Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tìm hiểu các biện pháp mà chính phủ việt nam thực hiện để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu tại việt nam trong những năm 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.81 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là xu thế tất yếu khách quan. Trong
những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa kinh tế gắn liền với sự phát triển của
khoa học – kĩ thuật, sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công
lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Kinh tế thị trường là một nền
kinh tế mở, do đó mỗi nước cần có những mối quan hệ với thị trường thế giới,
không một quốc gia nào tách khỏi thị trường thế giới mà có thể phát triển nền
kinh tế của mình. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng đang từng
bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới
chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy
mạnh hợp tác quốc tế là vấn đề quan trọng của công cuộc đổi mới.
Xuất nhập khẩu là một trong những hình thức chủ yếu của kinh tế đối
ngoại, đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển như nước ta,
ngoại thương có tác dụng rất lớn, rất quan trọng. Việc mở rộng giao lưu kinh tế
thế giới sẽ mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các
nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
rất riêng biệt… Do đó cần phải nhận rõ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu, tình
hình thực tế về ngoại thương của nước ta để đề ra những giải pháp, chiến lược
thích hợp để phát triển hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó, việc trao đổi hàng hóa
giữa các quốc gia đem đến nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thử
thách.
Nhằm hiểu biết rõ hơn về vấn đề kinh tế trên, em xin chọn đề tài “Tìm
hiểu các biện pháp mà chính phủ Việt Nam thực hiện để điều chỉnh hoạt
động xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong những năm 2010 - 2014”.

1


CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA XUẤT NHẬP KHẤU


1.1 Điều hòa quá trình tái sản xuất xã hội
Với tư cách là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, ngoại thương có
những vai trò quan trọng:
1.1.1 Tạo vốn cho quá trình mở rộng vốn đầu tư trong nước
Một trong những vai trò quan trọng nhất của xuất nhập khẩu nói riêng và
kinh tế đối ngoại nói chung là thông qua hoạt động buôn bán trao đổi với nước
ngoài để tạo vốn cần thiết cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Việc tạo vốn và
sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả trở thành mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu
đầu trong thời kì đầu công nghiệp hóa nói chung và trong chính sách kinh tế đối
ngoại nói riêng.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, không một quốc gia nào lại đặt
hy vọng vào việc thực hiện công nghiệp hóa chỉ bằng vốn của bản thân. Quá
trình công nghiệp hóa ở nước ta không những đòi hỏi các khoản vốn và đầu tư
hiện có, mà còn đòi hỏi nhiều khoản đầu tư mới và lớn mà khả năng trong nước
không đủ đáp ứng. Tuy nhiên, cần xác định những mục tiêu hợp lý, thực tế,
không quá tham vọng.
Bên cạnh đó, một mặt quan trọng về vốn là hiệu quả sử dụng của nó. Có
thể nói, tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trở thành yếu tố có tác động mạnh
nhất tới quá trình tăng trưởng kinh tế kém phát triển như nước ta ở giai đoạn đầu
công nghiệp hóa.
1.1.2

Chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của

tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và
thích ứng chúng với nhu cầu của tiêu dùng và tích lũy
Tiêu dùng là mục đích của sản xuất. Tiêu dùng với tư cách là một yếu tố
của quá trình tái sản xuất xã hội, vừa chịu sự tác động quyết định của sản xuất,
nhưng đồng thời cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sản xuất. Tiêu dùng chính là
quá trình tái sản xuất sức lao động, yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản

xuất. Không đảm bảo thỏa mãn những yêu cầu đến một mức độ cần thiết thì

2


không thể tái sản xuất đầy đủ về số luợng và chất lượng lao động cho quá trình
sản xuất mới.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với việc chuyển hóa giá trị sử dụng làm
thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được
sản xuất trong nước và thích ứng chúng với nhu cầu của tiêu dùng và tích lũy.
Xuất nhập khẩu nhập khẩu những tư liệu sản xuất mới cần thiết để phục vụ cho
việc sản xuất hàng hóa tiêu dùng trong nước.
Xuất nhập khẩu trực tiếp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng mà trong nước
chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ. Đây là một hoạt động quan trọng của xuất
nhập khẩu để phục vụ cho tiêu dùng, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đa dạng của
nhân dân, nhưng hoàn toàn không thể bị động với đòi hỏi của tiêu dùng, mà phải
tác động mạnh mẽ đến tiêu dùng đặc biệt là cơ cấu tiêu dùng trong xã hội, làm
cho nó thích ứng với tình trạng cụ thể của cơ cấu sản xuất.
Mở rộng buôn bán với nước ngoài đã làm cho tình trạng tiêu dùng của xã
hội có nhiều biến đổi quan trọng. Sự thay đổi đó đặt ra những yêu cầu cao hơn
cả về số lượng và chất lượng, kiểu, mốt, thẩm mỹ của hàng tiêu dùng. Điều đó
một mặt thúc ép việc sản xuất trong nước muốn phát triển phải đáp ứng đầy đủ
nhu cầu ngày vàng cao của người tiêu dùng, nếu không sẽ không cạnh tranh
được với hàng ngoại. Mặt khác xuất nhập khẩu có thể và cần phải đóng vai trò
quan trọng trong việc hướng người tiêu dùng vào những đòi hỏi hợp lý đối với
thị trường, phù hợp với chính sách tiêu dùng trong một giai đoạn nhất định. Phải
bằng nhiều biện pháp trong đó quan trọng là biện pháp giá cả để điều tiết những
đòi hỏi vượt quá khả năng của nền kinh tế.
1.1.3 Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh

