1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay đối
với trẻ em là các quyền của trẻ em phải được bảo vệ trong mọi trường hợp,
quan điểm này được thể hiện trong nhiều văn bản, tài liệu của Đảng và Nhà
nước ta. Ngay trong các văn kiện của Đảng cũng đã khẳng định chính sách
chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện các quyền của trẻ em, tạo
điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát
triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; trẻ em mồ côi, bị
khuyết tật, sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập và vui
chơi [17]. Điều 65 Hiến pháp năm 1992, quy định: "Trẻ em được gia đình,
Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục". Thể chế hóa quan điểm
của Đảng và Nhà nước, các chế định về chăm sóc và bảo vệ trẻ em được thể
hiện trong nhiều văn bản pháp luật như: Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em,
Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình…. Đặc biệt, trong
Bộ luật hình sự có nhiều điều luật cụ thể quy định hình phạt nghiêm khắc đối
với người phạm tội có hành vi xâm phạm vào những quy định về chăm sóc và
bảo vệ trẻ em như: Điều 112 (Tội hiếp dâm trẻ em), Điều 114 (Tội cưỡng dâm
trẻ em), Điều 115 (Tội giao cấu với trẻ em), Điều 116 (Tội dâm ô với trẻ em)
v.v…
Trong những năm gần đây, đã xảy ra một số vụ án hình sự liên quan
đến tổ chức và công dân người nước ngoài có hành vi phạm tội xâm hại đến
trẻ em như: hiếp dâm trẻ em, dâm ô với nhiều trẻ em, buôn bán trẻ em v.v…
Trẻ em đang là đối tượng bị tội phạm xâm hại cả về thể chất lẫn tinh thần, đã
và đang gây ra nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho quá trình học tập và
trưởng thành của bản thân các em, cũng như tương lai của đất nước. Báo cáo
2
tổng kết 5 năm thực hiện Đề án 4 Chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm (từ năm 2000 – 2004) của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an đã nêu rõ:
Tuy nhiên, xét về tổng thể, tình hình tội phạm xâm hại trẻ
em vẫn diễn biến phức tạp, loại tội phạm lứa tuổi vị thành niên
giảm chưa cơ bản, vững chắc, thậm chí một số tội phạm xâm hại trẻ
em như: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm trẻ em và trẻ vị thành
niên hoạt động theo băng, ổ nhóm gây án nghiêm trọng còn xảy ra
nhiều [12].
Trong thực tế công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan
tiến hành tố tụng đã tích cực phát hiện, điều tra, xử lý đối với các hành vi xâm
phạm vào những quy định về chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Theo thống kê của
các cơ quan tiến hành tố tụng, mỗi năm có hàng trăm vụ án hình sự được điều
tra, truy tố và xét xử về các tội xâm hại trẻ em. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền
của trẻ em là người bị hại trong điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự hiện nay
đang gặp những khó khăn nhất định từ giai đoạn điều tra đến truy tố và xét
xử. Việc thu thập chứng cứ đối với người bị hại là trẻ em gặp khó khăn hơn
nhiều lần so với người bị hại thành niên; việc xác định trẻ em hay không phải
là trẻ em cũng có vấn đề về thủ tục pháp lý khi mà nhiều trẻ em ở vùng sâu,
vùng xa không có giấy khai sinh hoặc những tài liệu khác chứng minh về độ
tuổi; thủ tục giám định y khoa đối với trẻ em cũng còn nhiều bất cập; không ít
những người tiến hành tố tụng trong vụ án có người bị hại là trẻ em chưa được trang bị những kiến thức cần thiết về tâm sinh lý của trẻ em; việc mời
người bảo vệ quyền lợi của đương sự (luật sư) để bảo vệ quyền lợi cho người
bị hại là trẻ em trong vụ án hình sự cũng không đơn giản, do nhận thức và cả
những khó khăn về tài chính; sự tham gia của gia đình, tổ chức xã hội vào vụ
án hình sự để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em cũng có những vấn đề cần phải giải
quyết, v.v… Tất cả những vấn đề được đề cập trên đây đã gây nên những khó
khăn, thiếu sót, tồn tại không nhỏ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ
3
án hình sự có người bị hại là trẻ em. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: " Nâng
cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về các tội xâm
hại trẻ em" là hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay để góp phần tích cực
bảo vệ các quyền và sự phát triển bình thường của trẻ em.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu thực trạng
tình hình hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự về các tội xâm hại trẻ em để trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đối với
các tội xâm hại trẻ em.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử những vụ án hình sự duy nhất chỉ có người bị hại là trẻ em xảy ra từ
năm 2001 đến năm 2005 trong phạm vi toàn quốc, theo 7 tội danh cụ thể được
quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, bao gồm các tội sau đây:
- Tội giết con mới đẻ (Điều 94);
- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112);
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114);
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115);
- Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116);
- Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120);
- Tội vi phạm qui định về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ những tồn tại, thiếu sót
hiện nay của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong việc giải quyết vụ án hình
sự tại các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về các tội xâm hại
4
trẻ em hiện nay; phát hiện những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, tồn
tại của hoạt động này trên các phương diện xây dựng pháp luật và áp dụng
pháp luật để đưa ra được những đề xuất và giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả
và chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về các tội xâm
hại trẻ em, góp phần vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực
pháp luật về tư pháp hình sự; đưa ra những ý kiến đề xuất về xây dựng đội
ngũ những người tiến hành tố tụng có đủ năng lực, trình độ chuyên môn,
phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở
nước ta trong giải quyết các vụ án hình sự đối với các tội xâm hại trẻ em.
Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu cần giải quyết
một số nhiệm vụ: nghiên cứu pháp luật quy định về trẻ em và thực tế áp dụng
pháp luật; nghiên cứu pháp luật quy định về những người tiến hành tố tụng tại
các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đối với các vụ án hình sự
về các tội xâm hại trẻ em và thực tế áp dụng pháp luật nhằm phát hiện những
bất cập để có đề xuất bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự;
nghiên cứu thực trạng tình hình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về các
tội xâm hại trẻ em để phát hiện những tồn tại, thiếu sót trong quá trình giải
quyết vụ án loại này để đưa ra những nhận định, kết luận liên quan đến đề tài.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở hệ thống các quan điểm, đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự; lý luận về khoa học tư pháp hình sự, tội phạm học, khoa học điều tra
hình sự; khoa học tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự đối với
các tội xâm hại trẻ em.
Cơ sở thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài là kết quả quá trình nghiên
cứu các báo cáo tổng kết, sơ kết, báo cáo chuyên đề, hồ sơ vụ án hình sự đã
xét xử, trao đổi tọa đàm với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
5
thẩm nhân dân, Luật sư là những người trực tiếp tiến hành và tham gia tố tụng
những vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em và kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân khi được phân công làm chủ tọa phiên tòa, hoặc tham gia Hội đồng
xét xử trực tiếp xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm hại trẻ em tại Tòa án
nhân dân thành phố Hải Phòng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của việc nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật và tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận về nhà nước
và pháp luật Việt Nam; quan điểm của Đảng về chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ
em và chính sách hình sự có liên quan; các chế định pháp luật về hình sự;
quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp đến năm 2020.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể chủ yếu là các phương pháp phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khảo sát, điều tra xã hội học về những nội dung
liên quan đã được trình bày ở phần trên.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài được thể hiện bằng kết quả
nghiên cứu, mong muốn góp phần hoàn thiện lý luận và thực tiễn trên các
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, góp phần hoàn thiện lý luận về khoa học điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự có người bị hại là trẻ em;
Thứ hai, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến
trẻ em, đến tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội
xâm hại trẻ em;
Thứ ba, góp phần khắc phục những tồn tại, thiếu sót thường mắc phải
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
đối với các tội xâm hại trẻ em;
6
Thứ tư, góp phần vào công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
cho những người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự
có người bị hại là trẻ em nói chung và các tội xâm hại trẻ em nói riêng tại
các học viện, trường đại học, trung tâm bồi dưỡng chính trị, pháp luật trong
cả nước.
7. Những điểm mới của luận văn
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống về vụ án hình sự có
người bị hại là trẻ em; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đối với vụ
án loại này trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, có thể coi những
điểm sau đây là những đóng góp mới cho khoa học tư pháp hình sự. Cụ thể:
- Lần đầu tiên vấn đề điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về các tội
xâm hại trẻ em được nghiên cứu một cách toàn diện trong khoa học tư pháp
hình sự nên có nhiều vấn đề mới sẽ được đề cập liên quan đến quyền trẻ em,
người bị hại là trẻ em trong vụ án hình sự;
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động tố tụng của
những người tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án loại này nhằm bảo
vệ quyền của trẻ em;
- Làm rõ được mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa
án trong giải quyết vụ án hình sự về các tội xâm hại trẻ em.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
được kết cấu thành 3 chương.
7
Chương 1
Những vấn đề chung về điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em
1.1. Nhận thức chung về "trẻ em" và "người bị hại là trẻ em" trong
pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam
Thuật ngữ "trẻ em" được quy định ở mỗi quốc gia không giống nhau
tùy thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát triển sinh học, cũng như quan
điểm về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em của mỗi nước. Trong hệ
thống pháp luật Quốc tế liên quan đến trẻ em, đã có nhiều văn bản quy định
về quyền của trẻ em; trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em như:
Tuyên bố Giơnevơ 1924; Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
1959; Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của
trẻ em; Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại; Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm
1989.v.v.. Liên quan đến khái niệm trẻ em, Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1989 quy định: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ
trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm
hơn" [16]. Như vậy, để xác định một người có phải là trẻ em hay không còn
phụ thuộc vào luật áp dụng của từng quốc gia quy định về độ tuổi trẻ em. Có
thể nói, mỗi quốc gia có luật áp dụng khác nhau đều có những quy định về độ
tuổi xác định là trẻ em khác nhau. Ngay trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga
1996 quy định, trẻ em được hiểu là người chưa thành niên và là người chưa
đủ 18 tuổi.
8
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới phê
chuẩn Công ước Quyền trẻ em năm 1989 của Liên Hợp Quốc. Pháp luật Việt
Nam một mặt thừa nhận, tôn trọng những nguyên tắc và chế định cơ bản của
Công ước Quyền trẻ em, mặt khác căn cứ vào các đặc điểm về hoàn cảnh,
điều kiện, môi trường sống và các đặc tính riêng biệt của con người Việt Nam
để qui định về độ tuổi của trẻ em cho phù hợp. Mọi văn bản pháp luật của
Việt Nam đều quy định người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên.
Đối với trẻ em, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam
qui định: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy khái niệm
"trẻ em" trong pháp luật Việt Nam không đồng nhất với khái niệm "người
chưa thành niên", trẻ em là người chưa thành niên, nhưng người chưa thành
niên có thể không phải là trẻ em.
