Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.74 KB, 89 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế chung của thế giới hiện nay là chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề
nguồn nhân lực ngày càng giữ vị trí trung tâm đối với chiến lợc phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia. Con ngời đang đợc coi là động lực đồng thời là
mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát triển của các quốc gia.
Phụ nữ là ngời đảm nhiệm vai trò kép: vừa là lực lợng lao động cơ
bản của xã hội, vừa có trách nhiệm trực tiếp tái sản xuất ra con ngời. Quan
tâm đến sự phát triển của phụ nữ nói chung, khai thác và bồi dỡng nguồn nhân
lực nữ nói riêng không chỉ là vấn đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội
mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh hởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trởng
kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong chiến lợc chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ những
nhu cầu khách quan và quan điểm mácxít về vai trò của phụ nữ, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng Việt
Nam. Đảng và Nhà nớc đã có nhiều biện pháp và chính sách sử dụng nguồn
nhân lực nữ và đã huy động đợc sức mạnh to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hớng chiến lợc của Việt Nam hiện nay là
đổi mới và phát triển. Những cơ hội và thử thách đặt ra đã và đang đòi hỏi hơn
bao giờ hết mọi tiềm năng quốc gia phải đợc khai thác hợp lý, trong đó có
nguồn nhân lực nữ.
So với cả nớc, Hà Nội là một trong những địa phơng có tốc độ tăng trởng cao với mức tăng GDP bình quân trên 10%/năm. Đóng góp cho sự phát
triển chung của Thủ đô không thể không kể đến vai trò quan trọng của phụ nữ
- chiếm trên 49% dân số và lực lợng lao động toàn Thành phố. Chủ trơng phát
triển nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN đã tạo cơ hội cho sự phát triển
của phụ nữ, song, cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho phụ nữ trong
việc tiếp cận với các cơ hội về việc làm, giáo dục - đào tạo, trong hởng thụ các
thành quả của sự phát triển. Trong khi đó, sự phát triển kinh tế - xã hội hiện
nay ở Thủ đô đang yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực nữ về trình


độ chuyên môn, thể lực, kỹ năng lao động...
Vấn đề đặt ra là phải biết khai thác, bồi dỡng và phát huy tiềm năng của
nguồn nhân lực nữ tạo động lực cho sự phát triển của Thủ đô. Do đó, việc


2
nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ, tìm giải pháp để bồi dỡng và
phát huy nguồn lực này là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Vì
thế, tôi chọn vấn đề Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa
học Triết học.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa chiến lợc quan trọng của nguồn nhân lực đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nên đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này. Tiêu biểu nh: Con ngời và nguồn lực con ngời
trong phát triển của Viện Thông tin Khoa học xã hội (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995) Công trình KHCN cấp nhà nớc KX - 07 Con ngời Việt
Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội năm 1995,
Phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nớc ta của PTS
Trần Văn Tùng và Lê ái Lâm ( Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996),
Nghiên cứu con ngời và nguồn nhân lực đi vào CNH - HĐH của Phạm Minh
Hạc (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở
Việt Nam 15 năm đổi mới của Nolwen Henaff và Jean - Yves Martin
Luận án tiến sĩ: Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH
của Nguyễn Thanh, 2001; Luận án phó tiến sĩ: Sử dụng nguồn nhân lực trong
quá trình CNH - HĐH ở nớc ta của Trần Kim Hải, 1999
Nguồn nhân lực nữ là bộ phận quan trọng trong chiến lợc xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực, vì thế đã thu hút đợc sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ. Tiêu
biểu nh: GS triết học Lê Thi với Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập nâng cao

địa vị ngời phụ nữ hiện nay, Vài suy nghĩ về phơng pháp luận tiếp cận việc
nghiên cứu ngời phụ nữ và vai trò của giáo dục gia đình trong sự phát triển
nguồn nhân lực năm 1993, Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng với
Phụ nữ, giới và phát triển năm 2000
Trớc những yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân
lực nữ trong phát triển kinh tế - xã hội, từ phía các cơ quan hoạch định chính
sách cũng đã có một số hội thảo tập trung bàn về vấn đề này nh: Vai trò giới
tính và nguồn nhân lực trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội do Uỷ ban
Các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức năm 1995, hội thảo Đa vấn đề giới


3
vào phát triển - Thông qua sự bình đẳng giới về quyền hạn, nguồn lực và tiếng
nói do Ngân hàng Tái thiết và phát triển Quốc tế/ Ngân hàng Thế giới tổ chức
tại Hà Nội năm 2000.
Một số công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân liên quan đến
nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội nh: Sự chuyển biến vai trò của phụ nữ nội thành
Hà Nội dới tác động của công nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trờng của
Đặng Kim Nhung thuộc một công trình nghiên cứu hợp tác giữa Việt Nam và Hà
Lan năm 1996 - 1997; Khảo sát thực trạng giới tại Hà Nội của Ban Vì sự tiến bộ
của phụ nữ Hà nội năm 2000, Phát huy nguồn lao động nữ ở ngoại thành Hà
Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nớc ta hiện nay của Ban
nữ công Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2002; Luận văn tiến sĩ
Tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nớc của Trần Thị Thu năm 2002...
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí đề cập
đến vấn đề nguồn lực phụ nữ nh Quan tâm bồi dỡng nguồn nhân lực nữ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc của PGS Bùi Thị Kim Quỳ
(Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2, 1996) Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác
định nghề đào tạo dự phòng cho phụ nữ của Tiến sĩ Nguyễn Tín Nhiệm và

Tiến sĩ Phan Thị Thanh (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4,2002), Việc làm
của phụ nữ Hà Nội của Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh (Tạp chí Khoa học về phụ
nữ, 2/2003)
Các công trình nghiên cứu, các bài viết đã đề cập những khía cạnh khác
nhau về nguồn nhân lực nữ. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về nguồn
nhân lực nữ ở Hà Nội còn rất phân tán, thiếu những chuyên khảo về thực trạng
nguồn nhân lực nữ một cách toàn diện, hệ thống để từ đó đề xuất các giải pháp
phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và trách
nhiệm một cách công bằng giữa hai giới. Vì vậy, tác giả mong muốn làm sáng
tỏ hơn vấn đề này trong luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc
phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay, luận văn đa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay.
Để đạt mục đích đó, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:


4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực nữ, những
nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ .
- Xác định tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và
những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ trong phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực
nữ ở Hà Nội hiện nay.
- Đa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở
Hà Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội từ khi Đảng ta chủ trơng đổi mới đất nớc, trong

đó tập trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực nữ và những khía cạnh chủ
yếu trong việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Hà Nội hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con ngời, nguồn
lực con ngời, quan điểm về vai trò của phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Phơng pháp thực hiện đề tài là các nguyên tắc phơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phân tích những
vấn đề thực tiễn xã hội, chủ yếu sử dụng phơng pháp kết hợp lịch sử và lôgíc,
phân tích - tổng hợp, trừu tợng - cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phơng
pháp thống kê, thu thập xử lý thông tin và áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu
bình đẳng giới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực
nữ ở Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp đặc thù nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ ở
Hà Nội hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn lực phụ
nữ, bổ sung thêm những cơ sở khoa học có thể tham khảo trong hoạch định
chiến lợc tổng thể và chính sách cụ thể liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực
nữ ở Hà Nội.
Dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về
nguồn nhân lực nữ trong các trờng, các cơ quan chức năng ở Thành phố Hà Nội.


