Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề vào giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường đại học sư phạm huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.14 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội càng phát triển, người ta càng quan tâm và đòi hỏi nhiều
hơn ở sự nghiệp giáo dục. Hiện nay, xét trên bình diện thế giới, cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang phát triển như vũ bão,
tạo nên những dòng thác thông tin khổng lồ. Đối với nước ta, công
cuộc đổi mới đất nước đang đi vào chiều rộng lẫn chiều sâu ở khắp
các lĩnh vực của đời sống xã hội, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước đang đặt ra yêu cầu rất cao đối với nguồn lực con người.
Con người trở thành vốn quý nhất, là lực lượng chính của sự nghiệp
xây dựng đất nước và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hoàn cảnh
trên đã đặt ra yêu cầu phải phát triển giáo dục toàn diện nhằm tạo ra
những con người có phẩm chất chính trị, tri thức khoa học và năng
lực hoạt động thực tiễn nhằm góp phần quan trọng trong việc đáp ứng
nguồn nhân lực trước yêu cầu của thời đại mới.
Việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, trong đó có môn CNXHKH ở trường đại học, cao
đẳng hiện nay được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Một là
do cùng với Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin,
CNXHKH là môn học trực tiếp trang bị nền tảng tư tưởng chính trị,
lập trường xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cho các thế hệ
sinh viên. Hai là do sau khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, cùng với sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, lòng tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân giảm sút. Bên cạnh đó, "các thế lực cơ hội,
1


phản động, thù địch tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt, nhất là
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hóa, báo chí, thực hiện
âm mưu diễn biến hoà bình ngày càng thâm độc, nham hiểm hơn.


Cuộc đấu tranh ý thức hệ tiếp tục diễn ra dai dẳng, quyết liệt" (Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa X). Ba là do điều "đặc
biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có trình
trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bảo lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước" (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, BCHTW Đảng khóa VIII).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, BCHTW Đảng khóa X cũng tiếp tục
khẳng định: "tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa được khắc phục có hiệu quả". Từ đó, các Nghị quyết này nêu
rõ cần phải “tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo
đức”, đồng thời nhấn mạnh: “đổi mới và nâng cao chất lượng giáo
dục trong hệ thống các trường chính trị, các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp trong cả nước” và “đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, nâng cao năng lực tự
học và thực hành".
Những chỉ dẫn trên của Đảng ta về phương pháp dạy học trong
nhà trường nói chung, trong giảng dạy môn CNXHKH nói riêng tuy
có được ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy nhưng chưa đạt được kết
quả như mong muốn. Nhiều nơi, thực trạng giảng dạy các môn khoa
học Mác-Lênin, trong đó có môn CNXHKH vẫn còn nhiều bất cập.
Dư luận xã hội đang bức xúc với lối dạy nhồi nhét sinh viên, đang lo
2


lắng về PPDH mà ở đó giáo viên chỉ thuyết giảng từ đầu đến cuối,
sinh viên cố gắng ghi chép và học thuộc; giáo viên chỉ tập trung giải
thích, tái hiện các nội dung tri thức mà chưa chú ý đến việc bồi
dưỡng, rèn luyện tư duy khoa học để sinh viên có khả năng tự giải

quyết vấn đề... Những hạn chế trên đã ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện vị trí và chức năng đặc biệt quan trọng của môn CNXHKH
trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay.
Tình hình trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: "Vận dụng
phương pháp dạy học nêu vấn đề vào giảng dạy môn Chủ nghĩa
xã hội khoa học ở trường Đại học sư phạm Huế hiện nay" làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành CNXHKH. Đề tài mong muốn đi sâu
vào việc ứng dụng một PPDH với nhiều ưu điểm đã được công nhận
rộng rãi trên thế giới và có tính khả thi trong việc phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn CNXHKH ở trường Đại học sư phạm Huế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một PPDH tích cực, phương pháp dạy học nêu vấn đề
(PPDHNVĐ) đã được các nhà khoa học giáo dục trong và ngoài
nước nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn như:
- Nhà giáo dục học V.O.Kon trong "Những cơ sở dạy học nêu vấn
đề" (NXB Giáo dục, 1976) đã đúc kết thành công và có kết luận vững
chắc về các cơ sở khoa học của PPDHNVĐ trong việc phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
- Tác giả I.Ia.Lecne trong "Dạy học nêu vấn đề " (NXB Giáo
dục, 1997) đã đề cập một số nội dung cơ bản của PPDHNVĐ, các
3