Xuất nhập khẩu ra đời là kết quả của sản xuất phát triển, đồng thời xuất
nhập khẩu lại là một tiền đề cho sự phát triển của sản xuất.Sản xuất có phát triển
thì xã hội mới giàu có. Nhưng muốn sản xuất phát triển thì cần giải quyết các
nhân tố cần thiết cho quá trình đó. Đó là việc đảm bảo các yếu tố đầu vào, đầu ra
của sản xuất, tạo tập thị trường cho sản xuất phát triển.
3


Trong nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng, việc buôn bán với nước ngoài đưa đến những thay đổi cơ cấu sản
phẩm xã hội có lợi cho quá trình phát triển.
Sự phát triển của xuất nhập khẩu làm cho đất đai lao động của nước ta
được sử dụng triệt để hơn để sản xuất các sản phẩm nhiệt đới như gạo, cao su, cà
phê, chè, dầu dừa… để xuất khẩu. Nhờ xuất nhập khẩu mà các nước “thoát khỏi
tình trạng các tiềm năng không được khai thác”.
Khái niệm nhập khẩu dẫn đến sự phát triển bao gồm các yếu tố thúc đẩy
nhất định đối với một số ngành công nghiệp vốn không có cơ hội phát triển nào
khác. Ví dụ, khi phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm xuất
khẩu sẽ tạo ra nhu cầu cho sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất thiết bị
chế biến. Việc cung cấp cơ sở hạ tầng – đường bộ, đường sắt, cầu cảng, năng
lượng, thông tin liên lạc – cho ngành công nghiệp xuất khẩu có thể làm giảm chi
phí và còn mở cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp khác.
Sự phát triển của xuất nhập khẩu có quan hệ đến thuế tức là phần thu nhập
không nhỏ của chính phủ từ việc xuất khẩu, nhập khẩu (dưới dạng thuế hay lợi
nhuận) được dùng để tài trợ cho sự phát triển của các ngành khác.
Ví dụ:

Sản xuất
Khu vực sản xuất xã hội


trong
nước

I. Nông nghiệp, lâm nghiệp 1500


Xuất

Nhập

cuối cùng

khẩu

khẩu

của

600

100

phẩm XH
1000

và thủy sản:
- Nông nghiệp

1300


460

50

890

- Lâm nghiệp

100

50

20

70

- Thủy sản

100

90

30

40

II. Công nghiệp và xây dựng 1200

300


600

1500

- Công nghiệp

250

450

1200

1000
4

cấu
sản


- Xây dựng

200

50

150

300

III. Dịch vụ


1600

400

600

1800

- Giao thông vận tải, bưa điện

100

50

100

150

- Thương mại

500

200

350

650

40


50

110

10

50

440

- Nhà ở, khách sạn, du lịch, 500

100

50

450

sửa chữa.
Tổng số

1300

1300

4300

- Tài chính, tín dụng, ngân 100
hàng và bảo hiểm.

- Quản lý Nhà nước, khoa 400
học, y tế, giáo dục.

4300

Ví dụ này chứng tỏ thông qua việc xuất nhập khẩu, bằng việc xuất đi
những sản phẩm dưới dạng nguyên liệu, sản phẩm tiêu dùng công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp và nhập khẩu chủ yếu máy móc, thiết bị và nguyên liệu cho sản
xuất, cơ cấu sản phẩm xã hội đã thay đổi theo hướng thuận lợi cho quá trình
phát triển sản xuất tiếp theo của nền kinh tế. Để phát triển, cơ cấu nước ta cần
phải tiếp tục đổi mới, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa. Trong
quá trình đó, xuất nhập khẩu không chỉ tạo ra thị trường bên ngoài rộng lớn để
mua và bán những gì sản xuất trong nước cần mà còn thông qua xuất nhập khẩu
mở rộng thị trường trong nước.
Đối với các quốc gia, việc giải quyết việc làm cho người dân là hết sức
khó khăn. Nếu chỉ phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nước,
không có xuất nhập khẩu hỗ trợ thì sẽ không thu hút được nhiều lao động. Đưa
lao động tham gia vào phân công lao động quốc tế là lối thoát lớn nhất để giải
quyết vấn đề thất nghiệp của các quốc gia hiện nay.
1.2. Phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế:
• Lợi thế tuyệt đối:
Adam Smith trong lý thuyết phân công lao động quốc tế đã chỉ ra rằng:
các quốc gia có những điều kiện sản xuất khác nhau, do đó những lợi thế cũng
5


khác nhau ( chi phí sản xuất khác nhau) trong sản xuất các loại sản phẩm. Đó là
lợi thế tuyệt đối.
Adam Smith cho rằng một nước có lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của
nước đó. Mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất loại sản phẩm mà mình có

lợi thế tuyệt đối ( chi phí sản xuất thấp hơn), rồi trao đổi sản phẩm của mình với
các quốc gia khác thì tất cả các quốc gia đều có lợi. Tổng của cải vật chất của
các quốc gia dẽ tăng lên.
• Lợi thế so sánh ( lợi thế tương đối):
David Ricardo đã hoàn chỉnh thuyết phân công lao động quốc tế của
Adam Smith bằng nguyên tắc lợi thế tương đối. Một quốc gia cho dù không có
lợi thế tuyệt đối về các sản phẩm so với một quốc gia khác nhưng vẫn có lợi thế
tương đối ( lợi thế so sánh) trong thương mại quốc tế. Do đó mỗi quốc gia nên
chuyên môn hóa sản phẩm mà mình có lợi thế tương đối rồi trao đổi sản phẩm
cho nhau thì cả hai quốc gia đều có lợi hơn.
• Phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế nhờ xuất nhập khẩu:
Các nước có lợi thế về các điều kiện tự nhiên như khí hậu và tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả nhiều
sản phẩm như cà phê, chè, cao su, dừa, các loại trái, nông sản, lâm sản, thủy
sản…các loại khoáng sản.