5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.

Chơng 1
Nguồn NHân lực nữ với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở việt nam hiện nay
1.1. Nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến
việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam hiện nay

1.1.1. Quan niệm mácxit về nguồn lực con ngời
1.1.1.1. Quan niệm mácxit về bản chất con ngời
Những thành tựu trong nhận thức về con ngời mà loài ngời đạt đợc ở
thời đại ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân
loại qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng
lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin có tính chất quyết định, tạo ra bớc ngoặt cách
mạng trong lịch sử t tởng của nhân loại.
Ngợc dòng lịch sử nghiên cứu về con ngời có thể nhận thấy: thời cổ đại,
do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp
kém, khoa học cha phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến
diện, mang nặng tính chất thần bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là
nô tỳ" của thần học, các quan niệm về con ngời mất hết ý nghĩa tích cực của
nó. Con ngời đợc hiểu nh là sự sáng tạo của Thợng đế, không có khả năng làm
chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục hng và Khai sáng, phơng thức sản xuất
t bản chủ nghĩa đợc xác lập và dần dần thắng thế ở châu Âu đã mở ra một thời
kỳ mới trong việc khám phá bản chất con ngời. Quan niệm về con ngời thờng
gắn với vai trò của nó trong xã hội, hớng tới giải phóng con ngời khỏi thần
học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên do ảnh hởng
của chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con ngời chỉ phản ánh
những khía cạnh hạn hẹp, thiếu tính hệ thống.
Nh vậy, nghiên cứu những quan niệm về con ngời trớc khi chủ nghĩa
Mác ra đời, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Các nhà triết học trớc Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích
con ngời từ nhiều phơng diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhng cuối

cùng vẫn cha nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của con ngời trong sự phát


6
triển của xã hội, cha đề ra đợc những phơng hớng, biện pháp nhằm giải phóng
hoàn toàn con ngời.
- Phần lớn các học thuyết triết học trớc Mác, khi quan niệm về con ngời
thờng chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc
bản thể vật chất (chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy đợc mối quan hệ biện
chứng giữa những yếu tố tự nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con
ngời.
- Khi xem xét con ngời trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết
học trớc Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con ngời, coi con ngời
nh một thực thể thụ động trớc tác động của hoàn cảnh.
Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý
luận trớc đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con ngời
hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con ngời. Trong quan
niệm của triết học mácxít con ngời là một thực thể trong sự thống nhất biện
chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con ngời sinh ra từ tự nhiên, tuân theo
các quy luật tự nhiên, đồng thời con ngời tồn tại và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con ngời đợc C.Mác viết
trong Luận cơng về Phoi-ơ-bắc: Bản chất con ngời không phải là một cái gì
trừu tợng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội" [26, tr.11] . Với quan niệm đó, C.
Mác chỉ ra rằng bản chất con ngời không phải là trừu tợng mà là hiện thực,
không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con ngời là một thực thể thống nhất giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực
của con ngời. ở đây, cá nhân đợc hiểu với t cách là những cá nhân sống, là ngời sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào
sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá thể là sự
tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các quan

hệ đó. Thông qua hoạt động thực tiễn, con ngời làm biến đổi tự nhiên, xã hội,
biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài ngời. Vạch
ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con ngời,
quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học
mácxit.
Kế thừa những t tởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học phơng Đông và vốn văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con ngời.


7
Theo Hồ Chí Minh chữ ngời, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nớc. Rộng nữa là cả loài ngời" [30, tr.644] . Với
ý nghĩa đó, khái niệm con ngời mang trong nó bản chất xã hội, là con ngời xã
hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con ngời hoạt động và
sinh sống. Hồ Chí Minh thờng đặt mỗi cá nhân con ngời trong mối quan hệ ba
chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con ngời là một
thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con ngời đợc làm
chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con ngời là một bộ phận
không thể tách rời. Con ngời trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể
thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu
trúc bao gồm: sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần...
Ngời cho con ngời là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dỡng và phát triển con ngời,
coi con ngời là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định
thành công của cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con ngời chính là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con ngời với t cách là nguồn sáng
tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử.
1.1.1.2. Quan niệm về nguồn lực con ngời
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân
lực là sức của con ngời bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức đợc
vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn,

hoài bão của bản thân ngời lao động hớng tới một mục đích xác định (tâm
lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện
chứng với nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn nhân lực đợc hiểu là nơi
phát sinh, nơi cung cấp sức của con ngời trên đầy đủ các phơng diện cho lao
động sản xuất.
Nguồn lực con ngời" hay nguồn nhân lực" là khái niệm đợc hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con ngời với t cách là một nguồn lực, là động
lực của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nớc gần đây
đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con ngời hiện có thực tế
hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng [4, tr.3]
Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con ngời khó khăn phức tạp hơn nhiều so


8
với các nguồn lực khác bởi con ngời là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy
cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội
diễn ra trong môi trờng sống của họ.
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn ngời
(thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn lực
con ngời đợc coi nh là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác nh tài
chính, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên...
ở nớc ta, một số nhà khoa học tham gia chơng trình khoa học - công nghệ
cấp nhà nớc mang mã số KX - 07 cho rằng nguồn lực con ngời đợc hiểu là dân
số và chất lợng con ngời, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc. GS. Phạm Minh Hạc cho
rằng Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nớc hay một
địa phơng, tức là nguồn lao động đợc chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn
sàng tham gia một công việc lao động nào đó [16, tr.269].

TS Nguyễn Thanh xác định nguồn nhân lực đó là tổng thể sức dự trữ, những
tiềm năng, những lực lợng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con ngời
trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội [45, tr.70]
Nh vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con ngời không chỉ đơn
thuần là lực lợng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể
chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia đợc
đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm nguồn nhân lực" (Human Resoures) đợc hiểu nh khái niệm
nguồn lực con ngời". Khi đợc sử dụng nh một khái niệm công cụ để điều hành,
thực thi chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận
dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những ngời ngoài độ
tuổi lao động có tham gia lao động - hay còn đợc gọi là nguồn lao động. Bộ
phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những ngời từ độ tuổi lao động trở lên có
khả năng và nhu cầu lao động đợc gọi là lực lợng lao động.
Nh vậy, xem xét dới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm
khác nhau về nguồn nhân lực nhng những khái niệm này đều thống nhất nội
dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Theo
chúng tôi, con ngời với t cách là yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, giữ vị trí
hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển thì không