hình thức nêu vấn đề và nhiệm vụ của người giáo viên khi sử dụng
PPDH này.
- Tác giả Lê Nguyên Long trong "Thử đi tìm những phương
pháp dạy học hiệu quả" (NXB Giáo dục, 1998) đã xác định
PPDHNVĐ nằm trong nhóm phương pháp tìm tòi. Tác giả đã nêu
lên hai yếu tố đặc trưng của PPDH này, đó là tình huống có vấn đề

và giả thuyết để giải quyết vấn đề.
Tác giả Lưu Xuân Mới trong "Lý luận dạy học hiện đại" (NXB
Giáo dục, 2003) đã đề cập đến PPDHNVĐ như là một PPDH có
nhiều triển vọng trong dạy học hiện nay. Tác giả phân tích những cơ
sở khoa học của phương pháp, các dấu hiệu đặc trưng… Đặc biệt là
ở phần quy trình dạy học nêu vấn đề, tác giả đã có nhiều luận giải
sâu sắc.
- Tác giả Nguyễn Văn Cư trong “Giáo trình phương pháp dạy
học Chủ nghĩa xã hội khoa học” đã dành hẳn một chương (chương
7) để trình bày những vấn đề chung của quá trình sử dụng phương
pháp dạy học này trong môn CNXHKH như sự cần thiết và bản chất
của phương pháp, các giai đoạn cần thực hiện khi sử dụng tình
huống các vấn đề, các hình thức thường dùng khi sử dụng phương
pháp… Người đọc có thể tìm thấy ở đây những chỉ dẫn quý báu khi
sử dụng PPDH này trong giảng dạy môn CNXHKH.
Ngoài ra, nghiên cứu về PPDHNVĐ còn có các bài viết, chuyên
đề đăng trên các tạp chí lý luận dạy học, kỷ yếu hội thảo khoa học
về nội dung đổi mới PPDH các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các luận văn, luận án,… Nhìn chung các công trình
nghiên cứu đều khẳng định ý nghĩa to lớn của PPDHNVĐ trong việc
4


phát huy tính tích cực của người họ và đưa ra được những chỉ dẫn
chung về cách thực hiện và kỹ năng sử dụng PPDH này.
Ở đề tài này, chúng tôi kế thừa những thành tựu nghiên cứu của
những người đi trước, khái quát và tổng hợp những vấn đề cơ bản
của PPDHNVĐ nhằm vận dụng PPDH này vào giảng dạy một số
nội dung cơ bản và cụ thể của môn CNXHKH để góp phần nâng cao
hiệu quả dạy học bộ môn này ở trường ĐHSP Huế hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và vận dụng PPDHNVĐ trong môn CNXHKH
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn khoa học này ở trường
ĐHSP Huế hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề chung về PPDHNVĐ và sự vận
dụng PPDH này trong giảng dạy môn CNXHKH.
- Làm rõ thực trạng của quá trình vận dụng PPNVĐ vào giảng
dạy môn CNXHKH ở trường ĐHSP Huế hiện nay, tìm hiểu những
kết quả đạt được, hạn chế và những vấn đề cần đặt ra.
- Đề ra những yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm vận dụng hiệu
quả PPNVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH ở trường ĐHSP Huế
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quá trình vận dụng PPNVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH ở
trường ĐHSP Huế hiện nay.
5