Nói chung, trẻ em là người chưa phát triển về thể chất, tinh thần, hoặc
là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ. Họ là những
người đang trong quá trình trưởng thành nên chưa nhận thức đầy đủ về những
khái niệm thông thường trong cuộc sống hàng ngày, cũng như họ chưa có đầy
đủ khả năng thực hiện và khả năng tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi của
mình. Trên cơ sở giới hạn về độ tuổi, các văn bản pháp luật của Nhà nước ta
cũng giới hạn về quyền, nghĩa, vụ, trách nhiệm của trẻ em khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật hôn
nhân và gia đình; Bộ luật lao động; Bộ luật dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự; Bộ
luật hình sự; Bộ luật tố tụng hình sự và hệ thống các văn bản dưới luật như:
Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư v.v... đã quy định một cách đầy đủ các quyền
của trẻ em. Có thể chia quyền trẻ em thành 4 nhóm cơ bản phản ánh những
đặc trưng riêng về quyền con người là trẻ em một cách thiết thực, gắn với
cuộc sống và sự phát triển của trẻ em, đồng thời cũng thể hiện được sự quan
tâm đặc biệt của xã hội đối với trẻ em.
9
Thứ nhất, quyền được sống hay quyền sinh tồn, được chăm sóc nuôi
dưỡng; quyền được sống chung với cha mẹ; quyền có họ tên; quyền được
khai sinh; quyền được mang quốc tịch; quyền được cung cấp hoặc đáp ứng
những nhu cầu cần thiết để tồn tại như việc chăm sóc sức khỏe, mức sống
dinh dưỡng, quần áo, nhà ở…
Thứ hai, quyền được phát triển: đó là các quyền được học tập; nghỉ
ngơi, vui chơi, tham gia các hoạt động giải trí, các sinh hoạt văn hóa, nghệ
thuật, thể thao, du lịch; quyền được phát triển năng khiếu; quyền tự do bày tỏ
ý kiến, tiếp cận thông tin; quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo;
quyền được tham gia các hoạt động xã hội nhằm tạo điều kiện cho sự phát
triển tốt nhất về nhân cách và tài năng, rèn luyện trau dồi kinh nghiệm và các
kỹ năng xã hội chuẩn bị cho cuộc sống tương lai của trẻ em.
Thứ ba, quyền được Nhà nước và xã hội tôn trọng, quyền được pháp
luật bảo vệ: trẻ em có quyền được nhà nước, xã hội và mọi người tôn trọng
danh dự và nhân phẩm, được pháp luật bảo vệ trước mọi hành vi xâm phạm
đến tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm. Tuy nhiên vì "còn non nớt về
thể chất và trí tuệ", nên trẻ em không thể tự bảo vệ mình khỏi những hành vi
xâm hại nói chung và của tội phạm nói riêng, đặc biệt là những hành vi xâm
hại được thực hiện bởi người lớn. Do vậy, quyền được bảo vệ của trẻ em là
một đòi hỏi hết sức cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của trẻ em để chống
lại tội phạm xâm hại; sự bóc lột về lao động; sự cưỡng bức hay lạm dụng về tình
dục; sự ép buộc sử dụng trái phép chất ma túy, hoặc các hành vi xâm hại khác.
Trẻ em "cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt", vì vậy Bộ luật hình sự quy
định phạm tội đối với trẻ em đều là những tội danh cụ thể, những tình tiết
định khung hình phạt, hay tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và phải chịu
hình phạt nghiêm khắc. Sự bảo vệ của pháp luật không chỉ bó hẹp trong lĩnh
vực hình sự, mà còn được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan đến
các lĩnh vực khác như: Dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình...
10
Thứ tư, quyền được có tài sản, quyền thừa kế và được hưởng các chế
độ bảo hiểm: Tài sản riêng của trẻ em được tạo lập từ nguồn tài sản được thừa
kế, quà tặng và từ nguồn thu nhập bằng sức lao động của chính các em. Vì các
em là những người chưa thành niên cho nên tài sản của các em phải được cha
mẹ hoặc người đỡ đầu quản lý. Việc quản lý cũng như định đoạt tài sản riêng
của các em phải xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ. Trẻ em, không phân biệt gái
trai, con trong giá thú hay ngoài giá thú, con riêng hay con nuôi đều có quyền
được hưởng di sản thừa kế. Pháp luật thừa kế một mặt thừa nhận quyền định
đoạt của người để lại di chúc, nhưng nếu có sự phân biệt và đối xử trái pháp
luật hay đạo đức xã hội giữa các con, nhất là đối với trẻ em thì pháp luật có
thể điều chỉnh để đảm bảo quyền lợi của trẻ em. Trong điều kiện kinh tế của
nước ta hiện nay các chế độ bảo hiểm, phúc lợi xã hội nói chung chưa thế đáp
ứng được so với nhu cầu thực tế. Nhưng pháp luật cũng ghi nhận để tạo cơ sở
pháp lý cho các em được hưởng đầy đủ mọi chế độ bảo hiểm và phúc lợi xã
hội khi điều kiện cho phép.