Lợi thế có được do sự phát triển của công nghệ và sự lành nghề (nhờ
chuyên môn hóa). Nhờ sự chuyên môn hóa, các nước có thể gia tăng hiệu
quả lao động do:

+ Người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần
+ Người lao động không mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này
sang sản phẩm khác.
+ Do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nảy sinh các phương pháp
làm việc tốt hơn.

6



Ví dụ:
Giả sử mội giờ công lao động: Việt Nam sản xuất được 6 giạ gạo, Hàn
Quốc sản xuất được 1 giạ gạo. Trong khi đó, 1 giờ công lao động ở Hàn Quốc
sản xuất được 5 mét vải thì ở Việt Nam chỉ sản xuất được 2 mét.
Sản phẩm
Việt Nam
Gạo (giạ/ người –
6
giờ)
Vải (mét/ người –
2
giờ)

Hàn Quốc
1
5

Ta thấy Việt Nam sản xuất gạo hiệu quả hơn Hàn Quốc, còn Hàn Quốc
thì lại có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong sản xuất vải. Như vậy, Việt
Nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì còn Hàn Quốc sẽ chuyên môn hóa sản
xuất vải sau đó đem trao đổi cho nhau: Việt Nam xuất khẩu gạo, nhập khẩu vải
còn Hàn Quốc nhập khẩu gạo, xuất khẩu vải.
Lợi thế về công nghệ: khả năng chế tạo các sản phẩm đồng nhất có tính
hiệu quả cao hơn, tức là ít tốn đầu vào hơn cho một đơn vị sản xuất đầu ra.
Ví dụ: Nhật Bản là nước phải nhập khẩu than và sắt, hai thành phần quan trọng
trong sản xuất thép. Nhưng nhờ có quy trình chế biến thép tiết kiệm được
nguyên liệu và lao động nên các nhà sản xuất thép Nhật Bản rất thành công
trong cạnh tranh trên thị trường.
Ngay cả các quốc gia không có lợi thế tuyệt đối nào vẫn có lợi khi thông
qua con đường trao đổi, mua bán quốc tế.

Ví dụ:
Giả sử mội giờ công lao động: Việt Nam sản xuất được 5 giạ gạo, Trung
Quốc sản xuất được 9 giạ gạo. Trong khi đó, 1 giờ công lao động ở Trung Quốc
sản xuất được 10 mét vải thì ở Việt Nam chỉ sản xuất được 4 mét.

Sản phẩm

Việt Nam
7

Trung Quốc


Gạo (giạ/ người –
giờ)
Vải (mét/ người –

5

9

4
10
giờ)
Ta thấy tuy Việt Nam bất lợi về cả 2 mặt hàng nhưng do mức độ bất lợi
của Việt Nam về mặt hàng gạo nhỏ hơn mặt hàng vải ( thể hiện qua bất đằng
thức 4/10 < 5/9). Tương tự, mức độ lợi thế của Trung Quốc về mặt hàng vải lớn
hơn mặt hàng gạo ( thể hiện qua bất đẳng thức 10/4 > 5/9). Do đó, Việt Nam sẽ
có lợi thế so sánh về gạo còn Trung Quốc có lợi thế so sánh về vải. Mỗi nước sẽ
chuyên môn hóa mặt hàng mình có lợi thế so sánh, sau đó đem trao đổi lấy mặt

hàng mình bất lợi thế so sánh.
1.3 Thúc đẩy Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, mở rộng thị trường:
Vai trò quan trọng và bao quát của xuất nhập khẩu là góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xuất nhập khẩu có
nhiệm vụ tìm kiếm những đầu vào mới cho công nghiệp và tiêu thụ của những
sản phẩm mà công nghiệp làm ra.
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế với thế giới bên ngoài, xuất nhập
khẩu còn được sử dụng như một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế
trong nước và giữa trong nước với nước ngoài. Quá trình này không chỉ đơn
giản là gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới để tranh thủ
những lợi thế do ngoại thươngvà phân công lao động quốc tế mang lại, mà quan
trọng hơn là dùng ngoại thương để thúc đẩy quá trình phát triển trong nội bộ nền
kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường thống nhất trong nước qua các
hoạt động xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, vốn, marketing.. từ các công
ty nước ngoài vào nước ta. Qua hoạt động liên doanh, đầu tư vốn hình thành các
khu công nghiệp, thành phố lớn, khu chế biến xuất khẩu, cảng tự do buôn bán…
mà hình thành nên các mối quan hệ gắn bó trên thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế nước ta còn lạc hậu, cơ cấu kinh tế mang nặng
tính nông nghiệp và khai khoáng, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa lớn thì xuất
8


khẩu tài nguyên thiên nhiên là khó tránh khỏi, nhưng xuất khẩu dưới dạng
nguyên liệu thô và mức độ chế biến thấp như hiện nay là lãng phí và chóng làm
cạn kiệt nguồn dự trữ. Chính vì vậy cần hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô và sơ
chế, khuyến khích xuất khẩu có mức độ chế biến cao hoặc thành phẩm tiêu
dùng. Đó không chỉ là cách làm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, mà còn kết hợp được tài nguyên thiên nhiên với nguồn lao động dồi dào

sẵn có và góp phần nâng cao trình độ công nghệ qua phát triển công nghiệp chế
tạo và chế biến.
Xuất nhập khẩu tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng hàng hóa của
nước ta ra nước ngoài, giúp mở rộng thị trường.
Trong xuất nhập khẩu, việc nhập khẩu các thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện
đại, nhận chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy khoa học kỹ thuật trong nước phát
triển từ đó góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