9
thể chỉ đợc xem xét đơn thuần ở góc độ số lợng hay chất lợng mà là sự tổng
hợp của cả số lợng và chất lợng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động mà là các thế hệ con ngời với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo
tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng nguồn nhân lực là tổng thể số lợng và chất
lợng con ngời với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm
chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con ngời và xã hội
đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và

tiến bộ xã hội.
Khái niệm nguồn lực con ngời bao quát đợc những mặt, những khía
cạnh, phơng diện cơ bản của nguồn lực con ngời, khắc phục đợc những hạn
chế trong nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa các mặt số lợng và chất lợng con ngời với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và tâm lực, khẳng
định nguồn lực con ngời vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi hoạt động
kinh tế và quan hệ xã hội. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến con ngời đã,
đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ở đây, cần lu ý
đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, con ngời không tồn tại một cách biệt lập, mà liên kết chặt chẽ
với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể ngời trong hoạt động. Năng
lực sức mạnh này bắt nguồn trớc hết từ những phẩm chất vốn có bên trong của
mỗi con ngời và nó đợc nhân lên gấp bội trong tổng hợp những con ngời cụ thể.
Do đó, khi đề cập đến nguồn lực con ngời về phơng diện xã hội, chúng ta không
thể không bàn đến số lợng và chất lợng của nó. Trong đó:
+ Số lợng nguồn nhân lực chính là lực lợng lao động và khả năng cung
cấp lực lợng lao động đợc xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới
tính, sự phân bố dân c theo khu vực và lãnh thổ.
+ Chất lợng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn lực
con ngời với t cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của
mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lợng nguồn nhân lực là khái
niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trng về trạng thái trí lực, thể lực, phong
cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực.
Nh vậy, về phơng diện xã hội, nói đến nguồn nhân lực là nói tới hàng
loạt các vấn đề về số lợng dân c, sự phát triển dân số, lực lợng lao động, vấn


10
đề phân bố và sử dụng lao động, vấn đề tổ chức quản lý vĩ mô đối với nguồn
nhân lực...
Thứ hai, nói tới nguồn lực con ngời phải nói tới phơng diện cá thể - chủ

thể của nó. Bởi vì, con ngời đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi
phối toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hớng nó tới mục tiêu đã đợc
chọn. Phơng diện này đợc hiểu nh là những yếu tố tạo thành cơ sở hoạt động
của cá nhân và cơ sở để phát triển một con ngời với t cách là một cá nhân. Đó
là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực và những phẩm chất khác của nhân cách.
+ Trí lực là toàn bộ năng lực của trí tuệ, tinh thần, quyết định phần lớn
khả năng lao động sáng tạo của con ngời. Trí tuệ đợc xem là yếu tố quan trọng
hàng đầu của nguồn lực con ngời bởi tất cả những gì thúc đẩy con ngời hành
động tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ" [27, tr.409]. Khai thác và phát
huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy
nguồn lực con ngời.
+ Thể lực là trạng thái sức khoẻ của con ngời, là điều kiện đảm bảo cho
con ngời phát triển, trởng thành một cách bình thờng, hoặc có thể đáp ứng đợc
những đòi hỏi về sự hao phí sức lực, thần kinh, cơ bắp trong lao động. Trí lực
ngày càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực, song,
sức mạnh trí tuệ của con ngời chỉ có thể phát huy đợc lợi thế trên nền thể lực
khoẻ mạnh. Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để
nâng cao chất lợng nguồn nhân lực, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm
năng con ngời.
Nói tới nguồn lực con ngời, không thể bỏ qua phẩm chất đạo đức, nhân
cách con ngời. Ngày nay, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài trí lực
và thể lực, còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con ngời. Bởi vì,
trí lực cũng nh thể lực chỉ có thể tạo ra sức mạnh thúc đẩy tiến bộ xã hội khi
chủ nhân của nó là những con ngời có phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt.
Trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đem lại cho con ngời khả năng thực
hiện tốt các chức năng xã hội, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt
động thực tiễn xã hội. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc quan tâm
nâng cao mặt bằng và đỉnh cao dân trí, tới việc bồi dỡng và nâng cao sức khoẻ
cho mỗi con ngời, cho cộng đồng xã hội, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc
xây dựng đạo đức, nhân cách, lý tởng cho con ngời.



11
Cấu thành nguồn lực con ngời xét từ phơng diện cá thể, đó là một tổng
hợp các năng lực và giá trị về trí lực, thể lực và những phẩm chất tinh thần. Vì
vậy, muốn phát huy nguồn nhân lực trớc hết phải phát triển cá nhân con ngời,
tức là phải đầu t chăm lo cho sự phát triển về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, tinh
thần của từng con ngời.
Thứ ba, vai trò quyết định của nguồn lực con ngời so với các nguồn lực
khác trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đợc thể hiện ở những điểm sau:
+ Các nguồn lực khác (vốn, tài nguyên thiên nhiên...) tự nó tồn tại dới
dạng tiềm năng, chúng chỉ trở thành động lực của sự phát triển khi kết hợp với
nguồn lực con ngời, trở thành khách thể chịu sự cải tạo, khai thác và sử dụng
của con ngời.
+ Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có
nguồn nhân lực với cốt lõi là trí tuệ mới là nguồn lực có tiềm năng vô hạn,
biểu hiện ở chỗ trí tuệ con ngời không chỉ tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn
tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con ngời nếu biết chăm lo,
bồi dỡng và khai thác hợp lý.
+ Kinh nghiệm của nhiều nớc đã cho thấy thành tựu phát triển kinh tế xã hội phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con ngời. Nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con ngời và đầu t
cho chiến lợc con ngời, đặt lên hàng đầu chất lợng nguồn lao động, coi giáo
dục - đào tạo là chìa khoá của sự tăng trởng đã đem lại thành công cho các nớc công nghiệp mới Đông á. Hàn Quốc từ một trong những nớc nghèo nhất
thế giới trở thành một trong những quốc gia công nghiệp mới hùng mạnh nhất
về kinh tế của thế giới thứ ba, vợt xa An-giê-ri - quốc gia có cùng điểm xuất
phát về trình độ cách đây 40 năm. Một nớc Nhật đạt đợc những bớc tiến vợt
bậc cũng do biết đặt vấn đề con ngời vào trung tâm của sự phát triển bằng các
triết lý nhân sự mang tính dân tộc, biết sử dụng nguồn lực con ngời thông qua
các thành tựu khoa học công nghệ và đã nhanh chóng bứt lên trở thành cờng
quốc kinh tế thứ hai trên thế giới.

Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
đã khẳng định: lịch sử phát triển chân chính của xã hội là lịch sử phát triển
con ngời, do con ngời và vì con ngời. Tiến trình phát triển lịch sử đợc quyết
định bởi trình độ phát triển của lực lợng sản xuất trong đó ngời lao động ngày
càng trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Nhận thức sâu sắc về vai trò của


12
con ngời trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con ngời vào vị
trí trung tâm, thống nhất tăng trởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhiều lần khẳng định mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con ngời, do con ngời. Vì vậy, chiến lợc ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, xét về thực chất là chiến lợc con ngời. Nâng cao
dân trí, bồi dỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con ngời Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất nớc" [12, tr.21]. Đại hội
toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác định nguồn lực
con ngời - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh tế nhanh và bền
vững ... [13, tr.112]. Tạo bớc chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực đợc
coi là một trong ba khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế
- xã hội.
Từ vai trò của nguồn lực con ngời đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
vấn đề tất yếu đặt ra là phải phát huy đợc nguồn lực con ngời.
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt toả tác dụng và tiếp tục nảy nở
thêm. Theo đó phát huy nguồn nhân lực chính là nâng cao vai trò của nguồn
lực con ngời trong sự phát triển kinh tế - xã hội, qua đó làm gia tăng giá trị
của con ngời.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, cần phân biệt khái niệm nguồn lực con ngời" với nhân tố con ngời". Trớc hết, nguồn lực con ngời" và nhân tố con ngời" có cùng nghĩa nh nhau khi đặt trong quan hệ với các nhân tố khác, nguồn
lực khác (nguồn lực vật chất) ở chỗ chúng đều biểu hiện những đặc trng, thuộc
tính cơ bản của con ngời nh: là nhân tố hoạt động, sống, khả năng tái sinh,

tiềm năng vô tận của trí tuệ, tinh thần con ngời. Do đó, phát huy nhân tố con
ngời có thể hiểu nh là phát huy nguồn lực con ngời, khi con ngời trở thành
một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra động lực phát triển của
một quá trình xã hội.
Điểm khác nhau giữa hai khái niệm này: nguồn lực con ngời" đợc coi
là khái niệm công cụ cơ bản để xây dựng chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội,
theo quan điểm hệ thống phải đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực
khác. Nó biểu hiện khả năng và phẩm chất của lực lợng lao động cả về mặt số
lợng và chất lợng. Còn nhân tố con ngời" là cái cốt lõi, đặc trng xã hội, giữ vị


