Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình đổi mới, Việt nam cũng đã chuẩn bị mọi hành trang
và đang từng bước bước vào quá trình hội nhập nền kinh tế. Bên cạnh các mối
quan hệ với các nước có cùng chế độ chính trị, các nước xã hội chủ nghĩa,
nước ta đã mở rộng, thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa. Để chuẩn bị cho hội nhập WTO, việc
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế với khu vực và trên thế
giới ngày càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội
Đảng IX (tháng 4/2001) tiếp tục khẳng định: "xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực" "Phát huy lợi
thế cạnh tranh, tăng cường sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, của hàng hoá
và của cả nền kinh tế, giảm dần hàng rào bảo hộ".
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và mậu dịch quốc tế,
quá trình toàn cầu hoá, liên kết kinh tế diễn ra trên thế giới ngày càng nhanh
và sâu rộng thì hoạt động xuất nhập khẩu càng được quan tâm hơn và giữ một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đứng trước những thời cơ và thách thức
của thời kỳ mới - thời kỳ hội nhập, công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quyết định trong
việc đưa hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp phát triển đi lên.
Ngay khi được thành lập, Chi nhánh Công ty Kinh doanh và Chế biến
Hàng xuất nhập khẩu Đà Nẵng Tại Thành phố Hải Phòng đã tiến hành hoạt
động xuất nhập khẩu các mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản và luôn chủ trương
đưa hoạt động này thành hoạt động trọng yếu của Chi nhánh. Trải qua bốn
năm hoạt động, Chi nhánh đã mở rộng được thị trường (đặc biệt là thị trường
nhập khẩu), hàng hoá của Chi nhánh trở lên đa dạng hơn, kim ngạch xuất
nhập khẩu cũng tăng nên đáng kể. Có được những điều này không thể không
kể đến vai trò của công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của Chi nhánh.
Tuy nhiên với thời gian hoạt động chưa lâu, công tác quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu của Chi nhánh cũng bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả của hoạt động Kinh doanh xuất nhập khẩu. Cần phải khắc phục để
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu thì hoạt động xuất nhập
khẩu của Chi nhánh mới có thể phát huy được hết tiềm năng và phát triển
ngày càng vững mạnh được.
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh, nhận thức được vai trò quan
trọng của công tác này, Tôi đã quyết định chọn và nghiên cứu đề tài " Một số
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu tại
Chi nhánh Công ty Kinh doanh Chế biến hàng xuất nhập khẩu tại Thành
phố Hải Phòng".
Đề tài được chia làm 3 Chương với nội dung của từng chương là:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng của công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
của Chi nhánh Công ty Kinh doanh Chế biến hàng xuất nhập khẩu Đà Nẵng
tại Thành phố Hải Phòng.
Chương III: Giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu tại Chi nhánh Công ty Kinh doanh Chế biến hàng xuất nhập khẩu
Đà Nẵng tại Thành phố Hải Phòng.
Hi vọng rằng với đề tài này sẽ góp phần nào vào việc nghiên cứu và tìm
giải pháp hữu hiệu tăng cường và phát huy tối đa lợi thế của Chi nhánh trong
hoạt động xuất nhập khẩu. Giúp Chi nhánh thu được ngày càng nhiều lợi
nhuận và phát triển một cách bền vững.
Là sinh viên năm thứ tư, đang chuẩn bị tốt nghiệp vì thế kinh nghiệm
và thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ của
các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Quản lý, tập thể cán bộ nhân viên thuộc
Chi nhánh Công ty Kinh doanh Chế biến hàng xuất nhập khẩu Đà Nẵng tại
Hải Phòng và đặc biệt là sự giúp đỡ hết sức tận tình của GS.TS Đỗ Hoàng
Toàn em đã hoàn thành bài báo cáo của mình.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP KINH DOANH
XUẤT NHẬP KHẨU
I. DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
1.1. Khái Niệm doanh nghiệp
Thực tiễn cho thấy, doanh nghiệp như là tế bào của nền kinh tế, một tế
bào của cơ thể sống trong cơ chế kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà khái
niệm doanh nghiệp luôn được quan tâm ở rất nhiều đối tượng khác nhau.