9


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẤU VIỆT NAM
TỪ 2010 -2014
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014
2.1.1 Các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014
Chúng ta đã biết, Việt Nam đang trong tình trạng là nước nhập siêu từ
nhiều năm qua, đồng thời cũng là một trong những nước có tỉ lệ lạm phát cao
trên thế giới , do đó Chính phủ phải thi hành một số chính sách vừa để kiềm
chế lạm phát, vừa nhằm giảm trị giá nhập khẩu ở nước ta. Chúng ta biết hàng
hóa nhập khẩu đồng biến với tổng sản lượng quốc gia trong nước và nghịch
biến với tỷ giá hối đoái vì vậy nhóm sẽ phân tích những tác động của chính
sách của Chính Phủ trong năm 2011đã tác động đến mức sản lượng cũng như
tỷ gia hối đoái trong nước như thế nào để có thể thực hiện mục tiêu kiềm chế
nhập siêu.


Chính sách tiền tệ chặt chẽ và chính sách tài khóa thắt chặt.
Theo Nghị quyết 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011 để đảm bảo thực


hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã thi
hành các chính sách tiền tệ chặt chẽ để giảm lượng cung tiền bằng cách sử
dụng các công cụ như : Ngày 1/6/2011 Ngân hàng Nhà nước tiếp tục có quyết
định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng
theo Quyết định số 1209/QĐ-NHNN ; hay thông qua Quyết định số 679/QĐNHNN đã tăng một số lãi suất chủ chốt như lãi suất tái cấp vốn lên 14%/năm ,
lãi suất tái chiết khấu lên 13%/năm có hiệu lực vào ngày 1/5/2011.

10


( Đồ thị biểu thị tác động của chính sách tiền tệ )
 Như vậy, về mặt lý thuyết, dưới sự tác động của chính sách tiền tệ thu
hẹp thì NHNN đã làm cho lượng cung tiền giảm đi và theo đồ thị thì đường
LM1 sẽ di chuyển sang trái thành đường LM, làm cho điểm cân bằng trên thị
trường sẽ di chuyển từ E1(Y1,r1) sang E’(Y’,r’). Tại mức cân bằng mới thì ta
có sản lượng giảm ( Y’ < Y1) và lãi suất tăng ( r’> r1)  Từ việc lãi suất tăng
sẽ dẫn đến đầu tư giảm, sản lượng quốc gia giảm  Lượng nhập khẩu giảm.
Giải thích rõ hơn: (Y là thể hiện của tổng sản lượng hoặc tổng chi tiêu
hoặc cũng là tổng thu nhập của các doanh nghiệp trong nền kinh tế; tại mức
lãi suất được nhà nước điều chỉnh cao hơn; Y sẽ giảm, trước tiên do khả
năng đầu tư của doanh nghiệp hạn chế hơn; doanh nghiệp gặp vấn đề trong
vay vốn cộng với việc lãi suất huy động tăng theo lãi suất cho vay sẽ khiến
cho cầu tiền giảm, khả năng thanh toán và nhu cầu chi tiêu trong thị trường
cũng thấp đi => quy mô và khả năng chi trả của nền kinh tế hạn chế => thị
trường không còn cần nhiều hàng nhập khẩu)

11


Cũng trong Nghị quyết 11/NQ-CP để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ

đề ra, song song với việc thi hành các chính sách tiền tệ thu hẹp thì Chính phủ
cũng thi hành các chính sách tài khóa thắt chặt với mục đích nhằm giảm tổng
cầu bằng các biện pháp như : rà soát, sắp xếp, cắt giảm đầu tư công, tập trung
vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, hiệu quả; giảm bội chi ngân sách
Nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%, tăng cường quản lý nợ Chính phủ, nợ
quốc gia.

( Đồ thị biểu thị sự tác động của chính sách tài khóa )
 Dưới sự tác động của chính sách ngoại khóa thắt chặt qua việc giảm
đầu tư công của Chính phủ cũng như tăng một số lãi suất chủ chốt làm cho
lượng đầu tư giảm dẫn đến tổng sản lượng giảm, thể hiện qua được IS1 dịch
chuyển sang trái thành đường IS’, làm cho điểm cân bằng dịch chuyển từ
E1( Y1,r1) xuống E’(Y’,r’) Vậy tại mức cân bằng mới thì ta có tổng sản
lượng giảm  Nhập khẩu giảm.
Kết luận : Thông qua việc thi hành chính sách tiền tệ thu hẹp và chính
sách tài khóa thắt chặt đã làm cho tổng sản lượng giảm xuống đã làm cho sản
12


lượng nhập khẩu ở một số mặt trong năm 2011 vừa qua đã giảm về mặt số
lượng so với cùng thời điểm ở năm trước đó.