13
trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực con ngời, phản ánh bản chất xã
hội, mặt chất lợng của nguồn lực con ngời, nhấn mạnh tính chất tích cực, tự
giác, sáng tạo của nguồn lực con ngời trong quan hệ với thể lực, kinh nghiệm
thói quen của chủ thể. Thực chất của việc phát huy nhân tố con ngời là hớng
mỗi cá nhân, đề cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của cá nhân hoặc đặt con
ngời vào đúng vị trí của nó để con ngời có cơ hội bộc lộ mình cống hiến cho
sự phát triển. Nhng chúng ta chỉ hiểu đợc khái niệm nhân tố con ngời khi đặt
nó trong hoạt động thực tiễn mà hoạt động bản thân là hoạt động lao động. Vì
vậy, khi nhấn mạnh hệ thống các chỉ số về chất lợng lao động thì khái niệm
nguồn lực con ngời là sự cụ thể hoá của khái niệm nhân tố con ngời. Tuy
nhiên, phát huy nguồn lực con ngời" xét theo quan điểm đầu t cho sự phát
triển kinh tế - xã hội bao hàm nghĩa rộng hơn phát huy nhân tố con ngời".
Phát huy nguồn lực con ngời thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn nhân
lực, sử dụng nguồn nhân lực và nuôi dỡng môi trờng cho nguồn nhân lực [58,
tr.287]. Điều đó liên quan đến hàng loạt vấn đề từ việc nuôi dỡng, giáo dục đào tạo đến việc tổ chức khai thác, sử dụng nguồn nhân lực; từ việc phát huy
tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân đến việc tạo môi trờng xã
hội thuận lợi cho sự cống hiến và hởng thụ của con ngời; từ việc nâng cao
năng lực và phẩm chất của ngời lao động với t cách là chủ thể nhận thức và

hoạt động thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đến khâu khai
thác hợp lý, có hiệu quả trí lực, thể lực, tâm lực của họ với t cách là khách thể
của sự khai thác; từ việc sử dụng con ngời với t cách là một nguồn lực, động
lực cho sự phát triển đến việc chăm lo cho con ngời với t cách là mục tiêu của
sự phát triển kinh tế - xã hội... Những vấn đề trên nếu thực hiện tốt sẽ phát huy
đợc vai trò của nguồn lực con ngời trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực nữ và những nhân tố tác động
đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ
1.1.2.1. Quan niệm về nguồn nhân lực nữ
Nếu con ngời là nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy.
Hiểu theo nghĩa rộng: nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng hoà các tiêu chí
của bộ phận dân số nữ đang có khả năng tham gia vào quá trình lao động xã


14
hội và các thế hệ phụ nữ nối tiếp sẽ phục vụ xã hội. Nói cách khác, nguồn
nhân lực nữ đợc hiểu không chỉ đơn thuần là lực lợng lao động nữ đã có và sẽ
có, mà còn bao gồm sức mạnh trí tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ
trong một cộng đồng, quốc gia đợc đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng
vào quá trình phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực nữ - theo nghĩa hẹp - với t cách là lực lợng lao động
của xã hội, bao gồm nhóm phụ nữ đến tuổi lao động trở lên có khả năng lao
động. Pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi lao động đối với nữ trong khoảng
nhỏ hơn của độ tuổi lao động nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15
đến hết 60 tuổi) nên mặc dù dân số nữ thờng xuyên cao hơn (thờng chiếm trên
51% dân số) song, lực lợng lao động nữ lại thờng chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng
49% lao động xã hội).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ (rộng hay hẹp) chỉ mang

tính chất tơng đối, phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lợc phát triển
kinh tế - xã hội. Còn với t cách là phần nửa dân số và lực lợng lao động xã hội,
vừa là ngời trực tiếp tái sản xuất ra nguồn nhân lực cho đất nớc, phụ nữ luôn là
vấn đề lớn đối với chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc gia nào.
Vì thế, nguồn nhân lực nữ phải đợc đề cập đến theo nghĩa rộng, có nghĩa là
các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực hớng tới khả năng lao động của các thế
hệ phụ nữ.
Thứ hai, nghiên cứu về phụ nữ và nguồn nhân lực nữ đòi hỏi phải có phơng pháp tiếp cận đúng đắn. Phơng pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu ở
đây là xem xét mối quan hệ giữa cái chung (con ngời) và cái riêng (giới nam,
giới nữ). Đó là quan điểm tiếp cận về giới. Điều này là do chính đặc điểm của
đối tợng nghiên cứu quy định.
Là con ngời, nam giới và phụ nữ giống nhau - đều vừa là thực thể tự
nhiên vừa là thực thể xã hội - nhng họ có khác biệt về mặt tự nhiên - sinh học
của cơ thể. Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể
thay đổi đợc. Từ những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm
nhiệm chức năng xã hội khác nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất
ra con ngời. Từ đó nảy sinh những khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới
nam và giới nữ trong học tập, làm việc, sinh sống. Phụ nữ thờng gắn với con


15
cái và gia đình. Họ có những nhu cầu cấp thiết hơn nam giới về những dịch vụ
y tế, dịch vụ gia đình, về điều kiện làm việc gần gia đình...
Sự phân biệt về giới tính giữa nam và nữ có tính tự nhiên, bẩm sinh
không tất yếu dẫn tới sự phân biệt về giới có tính xã hội. Tuy nhiên, từ trong
lịch sử kéo dài đến ngày nay đã tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong
đời sống xã hội và gia đình. Phụ nữ thờng đợc coi là ngời hiển nhiên phải chịu
trách nhiệm và thích hợp với việc chăm sóc con cái, gia đình. Những công
việc này thờng ít đợc nhìn nhận ở góc độ kinh tế. Sự đánh giá thấp của xã hội
về khả năng, giá trị của lao động nữ trong lao động sản xuất đã giam hãm ngời