* Phạm vi nghiên cứu
- Từ cơ sở lý luận chung về PPDHNVĐ, đề tài giới hạn trong
việc nghiên cứu quá trình vận dụng PPDH này trong giảng dạy môn
CNXHKH. Từ đó đề ra các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giảng dạy môn khoa học này ở tại trường ĐHSP Huế hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;

các quan điểm về khoa học giáo dục và khoa học sư phạm trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: phân tích, tổng hợp, so sánh, quan sát, điều tra. Các phương
pháp này được sử dụng phù hợp với từng nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích và hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về quá
trình áp dụng PPDHVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tư liệu tham khảo cho
các nhà nghiên cứu sư phạm và các giảng viên trực tiếp giảng dạy
môn CNXHKH nói riêng, các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung.
6


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có ba chương:
Chương 1. Quan niệm chung về phương pháp dạy học nêu vấn
đề và việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn
chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chương 2. Thực trạng việc vận dụng PPDHNVĐ trong giảng
dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đại học Sư phạm Huế
hiện nay.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng
phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa
học ở trường ĐHSP Huế hiện nay.


7


Chương 1
QUAN NIỆM CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ
VÀ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG
GIẢNG DẠY MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

1.1. Khái niệm, đặc điểm và quy trình của phương pháp dạy
học nêu vấn đề
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học nêu vấn đề
Phương pháp là con đường, cách thức để đạt tới mục đích. Trong
hoạt động dạy học, phương pháp là con đường, cách thức để người
thầy sử dụng nhằm hướng dẫn người học tiếp nhận những tri thức
khoa học nào đó. Theo lý luận dạy học hiện đại, phương pháp không
phải là hình thức bên ngoài nội dung, mà bao giờ cũng là sự là biểu
hiện bên trong của nội dung, do nội dung quy định, hay phương
pháp là phương pháp của nội dung, là cách thức thực hiện nội dung.
Vì thế, tùy theo tính đặc thù của trí thức môn học mà đòi hỏi phải sử
dụng những PPDH phù hợp.
Về định nghĩa PPDHNVĐ, từ trước đến nay đã có nhiều nhà
nghiên cứu khoa học giáo dục trong và ngoài nước đưa ra nhiều quan
điểm khác nhau. Từ những điểm tương đồng trong các quan điểm
trên, có thể hiểu PPDHNVĐ là một phương pháp dạy học mà ở đó
quá trình dạy và học được tổ chức bằng cách tạo ra THCVĐ và
triển khai quá trình giải quyết tình huống đó nhằm để tạo ra ở
người học nhu cầu tự phát hiện và giải quyết các nhiệm vụ học tập

8



để tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành tư tưởng, thái
độ.

9


1.1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề
1.1.2.1. Tình huống có vấn đề là yếu tố cơ bản nhất.
Nói một cách ngắn gọn, THCVĐ là loại tình huống chứa đựng
mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, đó có thể là mâu thuẫn
giữa lý thuyết cũ và lý thuyết mới, giữa lý thuyết với thực tiễn, giữa
cái đã biết với cái chưa biết cần giải đáp.
Cũng giống như các môn khoa học khác, bản thân môn
CNXHKH cũng chứa đựng các tình huống có vấn đề. Trên cơ sở nội
dung, đặc điểm tri thức và đối tượng nghiên cứu, giảng viên tiến
hành thiết kế các bài tập nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái
đã biết và cái sẽ tìm. Dựa vào các kiểu mâu thuẫn và đặc thù tri thức
của môn CNXHKH, có thể chia tình huống có vấn đề thành các loại
như sau:
Tình huống nghịch lý
Tình huống nghịch lý này được chia làm hai loại:
* Một là nghịch lý ngay từ trong bản thân tri thức của môn học:
trong nội dung môn học, có nhiều lúc, những kết luận của các nhà
kinh điển đưa ra có thể gây trở ngại cho người học khi mới thoạt
nhìn và gieo cho người học những băn khoăn như: Kết luận đó thực
chất là gì? Tại sao lại nói như vậy? Để giải quyết được nó cần phải
vận dụng những cơ sở lý luận nào đã được trang bị?,...
Chẳng hạn như: để sinh viên hiểu sâu hơn mục tiêu và động lực

