuế nhập khẩu vật tư kỹ thuật , dịch vụ thông tin, thuế
xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế thu nhập , quyền được đảm bảo tàI sản, đIều kiện
chuyển lợi nhuận và vốn về nước và các dịch vụ đầu tư ưu đãI khác. Khuyến khích
đặc biệt đôi với đầu tư nước ngoàI cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên
23


lạc, công nghệ mũi nhọn, các ngành sử dụng nhiều lao độngvà những dự án khai
thác tài nguyên có số vốn khổng lồ. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho
phép nhiều ngân hàng thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, được kinh
doanh ngoại hối và thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thương nhanh chóng, thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước .
III.

KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ HUY
ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC


Nguồn vốn luôn là một vấn đề đặt ra hàng đầu cho mọi nền kinh tế công nghiệp
hoá. Tuy nhiên do lợi thế của mỗi một quốc gia là khác nhau và do sự khác nhau
về lợi thế so sánh nên con đường để kiến tạo nguồn vốn sản xuất là hết sức đa
dạng.
1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật bản là một cường quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn cho phát
triển kinh tế khác với nhiều nước khác. Những năm cuối thế kỷ XIX dưới thời
Minh Trị, Nhật còn là một nước rất nghèo, nền kinh tế mới đi vào công cuộc cải
cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tư ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế xã
hội. Nhật đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế rất lớn từ
nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật đã huy động được nguồn vốn rất lớn cho
phát triển kinh tế
Các nhà kinh tế đã tổng kết và đưa ra các nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật là:

24




Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tăng cường
điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở rộng thị trường.



Bước đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đã có tỷ lệ tích luỹ vốn
hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ và gần bằng
2 lần của Anh.




Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhưng tổng đầu tư vào tư bản
cố định của Nhật đã vượt Đức.



Nhật duy trì được mức tích luỹ cao là nhờ mức lương thấp trong khi năng
xuất lao động thì rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Huy động được
khối lượng lớn nguồn vốn từ người dân vào trong kinh doanh, chi phí cho quan sự
thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế được mức chi tiêu công cộng ở
mức thấp.

2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đã duy trì được
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng năm là 9%
cao hơn rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong cùng thời gian
công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trên 20% năm, dịch vụ
tăng trên 14%/ năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đã giúp cho Hàn Quốc
giải quyết được nhiều vấn đề như giảm thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, giảm
mức chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.

25


×