Do trẻ em là người đang nằm trong quá trình phát triển ở giai đoạn
đầu của người chưa thành niên, họ chưa có đầy đủ khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi của mình trong mọi ứng xử và tình huống của cuộc
sống. Chính vì vậy, trẻ em là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ khi tham
gia các quan hệ pháp luật. Tùy theo mỗi ngành luật mà năng lực trách nhiệm
của trẻ em cũng được quy định khác nhau. Pháp luật dân sự Việt Nam quy
định người chưa đủ sáu tuổi không có hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của
người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện; người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có
quy định khác. Pháp luật hình sự quy định trẻ em chưa đủ 14 tuổi do thể chất
và trí tuệ chưa phát triển, chưa nhận thức và làm chủ được hết hành vi của
mình. Vì vậy, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi nguy
11
hiểm cho xã hội của mình; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng; Pháp luật hành chính quy định, trẻ em dưới 12
tuổi không có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính.
Tóm lại, khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam được coi là
người chưa đủ 16 tuổi, là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào
quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có
khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em từ mọi
hành vi xâm phạm.
1.1.2. Khái niệm "người bị hại là trẻ em" trong pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Người bị hại là trẻ em mang đầy đủ đặc điểm của người bị hại, nhưng
gắn liền với trẻ em. Điều 51, khoản 1 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
"Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra.". Như vậy, người bị hại phải là một con người cụ thể bị tội phạm gây
nên những thiệt hại nhất định về thể chất, tinh thần, tài sản. Khái niệm về
"người bị hại là trẻ em" trong khoa học tư pháp hình sự, một mặt dựa trên
khái niệm về trẻ em trong khoa học pháp lý, mặt khác bao gồm tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ của trẻ em khi tham gia quan hệ pháp luật hình sự. Mọi
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật theo quy định của Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện trực tiếp gây nên thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản cho người dưới 16 tuổi đều bị coi là phạm tội
đối với trẻ em và người bị hại trong trường hợp này được xác định là "người
bị hại là trẻ em". Bên cạnh việc nghiên cứu về nội dung các quyền và nghĩa
vụ của chủ thể, khoa học tư pháp hình sự cũng đi sâu nghiên cứu các điều
kiện, đặc điểm của trẻ em để có những chế định tố tụng hình sự (hình thức
tham gia quan hệ pháp luật tố tụng) cho phù hợp với địa vị pháp lý của người
bị hại là trẻ em. Mặc dù trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam không có
12
điều luật nào quy định cụ thể về "người bị hại là trẻ em", nhưng trên cơ sở
nghiên cứu các khái niệm về trẻ em và người bị hại trong khoa học tư pháp
hình sự, có thể hiểu "người bị hại là trẻ em" là người dưới 16 tuổi bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
Như vậy, đặc điểm chung nhất của người bị hại là trẻ em phải là người
bị hại có độ tuổi từ dưới 16 tuổi trở xuống. Nếu người bị hại có độ tuổi từ đủ
16 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi, thì được gọi là hành vi phạm tội xâm
phạm đối với người chưa thành niên. Ví dụ: Khoản 4, Điều 111 Bộ luật hình
sự quy định người nào hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Tương tự như trên, khoản 4 Điều
113 Bộ luật hình sự quy định người nào có hành vi cưỡng dâm người chưa
thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
Người bị hại là trẻ em dễ bị tổn thương do hành vi phạm tội gây ra, vì
thể chất chưa phát triển một cách đầy đủ. Thiệt hại xảy ra do hành vi phạm tội
gây nên đối với người bị hại là trẻ em thường lớn hơn so với người lớn. Khi
mới sinh ra, sự tồn tại của đứa trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của
môi trường xung quanh, chỉ cần một tác động nhỏ cũng có thể gây nên hậu
quả làm chết người. Trong quá trình phát triển, trẻ em không đủ khả năng tự
bảo vệ mình trước những hành vi như hành hạ, đánh đập, hiếp dâm của người
phạm tội.
Trong thực tế, người bị hại là trẻ em dễ trở thành nạn nhân của tội
phạm. Do nhận thức chưa phát triển một cách đầy đủ, trẻ em dễ bị người
phạm tội lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc...thậm chí trong một số trường hợp, trẻ em
vừa là người có hành vi vi phạm pháp luật vừa là nạn nhân của tội phạm.
Trong luật hình sự, những tội phạm gây nên thiệt hại cho người bị hại
là trẻ em có thể xảy ra ở nhiều tội phạm khác nhau, như một số tội phạm xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; một số tội xâm
13
phạm quyền tự do dân chủ của công dân; một số tội xâm phạm sở hữu; một số
tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; một số tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng. Tuy nhiên, do tính chất nguy hiểm của từng tội phạm
cụ thể và yêu cầu bảo vệ trẻ em, chính sách hình sự của Nhà nước ta thể hiện
trong pháp luật hình sự là nghiêm trị đối với bất kỳ người nào thực hiện hành vi
phạm tội đối với trẻ em. Chính vì vậy, trong kỹ thuật lập pháp, tình tiết "người bị
hại là trẻ em" có thể là tình tiết định tội hoặc có thể là tình tiết định khung tăng
nặng đối với tội phạm cụ thể được pháp luật hình sự quy định trong phần các
tội phạm. Đối với những tội phạm mà tình tiết người bị hại là trẻ em được coi
là tình tiết định tội, được quy định ở các tội sau đây trong Bộ luật hình sự:
1. Tội giết con mới đẻ (Điều 94 Bộ luật hình sự);
2. Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật hình sự);
3. Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 Bộ luật hình sự);
4. Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 Bộ luật hình sự);
5. Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116 Bộ luật hình sự);
6. Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120 Bộ luật
hình sự);
7. Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228 Bộ luật
hình sự).