của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ giữa chúng,
giảng viên dẫn xuất và yêu cầu sinh viên lý giải luận điểm nổi tiếng
sau của C.Mác và Ăngghen khi hai ông so sánh về mục tiêu và động
10


lực giữa các cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử: “tất cả những
phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện,
hoặc đều mưu cầu lợi ý cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong
trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ý cho khối đại đa số”.
* Hai là nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn: đây cũng là một
trong những dạng tinh huống thường xuyên xuất hiện trong quá trình
dạy học môn CNXHKH. Điều này xuất phát từ đặc thù tri thức của
bộ môn.
Chẳng hạn như khi dạy nội dung “xã hội xã hội chủ nghĩa”, sau
khi đã phân tích cho sinh viên thấy được những đặc trưng cơ bản
của xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, giảng viên có thể
đặt ra một tình huống theo dạng nghịch lý như: Với những đặc trưng
như những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra, xã hội
chủ nghĩa đã thể hiện là một chế độ xã hôi ưu việt nhất từ trước đến
nay nhưng tại sao trong thực tiễn nó đã bị sụp đổ ngay chính trên
quê hương của Cách mạng tháng Mười?
Tình huống lựa chọn
Đây là tình huống có vấn đề xuất hiện khi chủ thể nhận thức đứng
trước một sự khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết,
phương án nào cũng vừa chứa đựng lý lẽ phù hợp nhưng đồng thời
cũng vừa chứa đựng những nhược điểm cơ bản, song chỉ có một lựa
chọn là duy nhất đúng bằng những cơ sở logíc và thực tiễn (xem ví dụ
minh họa trong luận văn)
Tình huống bác bỏ


11


Đó là tình huống có vấn đề khi phải bác bỏ một kết luận hay
luận đề sai lầm. Trong môn CNXHKH, tình huống theo dạng này
chủ yếu được kiến tạo bằng cách đưa ra những luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch trong việc chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin
và phủ nhận các thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực (xem ví dụ
minh họa trong luận văn)
Tình huống “tại sao”?
Đây là tình huống phổ biến, xuất hiện nhiều trong học tập và
nghiên cứu khoa học. Tình huống này xuất hiện khi người học gặp
phải những hiện tượng, sự kiện mà con người chưa đủ tri thức để
giải thích hiện tượng đó (xem ví dụ minh họa trong luận văn)
1.1.2.2. Người học tự lực tìm kiếm thông tin để giải quyết vấn đề

Nhiệm vụ giải quyết các tình huống có vấn đề không phải là của
người dạy mà là của người học. Quá trình tự lực giải quyết vấn đề
của người học được biểu hiện bằng các thao tác tìm kiếm mối quan
hệ giữa vấn đề được nêu ra với vốn tri thức hiện có của bản thân
mình để giúp giải quyết vấn đề.
1.1.2.3. Người dạy giữ vai trò chỉ đạo và định hướng
Trong PPDHNVĐ, mặc dù người học giữ vị trí trung tâm của quá
trìnnh dạy học nhưng không vì thế mà mâu thuẫn với vai trò chỉ đạo,
định hướng của người dạy. Vai trò chỉ đạo, định hướng của người dạy
được thể hiện ở những điểm như thiết lập các bài toán nhận thức; xác
lập phương pháp, cách thức để giải quyết vấn đề nhằm sẵn sàng giúp
đỡ người học trong quá trình giải quyết .v.v...