Các chính sách ngoại thương :
Phá giá đồng nội tệ :

Ngày 11/02/2011, Ngân hàng nhà nước (SBV) đã chính thức tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng từ 18.932 đồng/USD lên 20.693 đồng/USD, tương đương
tăng 9,3%. Đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch từ +/-3% xuống +/-1% 
Điều này đã gây tác động lớn đối với hoạt động nhập khẩu vì trước khi có sự

điều chỉnh này, việc tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu dựa theo tỷ giá
giao ngay của SBV công bố là 19.000VND/USD. Bây giờ, tỷ giá được dùng
đối với thuế nhập khẩu là 20.693 VND/USD. Điều này dẫn đến giá hàng hóa
nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn đối với người dân trong nước, giảm sự cạnh
tranh của mặt hàng nhập khẩu đối với thị trường hàng hóa nội địa, quá đó sẽ
làm hạn chế nhập khẩu.  Do đó động thái điều chỉnh tỉ giá bình quân lên
cao và thu hẹp biên độ giao dịch đánh khá mạnh vào các nhà nhập khẩu.
Tuy nhiên, nếu nhìn một cách tổng quan thì việc tăng tỉ giá đồng nội tệ chỉ
có thể hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng, hàng hóa xa xỉ vì
giá cao sẽ làm cho người dân sẽ cân nhắc hơn trước khi mua, trong khi tổng
kim ngạch hàng nhập khẩu thì chỉ 10% là hàng tiêu dùng, 20% là trang thiết
bị, máy móc và tới 70% là nguyên vật liệu đầu vào cho hoạt động kinh tế.
Như vậy, trừ 10% hàng tiêu dùng là cần hạn chế còn lại 90% kim ngạch nhập
khẩu là không thể hạn chế. Vì những mặt hàng như trang thiết bị, máy móc,
nguyên vật liệu là những mặt hàng nhập khẩu thiết yếu đối với nền kinh tế sản
xuất của Việt Nam hiện nay, cho nên có thể nói việc tăng tỉ giá đồng nội tệ
như vậy chỉ tác động rất ít đến việc hạn chế nhập khẩu hiện nay.
Bên cạnh đó, biện pháp tăng tỉ giá đồng nội tệ cũng gây ra không ít những tác
động xấu đến nền kinh tế hiện nay khi cơ cấu đầu vào sản xuất theo nguồn
của nước ta cho thấy nhập khẩu có tác động không nhỏ đến giá cả sản xuất .
Vì việc phá giá đồng nội tệ sẽ làm cho giá các mặt hàng nhập khẩu tăng cao
lên, trong khi các mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc lại chiếm tỉ
13


trọng tới hơn 80% tổng kim ngạch hàng nhập khẩu, điều này dẫn đến việc gia
tăng cái chi phí yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp, kéo theo đó sẽ làm tăng
giá các sản phẩm khác, điều này có thể dẫn đến việc tạo ra một mặt bằng giá
mới. Chẳng hạn giá nhập xăng dầu tăng theo tỉ giá và khi được sử dụng làm
nhiên liệu thì sẽ làm tăng chi phí vận tải. Nếu như giá xăng dầu phải điều

chỉnh theo giá thế giới thì trong nước giá xăng dầu sẽ tăng "kép" vì vừa tăng
giá, vừa tăng theo tỉ giá và tác động đến lạm phát sẽ lớn hơn.
Điều chỉnh mức thuế, hạn ngạch :
Để thực hiện mục tiêu đảm bảo nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch
xuất khẩu, thì Chính phủ đã thay đổi sắc thuế đối với một số mặt hàng nhập
khẩu như : giảm thuế đối với các mặt hàng đầu vào cho sản xuất mà trong
nước chưa thực hiện được như xăng dầu, máy móc thiết bị,… Từ giữa tháng
1/2011 Bộ Tài chính đã thực hiện điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu xăng,
diesel xuống 0% và đến ngày 24/2/2011 tiếp tục giảm thuế nhập khẩu xuống
0% đối với dầu ma dút và dầu hỏa. Mức thuế nhập khẩu xăng dầu giảm xuống
0% tiếp tục được giữ cho đến nay. và.ngày 09/6/2011 thông báo của Liên bộ
cho biết thông qua thông tư 82/2011/TT-BTC sẽ tăng mức thuế nhập khẩu đối
với dầu diesel và dầu hỏa theo đó mức tăng vẫn thấp hơn 10% ( đối với dầu
diesel) và thấp hơn 15%( đối với dầu hỏa) theo quy định của Biểu thuế hiện
hành. Điều này lý giải cho việc trong khoảng 4 tháng đầu năm 2011, sản
lượng nhập khẩu xăng dầu có xu hướng tăng cho đến khoảng tháng 5/2011 thì
giảm nhẹ cho đến cuối năm 2011. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng bắt đầu tập
trung đánh thuế vào các mặt hàng xa xỉ, các mặt hàng tiêu dùng không thiết
yếu như từ ngày 15/8/2011 quyết định 36/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ban hành mức thuế nhập khẩu ôtô cũ chở người từ 15 chổ ngồi trở
xuống có hiệu lực qua đó với cách tính thuế mới, các loại xe đã qua sử dụng
hạng sang và siêu sang sẽ có thuế suất thuế nhập khẩu mới thậm chí vượt mức
100% và cao hơn nhiều so với xe chưa qua sử dụng cùng loại. Từ đó, ta thấy
sản lượng ôtô 9 chỗ ngồi trở xuống nhập khẩu từ khoảng 4 tháng cuối năm có
xu hướng giảm rõ rệt.
14


2.1.2. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010-2014
a. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu

+ Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng là nhóm hàng dẫn đầu về kim
ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với kim ngạch năm 2011 đạt 15,34 tỷ
USD, tăng 13% so với năm 2010. Trong đó, khu vực FDI nhập khẩu 6,59 tỷ
USD, tăng 28,1% và các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 8,75 tỷ USD, tăng
2,4% so với một năm trước đó.
Nhóm hàng máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng nhập khẩu chủ yếu có
xuất xứ từ Trung Quốc với 5,18 tỷ USD, tăng 15,7% so với năm 2010; tiếp đến
là Nhật Bản: 2,8 tỷ USD, tăng 9,9%; EU: 2,42 tỷ USD, tăng 10,8%; Hàn Quốc:
1,26 tỷ USD; tăng 13,8%; Đài Loan: 899 triệu USD, tăng 10,9%; Hoa Kỳ: 848
triệu USD, tăng 4,1%;…
+ Xăng dầu các loại: tính đến hết năm 2011, tổng lượng xăng dầu nhập
khẩu của cả nước là gần 10,7 triệu tấn, tăng 11,4% so với năm 2010 với trị giá
gần 9,9 tỷ USD, tăng 61,6%. Đơn giá nhập khẩu bình quân trong năm 2011 tăng
45% so với năm 2010 nên kim ngạch tăng do yếu tố giá là 3,07 tỷ USD và tăng
do yếu tố lượng là 698 triệu USD.
Biểu đồ: Đơn giá nhập khẩu xăng dầu các loại theo tháng năm 2010 - 2011

15


Lượng xăng dầu nhập khẩu theo loại hình tạm nhập tái xuất trong năm
2011 là 715 nghìn tấn, giảm 60,6% so với năm 2010. Xăng dầu các loại nhập
khẩu vào Việt Nam trong năm 2011 chủ yếu có xuất xứ từ: Singapore với gần
4,4 triệu tấn, tăng 26,7%; tiếp theo là Đài Loan: 1,39 triệu tấn, tăng 31,6%;
Trung Quốc: 1,32 triệu tấn, giảm 13%; Hàn Quốc: 1,12 triệu tấn, tăng 1,36%;
Cô oét: 796 nghìn tấn, tăng 62,4%;… so với năm 2010.
+ Sắt thép các loại: tính đến hết năm 2011, tổng lượng nhập khẩu sắt thép
của Việt Nam là 7,39 triệu tấn, giảm 18,7%, kim ngạch nhập khẩu là 6,43 tỷ
USD, tăng 4,5%. Trong đó, lượng phôi thép nhập khẩu là 878 nghìn tấn, trị giá
đạt 576 triệu USD, giảm 55,8% về lượng và giảm 46,4% về trị giá so với năm

2010.
Biểu đồ : Lượng sắt thép các loại nhập khẩu năm 2005- 2011

+ Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: trong
tháng này kim ngạch nhập khẩu đạt 939 triệu USD, giảm 12,5% so với tháng
trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong năm 2011 lên
12,27 tỷ USD, tăng 24,7% so với năm 2010. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là
6,73 tỷ USD, tăng 25,5%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 2,95 tỷ USD, tăng
12,5%; xơ sợi dệt là 1,53 tỷ USD, tăng 30,4% và bông là hơn 1 tỷ USD, tăng
56,1%.
16


Trong năm 2011, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhập
khẩu 7,88 tỷ USD, tăng 26,3% và các doanh nghiệp trong nước là 4,39 tỷ
USD, tăng 22% so với năm 2010.
+ Phân bón các loại: trong cả năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu của
Việt Nam là hơn 4,25 triệu tấn, tăng 21,1%, trị giá là 1,78 tỷ USD, tăng
46,1% so với năm 2010. Trong đó nhập khẩu nhiều nhất là phân Urê với hơn
1,13 triệu tấn, tăng 14,5%; phân Kali là 947 nghìn tấn, tăng 44,2% và phân
SA là 891 nghìn tấn, tăng 30,5% so với năm 2010.
+ Ô tô nguyên chiếc: trong tháng lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là
3,6 nghìn chiếc, tăng 31,3%, nâng tổng lượng xe nhập khẩu trong năm 2011
lên 54,6 nghìn chiếc, trị giá là hơn 1 tỷ USD, tăng 1,4% về lượng và tăng
5,1% về trị giá so với năm 2010.
Tính đến hết năm 2011, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu xe
dưới 9 chỗ là 34,9 nghìn chiếc, giảm 0,3%; ô tô tải là 16 nghìn chiếc, tăng
13,3%; ô tô loại khác là 3,69 nghìn chiếc, giảm 32,5% so với năm 2010.

Biểu đồ : Lượng nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại trong năm 2011

b. Các thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu
+ Các thị trường xuất khẩu chủ yếu:
Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam theo tứ tự là: Mỹ, EU, ASEAN,
Nhật Bản, Trung Quốc, Australia. Trong giai đoạn 2010 - 2014, kim ngạch xuất
khẩu vào tất cả các thị trường trọng điểm đều tăng trưởng ấn tượng: xuất khẩu
17


vào EU tăng 2.8 lần , vào Nhật là 2.3 lần và ASEAN là 2.8 lần. Đáng chú ý nhất
là việc gia tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Định hướng xuất khẩu Việt Nam là đa dạng hóa thị trường, gia tăng xuất
khẩu sang các nước Châu Âu, Châu Mỹ và giảm xuất khẩu sang các nước Châu
Á.
+ Các thị trường nhập khẩu chủ yếu:
Các đối tác Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất đều thuộc khu vực Đông Á:
Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản , Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Hồng Kông. Trong chính sách về thị trường nhập khẩu, định hướng đưa ra là
giảm thị trường nhập khẩu từ các nước Châu Á xuống còn 55% vào năm 2010.
Các đối tác xuất khẩu chủ yếu là các thị trường có công nghệ nguồn, trong
khi các đối tác nhập khẩu chủ yếu là các thị trường không có công nghệ nguồn.
2.2 Những thành tựu đạt được
2.2.1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng khá nhanh và vững chắc
trong thời gian 2010 - 2014. Trong thời gian 2010 - 2014, xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam tăng với tốc độ trung bình hằng năm là 18,89%, cao hơn so với
tốc độ kế hoạch đề ra cho giai đoạn 2010 - 2014 là 16 %.
Do tốc độ xuất khẩu hàng hóa tăng cao đã đưa quy mô xuất khẩu hàng
hóa tăng gấp 3,35 lần trong khoảng thời gian 5 năm qua. Đây là một trong
những mức tăng xuất khẩu nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người cũng tăng nhanh. Nếu năm