phụ nữ ở địa vị thấp kém trong xã hội và gia đình với tất cả những bất công và
thiệt thòi.
Tóm lại, việc nghiên cứu về ngời phụ nữ nói chung và nguồn nhân lực
nữ nói riêng không thể tách rời việc nghiên cứu về giới tính và giới, về sự bình
đẳng giới và hậu quả đem lại cho sự phát triển chung khi lực lợng phụ nữ bị
kìm hãm, không phát huy đợc đầy đủ những tiềm năng cho việc cải tạo thiên
nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra trớc hết đối với việc phát huy nguồn nhân lực nữ
là phải xác định đợc những nhân tố cơ bản tác động đến nguồn nhân lực nữ
trong quá trình phát triển.
1.1.2.2. Những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ
Việc phát huy nguồn nhân lực nữ thực chất là quá trình một mặt dựa vào
năng lực chủ quan của con ngời, một mặt dựa vào những nhân tố khách quan tác
động tới sự tồn tại và phát triển của con ngời. Có thể thấy những nhân tố cơ bản
sau đây thờng xuyên tác động đến việc phát huy nguồn nhân nữ:
Thứ nhất, nhân tố tự nhiên - sinh học có tác động rất lớn đến thể lực và
trí lực của nguồn nhân lực nữ. Do cấu tạo cơ thể của phụ nữ khác với nam giới
(phụ nữ thờng thấp, bé, nhẹ cân hơn) và do đặc điểm sinh lý của phụ nữ cũng
khác nam giới (phụ nữ phải sinh con và nuôi con) nên nhìn chung sức khoẻ
của phụ nữ thờng yếu hơn so với nam giới. Phụ nữ gắn liền với việc sinh con
duy trì sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Việc sinh con vì thế là hiện t ợng
xã hội, nhng trớc hết cũng là hiện tợng tự nhiên, sinh học. Song, chức năng
sinh học đó đợc thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ và chịu sự tác động của
nhiều nhân tố nh gia đình, môi trờng kinh tế, môi trờng giáo dục, môi trờng
cộng đồng. Không quan tâm đúng mức đến các nhân tố tự nhiên - sinh học
của phụ nữ sẽ không chỉ mất mát hiện tại về năng suất, hiệu quả lao động, tác


16
động tiêu cực đến việc phát triển trí lực của phụ nữ mà còn là những cái giá
phải trả trong một vài thế hệ tơng lai của dân tộc xét về mặt giống nòi và phát

triển bền vững đất nớc. Phát huy nguồn nhân lực nữ vì thế cần thấy đợc những
đặc điểm riêng về mặt tự nhiên - sinh học của phụ nữ để có những giải pháp và
chính sách xã hội hợp lý.
Thứ hai là nhân tố giáo dục - đào tạo. Do vai trò quan trọng trong sự
hình thành và phát triển trí tuệ và nhân cách của con ngời nên nhân tố này
đang đợc coi là phơng thức phát triển nhanh chất lợng nguồn nhân lực. Các
quốc gia hiện nay đều coi đầu t cho giáo dục - đào tạo là đầu t cho phát triển,
đầu t trực tiếp vào nguồn lực con ngời. Đối với nguồn nhân lực nữ, sự tác động
của giáo dục - đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì không chỉ liên quan
đến 1/2 nguồn nhân lực mà còn ảnh hởng đến sự phát triển trong tơng lai của
lực lợng lao động. Điều này xuất phát từ mối liên hệ giữa học vấn của phụ nữ
với sự phát triển của xã hội theo tác động dây chuyền giữa trẻ em gái - ngời
mẹ - thế hệ tơng lai. Các nghiên cứu cho thấy việc học tập của phụ nữ mang
lại những lợi ích đặc biệt quan trọng cho gia đình và xã hội. Giáo dục cho các
em gái có sức tác động mạnh mẽ đối với mọi khía cạnh của sự phát triển - từ
việc hạ tỉ lệ sinh đến việc tăng năng suất lao động và quản lý sử dụng môi trờng [52, tr.43]. Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới năm 2000: Số lần
khám thai của phụ nữ tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, tỉ lệ trẻ sơ sinh chết ở
các bà mẹ có học vấn bậc trung học cơ sở giảm hơn 75% so với các bà mẹ
không đi học, học vấn của ngời mẹ cũng góp phần cải thiện tình trạng dinh dỡng qua cách chăm sóc và khả năng quản lý của các bà mẹ. Những nghiên cứu
về sức khoẻ ở Việt Nam cũng cho thấy ngời mẹ có học vấn càng cao thì sinh ít
con hơn. Quan trọng hơn, học vấn của mẹ còn có tác động trực tiếp đến việc
học của con. Con của ngời mẹ có học vấn cao hơn có nhiều cơ hội đợc đến trờng hơn với tỉ lệ cứ ba năm học cao hơn của mẹ tạo ra 10% khả năng đi học
cao hơn cho con. Mối liên hệ giữa khả năng đi học của con với học vấn của
cha cũng có xu hớng tơng tự nhng thấp hơn.
Việc nâng cao địa vị phụ nữ và tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền
vững đất nớc phụ thuộc rất nhiều vào sự kiên trì thực hiện quốc sách giáo dục
và đào tạo. Giảm khoảng cách về giới trong giáo dục - đào tạo sẽ thúc đẩy sự
phát triển toàn diện nguồn nhân lực trớc mắt cũng nh lâu dài.



17
Thứ ba, việc sử dụng lao động là một nhân tố rất quan trọng để phát
huy tiềm năng tri thức và kỹ năng của ngời lao động. Sử dụng đúng ngành
nghề và trình độ thì ngời lao động sẽ phát huy đợc tài năng trí tuệ, tay nghề và
ra sức phấn đấu vơn lên về mọi mặt. Sử dụng lao động hợp lý sẽ tạo ra môi trờng phù hợp cho ngời lao động phát triển nhanh chóng. Ngợc lại, nếu sử dụng
lao động không hợp lý sẽ làm cho ngời lao động bị hạn chế thậm chí thui chột
khả năng lao động của mình.
Sử dụng lao động nữ hợp lý không chỉ đơn thuần dựa vào kỹ năng, trình
độ chuyên môn nhằm đạt hiệu quả kinh tế trớc mắt mà còn phải đảm bảo đợc
sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững và sự bình đẳng giới. Trong điều kiện
nền kinh tế thị trờng, việc sử dụng lao động nữ sao cho hợp lý và hiệu quả là
một trong những vấn đề rất phức tạp. Có ý kiến cho rằng, đã là nền kinh tế thị
trờng thì hãy để cho thị trờng lao động quyết định việc lựa chọn và sử dụng
các loại lao động. Không ít ý kiến đã đặt niềm tin vào sự chi phối của cơ chế
thị trờng trong việc tự động đem lại sự công bằng xã hội và bình đẳng nam nữ. Theo chúng tôi, đó là một sự công bằng máy móc, lạnh lùng, vì trên thực
tế bên cạnh chức năng là ngời lao động nh nam giới thì phụ nữ còn đảm nhận
chức năng sinh con. Khi thực hiện chức năng này ngời lao động nữ chẳng
những phải tiêu hao sức vóc, một phần khả năng lao động mà còn mất hàng
thập kỷ về thời gian lao động, hơn thế nữa lại là thời gian vàng ngọc, trẻ khoẻ,
sung sức nhất [55,tr.8]
Vì vậy, sử dụng lao động nữ phải chú ý đến đặc điểm của phụ nữ, vừa
có chức năng lao động nh nam giới, vừa có chức năng tái sản xuất dân số và
nguồn lao động, phải tính đến tiêu hao sức lực và thời gian của phụ nữ trong
việc thực hiện chức năng thứ hai một cách hợp lý để phụ nữ có điểm xuất phát
ngang bằng về mặt sức lao động với nam giới trong nền kinh tế thị trờng.
Thứ t, chính sách xã hội là một trong những nhân tố tác động trực tiếp
đến việc phát huy nhân tố con ngời, phát huy nguồn nhân lực. Chính sách xã
hội là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nớc nhằm thực hiện và điều
chỉnh các mối quan hệ của con ngời xoay quanh mối quan hệ lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con ngời là