Đứng trên các góc độ khác nhau và quan điểm khác nhau, người ta đưa ra
những khái niệm khác nhau về doanh nghiệp:
Đứng trên quan điểm hệ thống thì "doanh nghiệp là một tổng thể-một
hệ thống bao gồm con người và thiết bị được tổ chức lại nhằm đạt được những
mục đích nhất định như tạo một sự cân bằng trong ngân quỹ, tạo ra khả năng
sinh lời của vốn đầu tư, làm lợi cho chủ sở hữu và đảm bảo tương lai phát
triển của doanh nghiệp".
1
Đứng trên quan điểm tổ chức quá trình và nội dung hoạt động của
doanh nghiệp thì "doanh nghiệp là một tổ chức mà tại đó, người ta sẽ lựa chọn
những phương pháp kết hợp các yếu tố đầu vào một cách tối ưu với khuôn khổ
của một số lượng tài sản nhất định nhằm tạo ra những khoản tiền chênh lệch
giữa giá bán và phí tổn".
2
Đứng trên quan điểm mục đích hoạt động của doanh nghiệp thì: "doanh
nghiệp là một tổ chức thực hiện các hoạt động Kinh doanh như sản xuất, mua
1
Nguồn trích dẫn: Tài liệu tham khảo (TLTK) 2 - trang 52
2
Nguồn trích dẫn: TLTK 2 - trang 52
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích
tạo ra lợi nhuận".
3
Do đứng trên các góc độ khác nhau nên các định nghĩa trên chưa thể
hiện được nhận thức đầy đủ và toàn diện về doanh nghiệp. Để có được một
khái niệm đầy đủ về doanh nghiệp thì cần phải đạt được những yêu cầu sau:
Thứ nhất là phải thể hiện được đầy đủ những nội dung cơ bản trong hoạt động
của bất cứ doanh nghiệp nào, trước hết là phải thể hiện rõ chức năng, đặc
điểm hoạt động của doanh nghiệp. Thứ hai là phải thể hiện được đặc điểm
chung nhất của mọi loại hình doanh nghiệp cho dù nó thuộc loại hình sở hữu
nào. Thứ ba là phải thể hiện được mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các
nhân tố, điều kiện khác nhau trong môi trường hoạt động Kinh doanh, phải
thể hiện rõ phương tiện và mục đích của doanh nghiệp trong hoạt động sản
xuất - Kinh doanh. Xuất phát từ những yêu cầu trên, ta có thể định nghĩa
doanh nghiệp như sau:"Doanh nghiệp là một tổ chức Kinh doanh có tư cách
pháp nhân, thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, trao đổi những hàng
hoá trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của đối tượng tiêu dùng,
thông qua đó tối đa hoá lợi ích kinh tế của người chủ sở hữu về tài sản của
doanh nghiệp, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội".
4
1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp.
5
Qua khái niệm trên ta có thể nêu lên một số đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, chức năng Kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm sản xuất,
cung ứng, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ nhằm mục đích sinh lợi. Có doanh
nghiệp thực hiện tất cả các chức năng này nhưng cũng có doanh nghiệp chỉ
thực hiện một hoặc hai chức năng đó thôi.
Thứ hai, Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi ích kinh tế. Mục tiêu này
mang tính toàn diện và bao quát hơn mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, bởi lẽ lợi
3
Nguồn trích dẫn: TLTK 2 trang 53
4
Nguồn trích dẫn: TLTK 2 trang 53
5
Nguồn tham khảo TLTK 2 trang 54 - 56
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
ích kinh tế không chỉ đơn thuần là lợi nhuận kiếm được từ hoạt động sản
xuất-Kinh doanh, mà còn là khả năng phát triển của doanh nghiệp, uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường, đây là những nguồn tài sản vô hình nhưng rất
đáng quý - nó tạo nên giá trị và vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ ba, doanh nghiệp luôn tìm cách thoả mãn tối đa lợi ích của đi
tượng tiêu dùng, xem đó là phương tiện để đạt lợi thế cạnh tranh nhằm tối đa
hoá lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Hầu hết
các doanh nghiệp đều nâng đặc điểm này thành các sứ mệnh đặc trưng của
doanh nghiệp mình.