12


1.1.3. Quy trình thực hiện của phương pháp dạy học nêu vấn đề

1.1.3.1. Xây dựng tình huống có vấn đề
Việc đưa ra THCVĐ là một bước quan trọng, quyết định cả tiến
trình tổ chức dạy học. Có nhiều cách để tạo ra tình huống có vấn đề.
Dựa trên sự phân loại các dạng tình huống có vấn đề có thể khái
quát các cách sau:
- Tạo tình huống bằng cách kích thích sinh viên so sánh, đối
chiếu những quan điểm của các nhà kinh điển trong các hoàn cảnh
hoặc thời đại khác nhau (xem ví dụ minh họa trong luận văn).
- Tạo tình huống bằng cách đề ra các giả thuyết để sinh viên
phản đối hoặc đồng tình (xem ví dụ minh họa trong luận văn).
- Tạo tình huống bằng cách dựa vào những biểu hiện mới từ xu
hướng vận động của đời sống thực tiễn khi so sánh với những
nguyên lý cơ bản của CNXHKH (xem ví dụ minh họa trong luận
văn).
1.1.3.2. Giải quyết vấn đề
Đây là giai đoạn đưa ra các phương án, biện pháp, con đường để
giải quyết một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn các bài tập nhận thức được
nêu ra. Kết quả của quá trình này sẽ giúp người học nắm được
những tri thức mới.
1.1.3.3. Hệ thống hóa và tổng hợp tri thức
Đây là giai đoạn cuối cùng của quy trình dạy học nêu vấn đề. Sau
khi đưa sinh viên vào THCVĐ và hướng dẫn người học giải quyết,
người dạy kết luận lại những kiến thức cơ bản của bài giảng.
13



1.1.4. Các hình thức của phương pháp dạy học nêu vấn đề
1.1.4.1. Trình bày nêu vấn đề
Thực chất của hình thức trình bày nêu vấn đề là sau khi đưa ra
tình huống có vấn đề, giáo viên vừa đưa ra lời giải cuối cùng đồng
thời vạch ra logíc của quá trình đi tới đích.
1.1.4.2. Nêu vấn đề bộ phận
Thực chất của kiểu dạy học nêu vấn đề bộ phận là người dạy lập
kế hoạch cho quá trình đi tới lời giải hay làm cho quá trình đó trở
nên dễ dàng hơn, còn người học thì tự lực giải quyết một phần vấn
đề mà thôi.
1.1.4.3. Nêu vấn đề toàn bộ
Thực chất của hình thức này là người dạy chỉ thể hiện vai trò chỉ
đạo, định hướng trong việc tổ chức cho người học nghiên cứu bài
giảng một cách sáng tạo.
1.2. Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn
Chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay
1.2.1. Sự cần thiết phải sử dụng phương pháp nêu vấn đề
trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
1.2.1.1. Phù hợp với đặc thù tri thức của bộ môn
Đặc thù tri thức là một trong những cơ sở rất quan trọng trong
việc xác định các PPDH thích hợp. Chính tính đặc thù tri thức của
môn học đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng PPNVĐ trong
giảng dạy môn CNXHKH. Điều này được lý giải ở những điểm sau:

14


Một là: Tri thức của môn CNXHKH có tính hệ thống và tổng hợp
nhiều tri thức.

Hai là: Tri thức của môn CNXHKH mang tính chính trị sâu sắc
và đòi hỏi cao ở ý chí, đạo đức và tình cảm cách mạng.
Ba là: CNXHKH còn là môn học có tính thực tiễn sâu sắc.
1.2.1.2. Phù hợp với xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay
Trong bối cảnh của thời đại ngày nay, những hạn chế của PPDH
truyền thống trong dạy học môn CNXHKH đã đặt ra yêu cầu phải
nhìn nhận lại vấn đề PPDH và hướng đến sự đổi mới theo hướng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên. Với yêu cầu đó, sử
dụng PPNVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH tỏ ra đáp ứng tốt với
xu hướng đổi mới nói trên.
1.2.2. Một số yêu cầu có tính nguyên tắc khi sử dụng
phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã
hội khoa học
1.2.2.1. Nội dung của tình huống có vấn đề cần phải gắn liền
với nội dung tri thức môn học
1.2.2.2. Khai thác tối đa vốn kinh nghiệm và hiểu biết của sinh
viên
1.2.2.3. Kết hợp hài hòa với các phương pháp dạy học khác
Cũng giống như ở những môn học khác, việc vận dụng PPNVĐ
trong giảng dạy môn CNXHKH cũng cần tuân thủ những nguyên tắc
kể trên. Đó là những luận điểm có tính chất chỉ đạo, định hướng
chung cho các hoạt động dạy và học.
15


Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG GIẢNG DẠY MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ HIỆN NAY