động lực to lớn khơi dậy tiềm năng của con ngời, tạo điều kiện thuận lợi để
con ngời lao động phát huy năng lực sáng tạo của mình đóng góp cho sự phát
triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Ngợc lại, nếu hệ thống chính sách


18
không phù hợp, thiếu đồng bộ thì nó sẽ trở thành rào cản kìm hãm năng lực và
t duy sáng tạo của mỗi con ngời. Nh vậy, trong đời sống xã hội, việc tạo động
lực hoạt động cho ngời lao động thực chất là thiết lập đợc môi trờng pháp lý
thuận lợi cũng nh những điều kiện thích hợp để con ngời có thể phát huy tối
đa tính tích cực và khả năng sáng tạo của mình. Do những đặc điểm về giới
tính và giới nên phụ nữ thờng chịu những thiệt thòi hơn so với nam giới. Vì
vậy, chính sách xã hội đối với phụ nữ phải phản ánh đợc lợi ích và nguyện
vọng của nữ giới. Chính sách xã hội phù hợp với phụ nữ khi nó tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển năng lực của mình trong mọi hoạt động của đời sống xã
hội, đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
Thứ năm, nhân tố truyền thống văn hoá dân tộc có tác động rất lớn đến
chất lợng nguồn nhân lực - nhất là về mặt tinh thần. Các giá trị văn hốa truyền
thống dân tộc là nhân tố quan trọng, là môi trờng lành mạnh để hình thành và
phát triển nguồn lực con ngời. Một dân tộc, một quốc gia có truyền thống tốt,
những tập quán lành mạnh, có nền văn hoá phát triển cao thì đó chính là cơ sở
điều kiện tốt để xây dựng một nguồn nhân lực vừa có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, vừa có thái độ, tinh thần, tác phong làm việc tốt. Ngợc lại, nếu một dân
tộc, một quốc gia có những phong tục, tập quán lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự vơn
lên của chính quốc gia, dân tộc đó. Mặt khác, những đặc trng văn hoá - xã hội
của một dân tộc còn là cơ sở cho việc sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và hiệu quả
cao. Yếu tố văn hoá và truyền thống dân tộc nh tinh thần lao động, tính kỷ luật
cao, tinh thần học tập và niềm tự hào dân tộc đã đa Hàn Quốc vơn lên vị trí xứng
đáng trong cha đầy 1/2 thế kỷ qua [51, tr.125]
Chúng ta thờng hay nhắc tới truyền thống yêu nớc, cần cù, thông minh,

sáng tạo trong lao động và những phẩm chất trung hậu, đảm đang, kiên cờng...
của phụ nữ Việt Nam. Những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của phụ
nữ Việt Nam chính là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ vơn lên đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nớc. Liên quan đến việc phát triển nguồn nhân lực nữ hiện nay, bên cạnh việc phát
huy các giá trị văn hoá, truyền thống dân tộc đề cao vai trò của phụ nữ, quan tâm
đến sự phát triển của phụ nữ, thì phải loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu,
lối t duy theo kiểu trọng nam, khinh nữ để tạo điều kiện cho sự phát triển mọi
mặt của phụ nữ vì mục tiêu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.


19
Thứ sáu, gia đình là nhân tố liên quan mật thiết và tác động thờng
xuyên đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ.
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhng
bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra t liệu
sinh hoạt; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con ngời, là sự
truyền nòi giống.. Những trật tự xã hội... là do hai loại sản xuất đó
quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt
khác là do trình độ phát triển của gia đình [28, tr.44]
Có thể khẳng định rằng gia đình là tổ chức xã hội đầu tiên có khả năng
nhất trong việc chăm lo cho sự phát triển của mỗi con ngời trên cả ba phơng
diện: thể chất, trí tuệ và tình cảm tâm lý. Sự tác động của gia đình đợc diễn ra
ngay từ khi đứa trẻ còn trong bào thai đến khi ra đời và sự tác động này tồn tại
trong suốt quá trình sinh trởng.
Do chức năng sinh đẻ và nuôi dỡng con cái mà phụ nữ luôn luôn gắn
liền với gia đình. Đề cập đến sự tác động của gia đình đến nguồn nhân lực nữ
cần phải hiểu đây là sự tác động hai chiều. Gia đình là nơi phụ nữ thực hiện
chức năng tái sản xuất ra con ngời, nuôi dỡng nguồn nhân lực cho đất nớc và
đồng thời là nơi phụ nữ tiếp nhận những nguồn lực cho sự phát triển của chính

mình. Không thể nói đến phát huy vai trò phụ nữ chỉ căn cứ vào sự tham gia
hoạt động xã hội mà coi nhẹ vai trò to lớn của họ trong gia đình. Cũng nh
không thể chỉ đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình mà quên đi trách nhiệm
của gia đình trong việc chăm lo cho sự phát triển của phụ nữ. Khi gia đình tái
sản xuất ra nguồn nhân lực nữ có chất lợng cao cũng chính là điều kiện cơ bản
để gia đình thực hiện tốt chức năng của mình. Do vậy, phụ nữ đợc tạo các điều
kiện phát triển toàn diện ngay từ trong gia đình thì chính gia đình cũng sẽ có
những biến đổi tích cực.
Tóm lại, việc phát huy nguồn nhân lực nữ chủ yếu chịu sự tác động của
các nhân tố trên. Mỗi một nhân tố tác động đến từng mặt của nguồn nhân lực
nữ. Tuy nhiên, do các đặc điểm về giới tính và giới nên phụ nữ thờng phải chịu
những tác động tiêu cực nhiều hơn nam giới. Vì thế khi xem xét, đánh giá,
xây dựng chiến lợc phát triển, phát huy nguồn nhân lực nữ cần phải phân tích
đầy đủ và sử dụng tổng hợp tất cả các nhân tố này.


20
1.2. Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ
và yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ trong phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Việt
Nam hiện nay
Là bộ phận cơ bản của nguồn lực con ngời, nguồn nhân lực nữ có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia. Vấn đề phát huy nguồn
nhân lực nữ đã đợc Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng ngay từ ngày đầu mới
thành lập. Một trong những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh là phụ nữ
đợc nhìn nhận nh một lực lợng cơ bản của cách mạng và nếu quảng đại quần
chúng phụ nữ không tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng thì cách
mạng không thể thắng lợi đợc. Phụ nữ còn đợc coi là nguồn lực to lớn trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
làm gì ? Nhất định phải tăng gia sản xuất thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì
phải có nhiều sức lao động. Muốn có nhiều sức lao động phải giải phóng sức
lao động của phụ nữ" [18, tr.33].
Xuất phát từ vai trò to lớn của phụ nữ, Hồ Chí Minh xác định một cách
nhất quán rằng giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã
hội chỉ một nửa.." [18, tr.167]
Có thể khẳng định rằng: xuất phát từ nhu cầu khách quan về các
nguồn lực, trớc hết là nguồn lực con ngời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
luôn coi phụ nữ là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để
phát huy nguồn lực phụ nữ, các chính sách của Đảng và Nhà nớc đã có một
cách nhìn nhận tơng đối toàn diện về các vai trò khác nhau mà ngời phụ nữ
gánh vác trong gia đình và ngoài xã hội. Nhờ kiên trì quan điểm phát huy
nguồn lực phụ nữ mà Đảng ta đã động viên đợc các tầng lớp phụ nữ tham
gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nớc. Vai trò và địa vị xã hội của
phụ nữ Việt Nam đợc nâng cao qua từng giai đoạn phát triển. Điều này
chứng tỏ rằng một trình độ mới về tiến bộ xã hội thể hiện ở mức độ bình
đẳng giới có thể đợc tạo lập ngay trong điều kiện kinh tế còn kém phát
triển.