2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người mới chỉ là 186 USD thì đến
năm 2014 đã tăng lên mức 569 USD, tức là tăng gấp 3,05 lần.
2.2.2 Về chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Trong thời gian qua, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều chuyển biến tích
cực. Sản phẩm xuất khẩu đa dạng, phong phú hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã
chuyển dịch theo hướng tăng dần các sản phẩm chế biến, giảm dần sản phẩm
thô, nguyên liệu. Đặc biệt, xu hướng tăng tỷ trọng của nhóm hàng chế biến, chế
tạo được coi là sự thay đổi tích cực nhất.
18


2.2.3 Về chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu liên tục được mở rộng và đa dạng hóa, nhất là đã đột
phá xuất khẩu thành công vào thị trường Mỹ và duy trì được thị phần trên thị
trường lớn nhất thế giới này.
Ngoài ra, chúng ta đã giảm dần được thị phần ở thị trường châu Á, củng
cố thị trường EU, khôi phục thị trường Nga và Đông Âu, mở rộng thị trường
châu Đại Dương, khai phá mạnh mẽ thị trường Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh...
Xuất khẩu hàng hóa đã huy động ngày càng đông đảo các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Đặc biệt, các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp xuất khẩu không thuộc khu vực kinh tế nhà nước đang trở thành
động lực chính cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp FDI đang đóng góp quan trọng
nhất cho xuất khẩu với việc khai thông thị trường, phát triển các mặt hàng chế
biến, chế tạo cho xuất khẩu (điện tử, bản mạch máy tính ...) và chiếm tỷ trọng
cao nhất trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời gian. Khu vực doanh
nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng nhiều
(chiếm tỷ trọng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo ra sự năng động lớn trong
xuất khẩu hàng hóa thời gian vừa qua).
Xuất khẩu tăng trưởng khá nhanh đã góp phần quan trọng bảo đảm nhập
siêu luôn ở mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu. Tăng trưởng xuất khẩu thời

gian qua đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao gấp từ 2 đến 3 lần tốc độ tăng trưởng
GDP thời gian qua, xuất khẩu đã thực sự trở thành một động lực của tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, góp phần tạo việc làm cho hàng triệu lao động và cải thiện thu
nhập cho hàng triệu nông dân và các lao động khác nhờ tham gia xuất khẩu hàng
nông sản, hàng dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và các hàng hóa
khác...
2.3. Mặt hạn chế và các giải pháp khắc phục
2.3.1. Những mặt hạn chế


Quy mô xuất khẩu của Việt Nam dù tăng nhanh vẫn còn khá nhỏ so
19


với các nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo
đầu người.
Về tổng kim ngạch, năm 2010 xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt kim
ngạch 39,8 tỉ USD, chỉ bằng khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu 130,5 tỉ
USD của Thái Lan, thậm chí so với Phi-lip-pin, nước xuất khẩu 46,9 tỉ USD,
xuất khẩu của Việt Nam cũng mới chỉ bằng 84%. Xuất khẩu bình quân đầu
người của Việt Nam năm 2010 đạt 473 USD, chỉ bằng 23,6% so với mức của
Thái Lan và bằng 88% mức của Phi-lip-pin...


Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị

thương tổn bởi các cú sốc từ bên ngoài.
Điển hình của sự phụ thuộc này là khi giá cả thị trường thế giới biến động
tăng thì xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng và khi giá cả thị trường thế giới giảm

sút thì xuất khẩu cũng trì trệ.
Sự phụ thuộc lớn cũng được thể hiện qua sự lúng túng và bị động trong
ứng phó với các rào cản thương mại mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm, môi trường, dư lượng kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán
phá giá, kết quả là đối với những mặt hàng bị kiện chống phá giá thời gian qua
chúng ta hầu như đều bị thua kiện và xuất khẩu giảm sút mạnh (cá tra, cá basa
và tôm ở thị trường Mỹ, xe đạp ở thị trường EU và Ca-na-đa...).


Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu

của thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu còn phụ thuộc
quá lớn vào một số mặt hàng chủ lực: 5 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ đạt kim ngạch 26,2 tỉ USD,
chiếm tỷ trọng 54,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
năm 2007, cộng tiếp 5 mặt hàng trong top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam là điện tử và linh kiện vi tính, gạo, cao su, cà phê, than đá đạt kim
ngạch 33,97 tỉ USD, chiếm 70,2% tổng kim ngạch xuất khẩu... Tóm lại, cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng
mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh
sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các
20


ngành công nghiệp gắn bó, liên kết chặt chẽ với nhau hình thành chuỗi giá trị gia
tăng xuất khẩu lớn. Đây chính là một thách thức lớn về mặt chất lượng và hiệu
quả xuất khẩu.