2.1. Thực trạng của quá trình vận dụng phương pháp nêu vấn
đề của giảng viên trong dạy học môn Chủ nghĩa xã hội khoa học ở
trường Đại học Sư phạm Huế
Để tìm hiểu sâu hơn thực trạng của việc vận dụng PPDHNVĐ,
một trong những PPDH tích cực trong dạy học môn CNHKH tại
trường ĐHSP Huế, chúng tôi đã tiến hành điều tra qua hệ thống
bảng hỏi dành cho giảng viên và sinh viên. Trong đó số lượng giảng
viên được hỏi là 10 và số lượng sinh viên được điều tra là 205 gồm 4
lớp thuộc 4 khoa trong trường (khoa Toán học, khoa Sinh học, Khoa
Ngữ văn và khoa Lịch sử). Việc chọn lựa sinh viên của 4 lớp như
trên nhằm mục tiêu đảm bảo sự đại diện và phong phú của đối tượng
điều tra. Đồng thời, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn và trao đổi
với các giảng viên trực tiếp giảng dạy bộ môn và các sinh viên về
một số nội dung liên quan đến quá trình dạy và học theo PPNVĐ.
Ngoài ra, kết quả của quá trình quan sát và nhận định của tác giả
cũng góp phần làm cho những đánh giá về thực trạng trở nên đầy đủ
và sâu sắc hơn. Nội dung của quá trình điều tra xoay quanh các vấn
đề về nhận thức của giảng viên đối với PPDHNVĐ và quá trình vận
dụng PPDH này trong giảng dạy môn CNXHKH ở trường ĐHSP

16


Huế hiện nay. Kết quả của quá trình điều tra thực trạng được thể
hiện ở những điểm sau đây:
2.1.1. Mức độ thường xuyên vận dụng phương pháp nêu vấn đề
trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
2.1.2. Nhận thức của giảng viên và sinh viên về tác dụng và
ưu điểm của phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ

nghĩa xã hội khoa học
2.1.3. Những nhân tố gây khó khăn và trở ngại cho quá trình
vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ
nghĩa xã hội khoa học
2.1.4. Mức độ sử dụng đối với các kiểu dạy học của phương
pháp nêu vấn đề
2.1.5. Mức độ sử dụng đối với các dạng tình huống có vấn đề
2.1.6. Mức độ sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề đối
với các loại bài lên lớp
2.1.7. Nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sử
dụng phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã
hội khoa học
2.2. Đánh giá kết quả điều tra thực trạng và những vấn đề
cần đặt ra
2.2.1. Những kết quả đạt được và hạn chế
Quá trình xử lý các kết quả điều tra có thể được kết luận thành
những điểm sau đây:
- Hầu hết các giảng viên đều đã nhận thức được tầm quan trọng
của PPNVĐ trong giảng dạy môn CHXHKH và thống nhất rằng nêu
17


vấn đề sẽ là một trong những PPDH có triển vọng ứng dụng to lớn
trong dạy học nói chung.
- Khi bàn về những khó khăn, trở ngại cũng như những nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình sử dụng phương pháp, các
giảng viên cũng đã nêu ra được những nhận thức đúng đắn và đầy
đủ.
- Sinh viên thực sự đánh giá cao việc giảng viên áp dụng các
PPDH tích cực trong đó có phương pháp PPNVĐ trong môn

CNXHKH.
Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, quá trình điều tra thực
trạng của việc còn cho thấy nhiều hạn chế trong quá trình vận dụng
PPNVĐ trong dạy học môn CNXHKH ở trường ĐHSP Huế như
sau:
- Việc vận dụng PPNVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH còn
chưa thực sự thường xuyên trong việc truyền thụ những những tri
thức của bộ môn.
- Kiểu dạy học nêu vấn đề được giảng viên sử dụng chủ yếu là
trình bày nêu vấn đề. Đây là kiểu dạy học có mức độ thấp nhất trong
việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên.
- Trong các dạng THCVĐ, giảng viên chủ yếu sử dụng dạng
“tình huống tại sao”.
- Trong các loại bài lên lớp, thì lên lớp truyền thụ tri thức mới
được giảng viên sử dụng thường xuyên nhất gắn với PPDHNVĐ.
Việc áp dụng phương pháp này còn khiên tốn về mức độ sử dụng
đối với loại bài củng cố, ôn tập, thảo luận và kiểm tra.
18