Đối với những tội phạm mà tình tiết người bị hại là trẻ em được coi là
tình tiết định khung hình phạt được quy định ở rất nhiều tội khác nhau trong
Bộ luật hình sự. Tùy theo từng tội phạm cụ thể, tình tiết phạm tội đối với
người bị hại là trẻ em có thể được quy định tại khung tăng nặng, hoặc khung
đặc biệt tăng nặng. Ví dụ:
- Tội giết người (điểm c, khoản 1, Điều 93 Bộ luật hình sự);
- Tội đe dọa giết người (điểm c, khoản 2, Điều 103 Bộ luật hình sự);
14
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
(điểm d, khoản 1, Điều 104 Bộ luật hình sự);
- Tội hành hạ người khác (điểm a, khoản 2, Điều 110 Bộ luật hình sự);
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ
luật hình sự);
- Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp (điểm c, khoản 2, Điều 252 Bộ luật hình sự);
- Tội chứa mại dâm (điểm a khoản 3, Điều 254 Bộ luật hình sự);
- Tội môi giới mại dâm (điểm a khoản 3, Điều 255 Bộ luật hình sự);
- Tội mua dâm người chưa thành niên (điểm b khoản 2 và điểm a
khoản 3, Điều 256 Bộ luật hình sự); v.v...
Ngoài ra, ở những tội phạm khác mặc dù không quy định tại tình tiết
định khung tăng nặng ở từng tội danh cụ thể, nhưng nếu người phạm tội có
hành vi "phạm tội đối với trẻ em", thì được coi là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, được quy định tại điểm h, khoản 1
Điều 48 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới
hạn về công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đối với tội phạm có tình
tiết "người bị hại là trẻ em" là tình tiết định tội, nên việc phân tích những vấn
đề liên quan đến nhóm người bị hại này chỉ tập trung vào 7 tội danh cụ thể
như đã nêu trên.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em
1.2.1. Đối tượng chứng minh và phương tiện chứng minh trong vụ
án hình sự mà người bị hại là trẻ em
Khi giải quyết vụ án hình sự nói chung, các cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát, Tòa án đều phải đặt ra đối tượng chứng minh (hay còn gọi là những
15
vấn đề cần phải chứng minh). Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
được quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự với nội dung, khi điều tra,
truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
phải chứng minh: "Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi
phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm
về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra". Tuy nhiên, đối với những vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em
trong những tội phạm thuộc phạm trù nghiên cứu, ngoài những vấn đề cần
phải chứng minh nói trên, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng còn phải chứng minh thêm những tình tiết cụ thể căn cứ vào những đặc
điểm của tội phạm này.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất cần phải chứng minh để xác
định một vụ án hình sự có tội danh xâm hại trẻ em là trong vụ án hình sự đó,
người bị hại bắt buộc phải là trẻ em. Do vậy, cần phải có đủ chứng cứ, tài liệu
xác định người bị hại là trẻ em (chưa đủ 16 tuổi). Để có được kết luận chính
xác người bị hại là trẻ em, đòi hỏi:
Thứ nhất, phải có một hoặc nhiều loại giấy tờ có nội dung thống nhất
xác định người bị hại là trẻ em như: Giấy khai sinh; giấy chứng sinh (giấy
chứng nhận đẻ) tại cơ sở y tế; học bạ, sổ hộ khẩu hoặc bất kỳ giấy tờ nào có
căn cứ xác định tuổi của trẻ em chưa đủ 16 tuổi v.v…
Thứ hai, trong trường hợp không có các loại giấy tờ nêu trên, hoặc có
các giấy tờ, nhưng nội dung các giấy tờ này không thống nhất về ngày, tháng,
năm sinh, cần thiết phải trưng cầu giám định để xác định tuổi. Điểm d, khoản
3, Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải trưng cầu giám
định trong trường hợp cần phải xác định tuổi của người bị hại, nếu việc đó có
16
ý nghĩa đối với vụ án vì không có tài liệu khẳng định tuổi của họ, hoặc có sự
nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó.
Tuy nhiên, do quy định của cấu thành tội phạm cụ thể ở từng tội phạm
có sự khác nhau, nên ngoài việc xác định người bị hại là trẻ em, còn phải
chứng minh những vấn đề quan trọng khác được quy định trong cấu thành của
từng tội phạm cụ thể. Ví dụ: Đối với tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94
Bộ luật hình sự, thì người bị hại là đứa trẻ mới được đẻ ra. Theo hướng dẫn
của Tòa án nhân dân Tối cao trong Nghị quyết số 04/HĐTP, ngày 29 tháng 11
năm 1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xác định: "con
mới đẻ" là đứa trẻ mới được sinh ra từ ngày đầu tiên đến hết ngày thứ 7 (trong
vòng 7 ngày tuổi). Do vậy, trong vụ án này cần phải có giấy chứng sinh của
cơ sở y tế về số ngày tuổi của đứa trẻ. Theo nội dung của điều luật này thì
người phạm tội lại chính là người mẹ đẻ ra đứa trẻ. Việc người mẹ giết con
mới đẻ là do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh
khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu
quả đưa trẻ chết. Như vậy, đối tượng chứng minh quan trọng nhất trong vụ án
về tội giết con mới đẻ phải có những chứng cứ, tài liệu chứng minh được: đứa
trẻ bị chết trong vòng 7 ngày tuổi kể từ khi nó được đẻ ra; đứa trẻ bị chết do
chính người mẹ đẻ ra nó đã giết nó hoặc vứt bỏ nó, làm cho nó chết; động cơ
giết đứa trẻ là do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu, hoặc trong hoàn
cảnh khách quan đặc biệt. Nếu không có chứng cứ, tài liệu chứng minh được
những tình tiết nêu trên như: Hành vi do chính người mẹ đẻ giết đứa trẻ đã
quá 7 ngày tuổi, hoặc do người không đẻ ra giết đứa trẻ (mặc dù đứa trẻ này
trong vòng 7 ngày tuổi) thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội giết người (giết trẻ em) được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 93 Bộ
luật hình sự, chứ không phải tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94 Bộ luật
hình sự.