Khả năng đa dạng hóa thị trường, thâm nhập thị trường mới và duy


trì, mở rộng thị phần trên các thị trường hiện có còn nhiều yếu kém. Ngoài việc
khai phá thành công thị trường Mỹ thì những thị trường lớn mà ta bị giảm thị
phần so với mục tiêu là châu Âu. Trung Quốc, nước có chung đường biên giới
gần 1.600 km với Việt Nam, lại đang nổi lên là một cực kinh tế của thế giới mà
chúng ta chưa khai thác được tiềm năng và cơ hội của thị trường nước này.


Xuất khẩu thời gian qua chưa khai thác hết được tiềm năng của mọi

thành phần kinh tế và các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước năng lực vẫn còn
yếu kém. Hiện nay nước ta chưa có được các tập đoàn xuất khẩu mạnh tầm cỡ
và uy tín quốc tế để làm đầu tầu cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam...
2.3.2. Giải pháp khắc phục
Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tham gia mạnh mẽ trong
phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu/khu vực, nỗ
lực phát triển nguồn cung cho xuất khẩu (cả về mặt số lượng và nâng cao chất
lượng) sau khi đã gia nhập WTO nhằm tạo ra được một cấu trúc xuất khẩu mang
tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao;
Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt cải cách thể chế, cải cách hành
chính, thuận lợi hóa hoạt động xuất khẩu phù hợp với các cam kết của WTO và
hội nhập kinh tế quốc tế;
Tích cực, chủ động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế đầy đủ và sâu rộng
để tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu
của Việt Nam. Tăng cường củng cố các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung
Quốc... và khai phá mạnh các thị trường mới ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh cho phát triển xuất khẩu. Mở cửa sớm các thị trường dịch vụ hỗ trợ xuất
khẩu tiên tiến, hiện đại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho hàng xuất khẩu;
Nỗ lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công
21



nghiệp và nông nghiệp tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu xuất khẩu của Việt
Nam;
Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xuất khẩu, đồng
thời khai thác hiệu quả hệ thống hạ tầng hiện có phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu
của đất nước. Phát triển thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong
các giao dịch thương mại;
Đẩy mạnh các hoạt động thuận lợi hóa và hỗ trợ việc gia nhập thị trường
của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, khai thác hiệu quả các nguồn lực của
đất nước cho xuất khẩu, khuyến khích việc liên doanh, liên kết hợp nhất, sáp
hợp các doanh nghiệp xuất khẩu để hình thành các tập đoàn xuất khẩu mạnh của
Việt Nam,...;
Tiếp tục khai thác tối đa làn sóng đầu tư mới từ hiệu ứng gia nhập WTO
vào các ngành hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam, nhất là các ngành chế
biến, chế tạo và các ngành công nghiệp công nghệ cao có khả năng tăng trưởng
xuất khẩu mạnh như sản phẩm gỗ, cơ khí nhỏ, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa,
linh kiện điện tử và vi tính, phần mềm, ...;
Cải tiến việc thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia,
phát triển thị trường xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xúc tiến
thương mại. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao và
đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin
và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, kênh phân phối nước ngoài...
Không ngừng chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu, chú ý
đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm
phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ luật pháp quốc
tế, trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề. Việc đào tạo cần
theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thục về kỹ năng và
chuyên môn hóa sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại

cho phát triển của Việt Nam về lâu dài.

22


KẾT LUẬN
Xuất nhập khẩu có tác dụng rất lớn đối với các quốc gia, đặc biệt là một
quốc gia đang phát triển như nước ta. Xuất nhập khẩu góp phần làm tăng của cải
và sức mạnh tổng hợp của đất nước; là động lực của nền kinh tế quốc dân; có
vai trò điều tiết thiếu thừa ở mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu
ngành nghề trong nước; tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động
trong nước.
Từ năm 2010 tới năm 2014, xuất nhập khẩu Việt Nam đã đạt được những
thành tựu nhất định. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng khá nhanh
và vững chắc trong thời gian 2010 – 2014. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo
đầu người cũng tăng nhanh. Việt Nam đã gia nhập WTO, đó là điều kiện thuận
lợi để phát triển xuất nhập khẩu, phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, cơ cấu
hàng xuất khẩu đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sản phẩm xuất khẩu đa dạng,
phong phú hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng dần các
sản phẩm chế biến, giảm dần sản phẩm thô, nguyên liệu.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn tồn tại những khó khăn.
Quy mô xuất khẩu của Việt Nam dù tăng nhanh vẫn còn khá nhỏ so với các
nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu
người. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị thương
tổn bởi các cú sốc từ bên ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế là thời cơ và cũng là thử thách của Việt Nam.
Thời cơ luôn luôn đi cùng với khó khăn do đó đòi hỏi Việt Nam phải có chính
sách hợp lý để phát triển xuất nhập khẩu có hiệu quả: Tăng kim ngạch cả xuất
khẩu và nhập khẩu; cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng
hàng công nghiệp chế biến, giảm dần xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, tạo

những mặt hàng tích cực cho xuất khẩu; cơ cấu hàng nhập khẩu hợp lý trên cơ
sở khuyến khích sản xuất, thay thế nhập khẩu; tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu, với chính sách mặt hàng xuất khẩu phù hợp…

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO


Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Phần 2



Giáo trình Kinh tế Quốc tế



Giáo trình Kinh tế Ngoại thương



Trang

web

của

Tổng


cục

Thống



Việt

Nam:




Trang web của bộ Công thương Việt Nam: />


Báo điện tử: />


Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam: />
24



×