21
Ngày nay, phát huy nguồn nhân lực nữ càng có ý nghĩa quyết định đối
với chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc. Tầm quan trọng của việc
phát huy nguồn nhân lực nữ thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phụ nữ là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc tái sản
xuất con ngời. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ tác động trực tiếp và lâu dài
đến sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con ngời.
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng: sản xuất ra

của cải vật chất, tinh thần và tái sản xuất ra bản thân con ngời. Hai mặt này
của sản xuất xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau trong sự
thống nhất biện chứng. Sản xuất vật chất, tinh thần là cơ sở của tái sản xuất
con ngời. Ngợc lại, tái sản xuất con ngời lại là tiền đề của sản xuất vật chất,
tinh thần. Vai trò hay ảnh hởng của phụ nữ đối với xã hội đợc xét trên hai phơng diện chủ yếu: thứ nhất, phụ nữ tác động đến sự phát triển của xã hội thông
qua các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của họ ; thứ hai, phụ
nữ tác động đến xã hội thông qua việc thực hiện chức năng trực tiếp tái sản
xuất ra bản thân con ngời. Chiếm phần nửa trong lực lợng lao động xã hội, nên
đơng nhiên phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Chúng tôi muốn bàn thêm về vai trò của phụ nữ trong việc tái sản xuất ra con
ngời đối với sự phát triển của xã hội.
Khái niệm tái sản xuất ra con ngời bao gồm hai nội dung cơ bản, đó là
tái sản xuất về mặt thể chất và tái sản xuất về mặt tinh thần. Cho dù khoa học
kỹ thuật phát triển đang mở ra khả năng có thể tiến hành việc sinh sản ra con
ngời một cách nhân tạo thì sự tái sản xuất con ngời vẫn phải đợc thực hiện
thông qua ngời phụ nữ. Xét cả trên phơng diện sinh học và phơng diện xã hội,
ngời phụ nữ vẫn giữ vai trò không thể thay thế đợc. Bởi tái sản xuất ra con ngời không đơn thuần chỉ là tạo ra một con ngời sinh học mà điều quan trọng và
chủ yếu hơn là sự giáo dục, nuôi dỡng để hình thành và phát triển một con ngời xã hội, trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Đối với mỗi con ngời
điều đó lại đợc bắt đầu chủ yếu và trớc hết bởi ngời mẹ, không một công nghệ,
kỹ thuật thuần tuý nào có thể thay thế đợc.
Sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay không chỉ chú ý đến vấn đề số l ợng dân số - nh một lực lợng lao động chủ yếu, mà điều quan trọng hơn là
nâng cao chất lợng dân số nh là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Con ngời là
nhân tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của lực lợng sản xuất. Ngay cả khi
khoa học công nghệ, kỹ thuật phát triển nh hiện nay, nhân tố con ngời lại càng


22
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ đã đặt con ngời vào quá trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi
một năng lực sáng tạo, một trình độ kỹ thuật cao và ý thức trách nhiệm rất lớn.

Có nh vậy, lực lợng vật chất to lớn, đồ sộ của xã hội mới đợc sử dụng một
cách tốt nhất, hiệu quả nhất và đồng thời chính con ngời lại đạt đến một bớc
phát triển mới, tăng thêm sức mạnh chinh phục thiên nhiên, tăng thêm động
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó càng cho thấy, chức năng tái sản sinh ra con ngời ở ngời phụ nữ
là nhu cầu tự nhiên tất yếu đối với gia đình và xã hội, và ngay từ đầu đã mang
tính ngời, tính xã hội. Đây là chức năng đặc biệt dành cho phụ nữ, trải qua các
thời đại, chức năng này ngày càng có vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. "Chất lợng của tái sản xuất xã hội đợc thực hiện
thông qua ngời phụ nữ là yếu tố chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực và hơn
nữa là nguồn đầu t đặc biệt dài hạn" [55, tr.26]
Thứ hai, phụ nữ là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn thiện quá trình
phát triển kinh tế- xã hội. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế và tăng cờng tiến bộ xã hội.
Khi nói tới khả năng lao động sáng tạo của con ngời C.Mác đã cho
rằng cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con ngời
kinh qua lao động. C.Mác đã tổng kết: "Con ngời không chỉ làm biến đổi hình
thái những cái tự nhiên cung cấpcon ngời cũng đồng thời thực hiện các mục
đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định phơng thức hành động của họ,
giống nh một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó" [24,tr.321].
Quả vậy, trong tiến trình phát triển của nhân loại, con ngời không chỉ là
yếu tố hàng đầu, năng động quyết định sự phát triển của lực lợng sản xuất mà
còn là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn thiện toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Sự sáng tạo của con ngời đợc thể hiện không chỉ ở mặt sáng
tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra đời sống tinh thần và sáng tạo ra
chính bản thân con ngời. Nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao đã thúc
đẩy con ngời sáng tạo không ngừng để thoả mãn nhu cầu của chính mình.
Chính trong quá trình đó, con ngời sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra chính bản
thân mình, đa xã hội loài ngời phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên
hình thái kinh tế - xã hội khác.



23
Con ngời vừa là sản phẩm lịch sử vừa là chủ thể chân chính sáng tạo ra
lịch sử. Xã hội dới mọi hình thức đều chỉ là quan hệ giữa ngời với ngời, giữa
nam và nữ. Ngời phụ nữ trớc hết là sản phẩm lịch sử (nh ngời đàn ông) và
cũng là chủ thể sáng tạo (nh ngời đàn ông). Sự ra đời của loài ngời gồm có
nam và nữ, họ cùng xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài ngời. Nhng ở
phơng Tây truyền tụng câu chuyện coi phụ nữ - Eva, là cái xơng sờn của
Adam do Chúa nặn ra, nữ là một bộ phận cơ thể của nam và phụ thuộc vào
nam. ở phơng Đông, ngời ta quan niệm rằng vũ trụ hợp nhất bởi âm và dơng.
Con ngời cũng vậy, nam giới là khí dơng - biểu tợng cho sức mạnh, quyền
năng, thống trị.. còn nữ giới là khí âm với đặc trng là sự mềm yếu, nơng tựa,
phụ thuộc...Câu chuyện khởi thuỷ và những quan niệm ngây thơ đó đợc hậu
thuẫn bởi sự áp bức, nô dịch phụ nữ về mặt kinh tế đã trở thành nguyên cớ làm
nảy sinh những phong tục tập quán, thiên kiến xã hội đề cao nam giới, chỉ coi
nam giới là chủ thể sáng tạo còn phụ nữ chỉ là đối tợng bị sai khiến và phải
phục tùng. Từ đó đã hình thành và củng cố những quan niệm về địa vị thấp
hèn của phụ nữ suốt bao thế kỷ, đòi hỏi ở ngời phụ nữ chỉ có trách nhiệm và
hy sinh. Ngời ta sinh ra không phải là phụ nữ (với ý nghĩa có sự phân biệt
nam nữ về mặt xã hội) mà trở thành phụ nữ, do kết quả của những định kiến,
những phân biệt đối xử trong lao động và hởng thụ, trong học hành và nghỉ
ngơi [43, tr.53].
Ngay cả khi vai trò hết sức to lớn, quan trọng, cần thiết của phụ nữ
trong quá trình phát triển đợc thừa nhận thì địa vị chủ thể của phụ nữ trong
phát triển kinh tế - xã hội cũng cha đợc nhận thức một cách toàn diện. Điều
đó thể hiện ở chỗ phụ nữ đợc coi là động lực và là lực lợng cần thu hút vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội khi đợc xác định lại thờng ít tính đến nhu cầu của phụ nữ. Các vấn đề của
phụ nữ mới đợc nhắc tới, tính đến hay lồng ghép vào các chơng trình, dự án