17
Đối với tội hiếp dâm trẻ em, quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.
Điều111 Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm được mô tả ở hành vi của
người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân, hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái
ý muốn của họ. Như vậy, tội hiếp dâm trẻ em thể hiện ở hành vi được mô tả
như trên, nhưng nạn nhân phải là trẻ em nữ (người chưa đủ 16 tuổi). Tuy
nhiên, khoản 4, Điều 112 Bộ luật hình sự có quy định, mọi trường hợp giao
cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em. Điều này có
nghĩa là, người phạm tội có thể không dùng vũ lực, hoặc không đe dọa dùng
vũ lực hoặc không lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được, hoặc không dùng
thủ đoạn khác mà vẫn giao cấu được với người chưa đủ 13 tuổi (được người
dưới 13 tuổi đồng ý) thì vẫn bị coi là phạm tội hiếp dâm. Chủ thể của tội
phạm này thường là nam giới đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, đối
tượng chứng minh quan trọng nhất trong vụ án về tội phạm này cần phải có
chứng cứ, tài liệu chứng minh được có hay không: hành vi hiếp dâm như đã
được mô tả ở trên đối với người bị hại là trẻ em chưa đủ 16 tuổi; hoặc là có
hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi, mặc dù không có tình tiết dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực.
Tương tự như trên, đối với tội cưỡng dâm trẻ em quy định tại Điều
114 Bộ luật hình sự. Theo quy định tại Điều 113 Bộ luật hình sự, tội cưỡng
dâm được mô tả ở hành vi của người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ
thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu. Do vậy, đối tượng chứng minh quan trọng nhất trong vụ án về tội
phạm này cần phải có chứng cứ, tài liệu chứng minh được người bị cưỡng
dâm là người phụ nữ bị lệ thuộc người phạm tội, hoặc người đang ở trong tình
trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Người bị hại là trẻ em nữ từ đủ 13
tuổi đến chưa đủ 16 tuổi, nếu không phải là người bị lệ thuộc người phạm tội,
hoặc là người không ở trong tình trạng quẫn bách mà có hành vi giao cấu, thì
người phạm tội sẽ phạm vào tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 Bộ luật hình
18
sự); trong trường hợp nếu người bị hại là trẻ em chưa đủ 13 tuổi, thì người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112
Bộ luật hình sự) chứ không phải tội cưỡng dâm trẻ em.
Đối với tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 Bộ luật hình sự), đối tượng
chứng minh quan trọng nhất trong vụ án về tội phạm này cần phải có chứng
cứ, tài liệu chứng minh được hành vi có quan hệ tình dục với người từ đủ 13
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi. Nếu quan hệ tình dục đối với người dưới
13 tuổi thì người đó phạm tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật hình sự).
Đối với tội dâm ô với trẻ em (Điều 116 Bộ luật hình sự), đối tượng chứng
minh quan trọng nhất trong vụ án về tội phạm này là những chứng cứ, tài liệu
chứng minh được có hành vi kích thích tình dục đối với trẻ em, nhưng không
có hành vi giao cấu. Nếu có hành vi giao cấu thì tùy theo từng tường hợp cụ
thể có thể phạm vào tội hiếp dâm, cưỡng dâm, hoặc giao cấu với trẻ em.
Đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều120 Bộ
luật hình sự), đối tượng cần phải chứng minh trong vụ án về tội phạm này là
những chứng cứ, tài liệu chứng minh được có hành vi mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em.
Đối với tội vi phạm qui định về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228 Bộ
luật hình sự), thì vấn đề cần phải chứng minh chính là những chứng cứ, tài
liệu chứng minh được người phạm tội đã có một trong các hành vi: buộc trẻ
em làm việc quá sức (mức tiêu hao năng lượng lớn hơn 4 kcal/phút, nhịp tim
120/phút); ở tư thế làm việc gò bó, thiếu dinh dưỡng; tiếp xác với hóa chất có
khả năng gây biến đổi gien, gây ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa tế bào, gây
ung thư, gây tác hại sinh sản lâu dài (gây thiểu năng tinh hoàn, thiểu năng
buồng trứng), gây bệnh nghề nghiệp và các tác hại khác; tiếp xúc với các yếu
tố gây bệnh truyền nhiễm; tiếp xúc với chất phóng xạ (kể cả các thiết bị phát
tia phóng xạ); tiếp xúc với điện từ ở mức quá giới hạn cho phép; trong môi
trường có độ rung ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép, nhiệt độ không khí trong
19
nhà xưởng trên 40độ C về mùa hè và trên 35 độ C về mùa đông, hoặc chịu
ảnh hưởng của bức xạ cao; nơi có áp suất không khí cao hơn hoặc thấp hơn
áp suất khí quyển; trong lòng đất; nơi cheo leo nguy hiểm; nơi làm việc
không phù hợp với thần kinh, tâm lý trẻ em; nơi gây ảnh hưởng xấu tới việc
hình thành nhân cách (Thông tư số 09/TT-LB ngày 13 tháng 4 năm 1995 của
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội – Y tế quy định các điều kiện lao động
có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên).