- Giảng viên môn CNXHKH còn hạn chế trong nhận thức khoa
học về PPNVĐ với tư cách là một PPDH tích cực. Đồng thời, những
kỹ năng thực hành phương pháp của giảng viên chưa đạt được đến
độ hoàn thiện.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra
- Cần nâng cao hơn nữa nhận thức của giảng viên và sinh viên
về triển vọng của PPNVĐ với tư cách là một PPDH tích cực trong
dạy học môn CNXHKH.
- Giảng viên bên cạnh yêu cầu về kiến thức chuyên môn cần
phải được trang bị một cách có hệ thống những yêu cầu về kỹ năng

cần thiết của giảng viên trong quá trình sử dụng PPDHNVĐ.
- Sinh viên với tư cách là nhân tố trung tâm của hoạt động dạy
học cũng cần được trang bị những kỹ năng cơ bản trong quá trình
học tập theo PPNVĐ.
- Việc thực hiện được những yêu cầu trên không thể thiếu sự tác
động của các cấp quản lý. Cần khai thác triệt để sự tác động của các
cấp quản lý trong việc góp phần đẩy mạnh quá trình ứng dụng
PPNVĐ trong giảng dạy nói chung, trong môn CNXNKH nói riêng.
Những vấn đề được đặt ra như trên cơ sở để xây dựng các yêu
cầu về kỹ năng sư dụng PPNVĐ và hệ thống các giải pháp đối với
giảg viên, sinh viên và các cấp quản lý. Nội dung này sẽ được đề cập
cụ thể ở chương sau.

19


Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY MÔN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM HUẾ HIỆN NAY

3.1. Yêu cầu về kỹ năng trong quá trình vận dụng phương
pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội khoa
học
Nhìn vào quy trình tổ chức và mục tiêu đặt ra, chúng ta thấy nêu
vấn đề là một trong những PPDH đòi hỏi rất cao ở người giảng viên
năng lực chuyên môn và kỹ năng thực hành phương pháp.Từ đây, để
sử dụng PPDH này có hiệu quả, ngoài kiến thức chuyên môn vững
vàng, người giảng viên cần phải được trang bị một cách cơ bản hệ

thống những kỹ năng sử dụng phương pháp này. Những kỹ năng cơ
bản đó bao gồm:
3.1.1. Kỹ năng kiến tạo tình huống có vấn đề
3.1.2. Kỹ năng lựa chọn các kiểu dạy học nêu vấn đề
3.1.3. Kỹ năng tổ chức, điều khiển quá trình giải quyết vấn đề
trên lớp
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
phương pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn Chủ nghĩa xã hội
khoa học ở trường Đại học Sư phạm Huế hiện nay

20


3.2.1. Giải pháp đối với giảng viên
3.2.1.1. Giảng viên cần được trang bị kiến thức chuyên môn
vững chắc
Có thể khẳng định phương pháp là phương pháp của nội dung,
liên hệ chặt chẽ với nội dung. Vì thế, người giảng viên không thể
nào vận dụng tốt PPDH nếu như không nắm vững nội dung chương
trình bài giảng một cách sâu sắc.
3.2.1.2. Giảng viên cần có kỹ năng thực hành phương pháp
Thực tiễn đã chứng minh muốn dạy tốt thì người giảng viên
ngoài kiến thức chuyên chuyên môn vững vàng còn rất cần phải am
tường và vận dụng tốt các PPDH cùng với hệ thống kỹ năng, kỹ xảo
sư phạm.
3.2.1.3. Giảng viên cần có ý thức tâm huyết với nghề nghiệp
Đây là yếu tố tinh thần, tư tưởng cần thiết đối với nghề dạy học.
Để có được kiến thức chuyên môn vững và hệ thống kỹ năng thành
thạo trong dạy học rất cần sự nổ lực không biết mệt mỏi của người
giảng viên. Việc bồi dưỡng thường xuyên tình yêu nghề nghiệp sẽ