phát triển. Trên thực tế quan điểm này cha đặt vấn đề phụ nữ là chủ thể của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Điều này không chỉ hạn chế khả năng
phát huy tính chủ động, sáng tạo của phụ nữ mà có thể làm giảm hiệu quả xã
hội của các quá trình kinh tế. Việc phát triển kinh tế - xã hội một cách lâu bền
vì thế khó có thể thực hiện một cách triệt để.
Đợc coi là hợp lý trong việc đánh giá vai trò của phụ nữ hiện nay là
quan điểm khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa phụ nữ và phát triển, giữa


24
tăng trởng kinh tế và phát triển xã hội, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ thể
của phụ nữ trong quá trình hoạch định, thực hiện và đánh giá các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội hiện nay đang
cho thấy rõ ràng là chỉ có thể nói tới phát triển với nghĩa sâu rộng nhất của từ
này nếu phụ nữ có cơ hội phát huy hết năng lực của mình và có điều kiện phát
triển một cách toàn diện và bình đẳng với nam giới [2, tr.93].
Nghiên cứu về vai trò chủ thể sáng tạo của phụ nữ không thể dừng lại ở
việc nhấn mạnh ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn của việc phụ nữ tham gia
vào hoạt động kinh tế - xã hội. ở một đất nớc nh Việt Nam khi mà hơn 70%
phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế và lao động nữ
chiếm gần 50% lực lợng lao động xã hội thì nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ
lại càng không thể giới hạn ở việc nhấn mạnh vai trò quan trọng của lao động
nữ, vấn đề đặt ra là cần phân tích và phát hiện những cơ chế góp phần cải
thiện công bằng xã hội nâng cao bình đẳng nam - nữ trong chính hoạt động
kinh tế - xã hội của phụ nữ.
Thứ ba, phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc sáng tạo, giữ gìn và
phát triển văn hoá dân tộc. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ góp phần khơi dậy
tiềm năng, sức sáng tạo của con ngời, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự
phát triển.
Văn hoá tạo nên mặt cơ bản của chất lợng đời sống con ngời và trình độ

phát triển xã hội. Nhấn mạnh văn hoá trong quá trình phát triển chính là nhấn
mạnh yếu tố con ngời với t cách vừa là động lực, vừa là mục đích của sự
nghiệp đổi mới đất nớc. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội
thì văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống ấy, và vì thế, hai lĩnh vực đó
luôn luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với sự vận động và phát triển
của xã hội. Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn
hoá có khả năng to lớn trong việc khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, phát triển
sức sáng tạo của con ngời, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển
của CNH, HĐH. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà nguồn gốc
của sự giàu có và phát triển toàn diện của một đất nớc ngày càng phụ thuộc
vào nguồn lực con ngời, tiềm năng và năng lực sáng tạo của con ngời.
Phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong việc sáng tạo, truyền thụ, giữ gìn và
phát triển văn hoá. Điều này xuất phát từ vai trò trọng yếu của họ trong nuôi dỡng, chăm sóc, bảo tồn và phát triển giống nòi đất nớc. Phụ nữ là những ngời giữ


25
gìn, truyền thụ những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc từ thế hệ này qua thế hệ
khác bằng những lời ru, những truyện cổ dân gian, những khúc đồng dao đến
những tục lệ tốt đẹp. Chính trong cuộc sống đa dạng thờng ngày, trong sản xuất,
trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong nuôi dạy con cái, ngời phụ nữ đã sáng tạo,
truyền đạt, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam. Họ
đóng góp, làm giàu nền văn hoá đó cho dù họ không biết hay ít biết làm thơ, viết
chuyện, họ bảo vệ nền văn hoá đó trớc mọi mu đồ đồng hoá của các kẻ thù xâm
lợcHọ đã giữ gìn, xây dựng nhân cách con ngời Việt Nam qua tấm gơng sống
và làm việc của bản thân [43, tr.56].
Con ngời Việt Nam đến nay còn lu giữ đợc những phẩm chất, đạo đức
tốt đẹp nh tinh thần yêu nớc, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cờng, thông
minh, sáng tạo trong lao động, tình nghĩa chung thuỷ giữa vợ và chồng, lòng
hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, lòng kính trọng biết ơn ngời già, sự tơng
trợ, đùm bọc nhau trong họ hàng làng xóm... ở đây có công lao to lớn của

những ngời phụ nữ, ngời mẹ trong việc dạy dỗ con cái. Họ còn đóng vai trò
quan trọng đối với việc xây dựng, củng cố những quan hệ tốt đẹp giữa ngời
với ngời, nhờ đó xã hội Việt Nam còn giữ đợc nếp sống có nghĩa, có tình, có
trớc, có sau, quan tâm giúp đỡ nhau lúc khó khăn hoạn nạn
Tóm lại, phụ nữ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nớc.
Nhìn nhận về vai trò của phụ nữ, nghị quyết 04/BCT (khoá VIII) đã khẳng
định một quan điểm mới và khá toàn diện: Phụ nữ vừa là ngời lao động, vừa
là ngời công dân, vừa là ngời mẹ, ngời thầy đầu tiên của con ngời. Khả năng
và điều kiện lao động, trình độ văn hoá, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh
thần của phụ nữ có ảnh hởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ tơng lai".
Việc phát huy nguồn lực phụ nữ vì thế, sẽ tạo ra động lực phát triển xã hội,
thúc đẩy bớc tiến của dân tộc cả về cơ sở vật chất và cuộc sống văn hoá tinh
thần.
Không chỉ đối với Việt Nam, việc phát huy nguồn nhân lực nữ để tạo
động lực phát triển kinh tế bền vững và đảm bảo tiến bộ công bằng xã hội đã
và đang đợc đặt ra trong chiến lợc phát triển của nhiều quốc gia. Vào đầu
những năm 60 của thế kỷ XX, ngời ta chủ yếu đề cập đến mô hình phát triển
hớng vào tăng trởng kinh tế và cho rằng tăng thu nhập quốc dân là biện pháp
cần và đủ đối với sự phát triển của một đất nớc. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực


×