Ngoài những đối tượng chứng minh nêu trên, trong mỗi tội phạm
được quy định trong từng điều luật còn có các tình tiết định khung tăng nặng.
Do vậy, khi giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án phải chứng minh về những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị
cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không
có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác
định bằng: vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về
hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Như vậy, để có phương
tiện chứng minh (hay còn gọi là chứng cứ) cần phải thu thập chứng cứ. Việc
thu thập chứng cứ trong các vụ án hình sự trong phạm vi nghiên cứu mà
người bị hại là trẻ em có liên quan trực tiếp đến việc lấy lời khai của trẻ em.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định về lấy lời khai người bị hại (Điều 137
Bộ luật tố tụng hình sự) và áp dụng vào việc lấy lời khai người bị hại là trẻ
em, cần tuân thủ các trình tự và thủ tục sau đây: Trước khi tiến hành lấy lời
20
khai người bị hại là trẻ em phải có giấy triệu tập. Giấy triệu tập người bị hại là
trẻ em được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của họ; khi
lấy lời khai người bị hại là trẻ em phải mời cha, mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp khác, hoặc thày giáo, cô giáo của người đó tham dự; Điều tra viên, Kiểm
sát viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ
tham gia tố tụng; Biên bản lấy lời khai người bị hại là trẻ em phải có chữ ký
của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác, hoặc thày giáo, cô giáo của
người đó tham dự.
Điểm đáng chú ý khi lấy lời khai của người bị hại là trẻ em, chứng cứ
phản ánh trong lời khai cần được kiểm tra, đánh giá, đảm bảo tính xác thực và
phù hợp với thực tế khách quan. Do chứng cứ và nội dung những thông tin
trong vụ án hình sự có tội danh xâm hại trẻ em thường trong phạm vi hẹp và
rất hạn chế. Nội dung chứng cứ do người bị hại là trẻ em cung cấp phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố liên quan như độ tuổi, môi trường sống và trạng thái tinh
thần, sức khỏe của họ. Người bị hại là trẻ em có độ tuổi càng lớn, thì càng có
khả năng phản ánh thông tin về vụ án một cách cụ thể, logic hơn, thông qua
việc trình bày diễn đạt về diễn biến các tình tiết vụ án. Người bị hại là trẻ em
dưới 6 tuổi, tư duy vẫn dựa vào trực giác toàn bộ, chưa biết phân tích, diễn tả
chỉ chú ý vào chi tiết hấp dẫn, không phân biệt thực hư "thấy gì nói đấy". Vì
vậy, lời khai của họ phản ánh những tình tiết liên quan đến vụ án một cách rời
rạc, không liên tục và logic. Người bị hại là trẻ em từ 7 tuổi đến dưới 14 tuổi
tư duy bắt đầu tách khỏi cảm giác trực quan, biết suy luận. Vì vậy lời khai của
họ đã có sự sắp xếp liên tục và logic hơn về thời gian và diễn biến các tình tiết
của vụ án. Người bị hại là trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nhận thức ngày
càng phát triển, vì vậy lời khai của họ đã có sự sắp đặt, có chủ định, thậm chí
có cả việc hư cấu.
Khoản 3, Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, những trường
hợp phải bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định gồm:
21
Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn
hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can,
bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình
sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng, hoặc người bị
hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai
báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; tuổi của bị can, bị
cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có
tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực
của những tài liệu đó; chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền
giả".
Như vậy, đối với các vụ án hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm
trẻ em, giao cấu với trẻ em, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án bắt buộc
phải đưa người bị hại là trẻ em đi trưng cầu giám định để có kết luận giám
định nhằm xác định mức độ thương tích, hoặc mức độ tổn hại về sức khỏe
trên thân thể của trẻ em. Trong trường hợp không có tài liệu xác thực để xác
định đúng tuổi của người bị hại, thì Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án
cũng phải bắt buộc đưa người bị hại là trẻ em đi giám định (như đã nêu ở
phần trên). Riêng đối với vụ án hình sự về các tội dâm ô với trẻ em, tội mua
bán, tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, hoặc tội vi phạm qui định về sử
dụng lao động trẻ em thì tùy theo nhưng trường hợp cụ thể, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án quyết định có thể trưng cầu giám định hay không. Ví
dụ, khi cần xác định ADN của người bị hại là trẻ em để tìm cha, mẹ v.v...
Việc áp dụng biện pháp điều tra nào để thu thập chứng cứ vụ án mà người bị
hại là trẻ em tùy thuộc vào diễn biến của từng vụ án cụ thể. Tuy nhiên, Cơ
quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án cần tiến hành một cách thận trọng để
tránh gây nên những ảnh hưởng về tâm lý và tác động xấu đến quá trình hình
thành nhân cách đối với người bị hại là trẻ em.