giúp giảng viên vượt qua những giây phút nản lòng. Ngoài ra, sự tận
tụy với nghề nghiệp cũng là một yêu cầu có tính đặc thù đối với các
giảng viên giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
3.2.2. Giải pháp đối với sinh viên
3.2.2.1. Sinh viên phải có một năng lực nhận thức nhất định
PPNVĐ không chỉ đặt ra yêu cầu rất cao ở năng lực chuyên môn
và hệ thống kỹ năng sử dụng phương pháp đối với người dạy mà còn
21


đòi hỏi ở người học một năng lực nhất định khi học tập theo PPDH
này.
3.2.2.2. Sinh viên phải chủ động tích cực trong quá trình tham
gia học tập.
Đây cũng là một yêu cầu về phía người học, đối tượng tiếp nhận
PPDHNVĐ. Sự hưởng ứng mạnh mẽ của sinh viên trong các hoạt
động học tập theo PPNVĐ sẽ giúp quá trình giải quyết tình huống
đạt hiệu quả cao nhờ tạo được bầu không khí tích cực và hứng thú
học tập của tập thể lớp.
3.2.3. Giải pháp đối về điều kiện tổ chức quản lý và cơ sở vật
chất
Để cho quá trình vận dụng các PPDH tích cực nói chung,
PPNVĐ nói riêng cần có sự tác động thuận lợi từ các yếu tố khách
quan, bao gồm những nội dung sau:
3.2.3.1. Cần có những chính sách và biện pháp quản lý thích
hợp
3.2.3.2. Cần có đầy đủ tài liệu tham khảo
3.2.3.3. Cần có đầy đủ phương tiện dạy học


22


KẾT LUẬN

Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “lấy
người học làm trung tâm”, PPNVĐ đóng vai trò rất quan trọng và
có nhiều ưu thế. Khả năng tích cực hóa mạnh mẽ các hoạt động nhận
thức của người học và tính chất dung nạp với hầu hết các PPDH
khác đã khiến cho PPDH này có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ
thống các PPDH tích cực hiện nay. Chính vì thế việc nghiên cứu
một cách bài bản và vận dụng thường xuyên PPDHNVĐ trong dạy
học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tường Hồ chí Minh nói
chung, môn CNXHKH nói riêng là một trong những giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học này trong
các trường đại học hiện nay.
Kết quả của quá trình điều tra thực trạng việc vận dụng
PPDHNVĐ trong dạy học môn CNXHKH ở trường ĐHSP Huế
hiện nay đã cho thấy những kết quả bước đầu và những hạn chế của
quá trình sử dụng phương pháp. Những kết luận về thực trạng là cơ
sở để xây dựng những yêu cầu về kỹ năng đối với người giảng viên
và hệ thống các giải pháp từ phía người dạy, người học và các cấp
quản lý. Việc thực hiện đồng bộ hệ thống các các yêu cầu và giải
pháp kể trên sẽ giúp nâng cao hiệu quả của quá trình vận dụng
PPDHNVĐ trong giảng dạy môn CNXHKH ở trường ĐHSP Huế
hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài trở nên có ý nghĩa trước chủ
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc cấu trúc lại nội dung
chương trình các môn khoa học Mác- Lênin, tư tuởng Hồ Chí Minh
23



và rút ngắn thời lượng giảng dạy các môn khoa học này. Việc sử
dụng các PPDH tích cực trong đó có PPNVĐ sẽ giúp sinh viên tích
cực hóa các hoạt động nhận thức để trong một thời lượng có hạn có
thể nắm được những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa MácLênin. Đặc biệt, việc sử dụng PPDH này sẽ giúp sinh viên được
trang bị những kỹ năng tự học quan trọng để tự mình bổ sung và mở
rộng việc nghiên cứu và áp dụng những nguyên lý chung nhất mà bộ
môn cung cấp trong hoạt động chuyên môn của mình.

24



×