22
1.2.2. Người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự mà người bị hại
là trẻ em
Người bị hại là trẻ em khi tham gia tố tụng hình sự không nhất thiết
phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu như của người bị hại đã thành niên theo quy
định của pháp luật. Trong giai đoạn điều tra, việc tham gia tố tụng của người
bị hại là bắt buộc, nhưng việc tham gia tố tụng của người bị hại trong giai
đoạn quyết định việc truy tố và giai đoạn xét xử chỉ mang tính bắt buộc trong
những trường hợp cần thiết. Khi tham gia tố tụng người bị hại có quyền và
trách nhiệm cung cấp, phản ánh những thông tin về tội phạm (trong chứng
minh tội phạm và làm rõ sự thật khách quan của vụ án); xác định mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra (vấn đề yêu cầu bồi thường); đưa ra quan điểm
của mình trong việc xử lý người phạm tội (đề nghị tăng nặng hay giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo). Do trẻ em là người chưa có đầy đủ nhận thức
và năng lực hành vi, nên không thể tự mình đưa ra các yêu cầu về bồi thường
thiệt hại cũng như những quan điểm của mình trong việc xử lý người phạm
tội. Thông thường sự tham gia tố tụng của người bị hại là trẻ em chỉ chủ yếu
cung cấp, phản ánh những thông tin về tội phạm giúp cơ quan tiến hành tố
tụng chứng minh tội phạm và làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Trẻ em
càng lớn tuổi thì việc đáp ứng các yêu cầu trên càng đầy đủ hơn. Vì vậy,
người bị hại là trẻ em khi tham gia tố tụng bắt buộc phải có cha, mẹ, hoặc
người đại diện hợp pháp khác của họ cùng tham gia.
Cha, mẹ của người bị hại là trẻ em ở đây được hiểu bao gồm cả cha
mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng. Cha
mẹ của người bị hại là trẻ em tham gia tố tụng với tư cách là là người đại diện
hợp pháp của người bị hại trong vụ án hình sự.
Người đại diện hợp pháp khác là người đại diện theo quy định của
pháp luật, hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Trong
23
trường hợp đặc biệt (không có cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, bố dượng, mẹ kế của
người bị hại là trẻ em tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện), để đảm
bảo cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của trẻ em, pháp luật quy định
người đại diện hợp pháp khác của trẻ em là người giám hộ đối với trẻ em
được giám hộ. Giám hộ là một chế định của pháp luật nhằm mục đích đảm
bảo việc trông nom, chăm sóc và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên,
người không có năng lực hành vi. Bộ luật dân sự quy định người có đủ các
điều kiện sau đây có thể là người giám hộ: Đủ 18 tuổi trở lên; có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ; có điều kiện cần thiết đảm bảo việc giám hộ. Người
giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha mẹ,
không xác định được cha mẹ hoặc cả cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ
hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc giáo dục người
chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu được xác định như sau: Trong
trường hợp anh, chị, em ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc chị cả
đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ của em chưa thành niên;
nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm giám hộ thì người tiếp theo
đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ; trong trường hợp không
có anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người
giám hộ thì ông, bà nội, ông, bà ngoại có đủ điều kiện phải làm người giám
hộ.
Cha, mẹ, hoặc người đại diện hợp pháp khác của người bị hại là trẻ
em được tham gia tố tụng, cũng như có các quyền và nghĩa vụ theo luật định
trong tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
bản án hình sự và chỉ chấm dứt vào đúng thời điểm khi người bị hại là trẻ em
đó đã đủ 18 tuổi.
Ngoài ra, Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, khi tham gia tố
tụng người bị hại có quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi của đương sự bảo vệ
24
quyền lợi cho mình. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể là luật sư,
bào chữa viên nhân dân, người khác được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp
nhận. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng ngay từ
khi khởi tố bị can. Đối với người bị hại là trẻ em, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của
người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Khi tham gia tố tụng, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự của người bị hại là trẻ em có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; đề
nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tham gia phiên tòa;
trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị hại là trẻ em; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa
án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Trong trường
hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105
của Bộ luật này, thì người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại
phiên tòa. Nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp của người bị hại là trẻ em
bao gồm: Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà có những người tham
gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật để giải quyết vụ án như người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch v.v…
1.2.3. Người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự mà người bị hại
là trẻ em
25
Trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người
có thẩm quyền tiến hành các hành vi tố tụng trong một giai đoạn tố tụng gọi là
người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng theo quy định tại khoản 2,
Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án; Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
Tiêu chuẩn của những người tiến hành tố tụng được quy định rất cụ
thể trong Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Kiểm sát viên; Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của những người tiến hành tố tụng được quy định rất cụ thể tại các điều từ
Điều 34, đến Điều 47 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong các tiêu chuẩn của những
người tiến hành tố tụng không có tiêu chuẩn cụ thể nào liên quan đến giải
quyết vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em. Tuy nhiên, tại Điều 302
BLTTHS có quy định về điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự mà bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, nhưng người tiến hành tố tụng, mà trực tiếp
là: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người
chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý
học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
phạm của người chưa thành niên.
Do yêu cầu bảo vệ quyền lợi của trẻ em với tư cách là người bị hại
trong vụ án hình sự và để có thể có những thuận lợi trong việc thu thập chứng
cứ chứng minh làm rõ sự thật khách quan vụ án, chúng tôi cho rằng: Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng trong vụ án mà người bị hại
là trẻ em cũng phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa
học giáo dục liên quan đến trẻ em. Mặc dù điều luật không quy định áp dụng
với người bị hại là chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng, nhưng trên
cơ sở nguyên tắc bình đẳng, để đảm bảo các quyền của mọi trẻ em khi tham
gia quan hệ pháp luật hình sự, khi thực hiện các hoạt động tố tụng trong vụ án
hình sự có người bị hại là trẻ em, người tiến hành tố tụng cần thiết cũng phải