Thứ tư, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là một điều kiện cơ bản,
quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong hệ thống kinh tế quốc dân, nó do
Nhà nước khẳng định và xác nhận theo luật pháp. Việc khẳng định tư cách
pháp nhân của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể của nền kinh tế đòi
hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về nghĩa vụ tài chính trong
việc thanh toán những khoản công nợ khi phá sản hay giải thể.
Thứ năm, thông qua hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước,
doanh nghiệp điều hoà những đối kháng hay bất đồng giữa mục tiêu kinh tế
của doanh nghiệp với mục tiêu xã hội được đặt trước cho doanh nghiệp, phải
điều hoà được những mâu thuẫn này doanh nghiệp mới có thế tồn tại và phát
triển bền vững được.
Thứ sáu, doanh nghiệp phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của người
tiêu dùng, mọi hoạt động nhằm tạo ra sự tăng trưởng thu nhập của doanh
nghiệp không được vi phạm quyền lợi chính đáng của đối tượng tiêu dùng.
Quyền lợi đó phải được Nhà nước và các tổ chức xã hội bảo vệ và công nhận.
Thứ bảy, hoạt động Kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự chi phối và
tác động của môi trường kinh tế-xã hội. Để các doanh nghiệp có thể tồn tại và
phát triển, Nhà nước cần phải tạo một môi trường ổn định về kinh tế vĩ mô
như: vấn đề tăng trưởng của nền kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách
bảo hộ sản xuất, mậu dịch...
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Như ta đã biết doanh nghiệp được ví như là một cơ thể sống của nền
kinh tế thị trường - một cơ thể sống hết sức nhạy cảm với điều kiện môi
trường. Để các doanh nghiệp có thể hoạt động sản xuất - Kinh doanh trong cơ
chế thị trường ngoài những điều kiện vĩ mô thuộc chức năng quản lý kinh tế
của nhà nước, nhằm tạo ra môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho hoạt động
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, quan trọng hơn cả doanh nghiệp phải
xác định được một chiến lược kinh doanh thích hợp cho mình, phải nghiên
cứu thị trường để tìm lối thoát tối ưu nhất cho việc tiêu thụ các sản phẩm của
mình,... Tất cả những việc này chính là sự quản lý doanh nghiệp của doanh
nghiệp, đó là điều kiện cần thiết và quyến định để mỗi doanh nghiệp ngay khi
mới hình thành để doanh nghiệp tồn tại và phát triển được. Để tìm hiểu về
công tác quản lý doanh nghiệp ta nên đi xem xét quá trình quản lý doanh
nghiệp gồm những bước nào.
2. Các bước của hoạt động quản lý doanh nghiệp.
6
Quản lý doanh nghiệp nói riêng và mọi quá trình quản lý nói chung đều
được tiến hành theo các bước cơ bản sau:
- Lập kế hoạch
- Tổ chức
- Lãnh đạo
- Kiểm tra
2.1. Lập kế hoạch
Lập kế hoạch là bước khởi đầu và trọng yếu của quá trình quản lý, là
quá trình xác định mục tiêu và lựa chọn các phương thức để đạt được mục
tiêu đó. Lập kế hoạch giúp các nhà quản lý doanh nghiệp biết tổ chức và khai
thác con người và các nguồn lực khác của doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Quá trình lập kế hoạch gồm các bước:
+Nghiên cứu và dự báo những yếu tố xung quanh doanh nghiệp như:
khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà phân phối, các chính sách của nhà nước...
6
Nguồn tham khảo TLTK 1 trang 333-370 (tập 1) &trang 5 - 214 (tập 2)
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
+Thiết lập các mục tiêu cho doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất
định (hoặc dài hoặc ngắn).
+Phát triển các tiền đề, xây dựng các phương án để doanh nghiệp lựa
chọn.
+ Đánh giá các phương án theo các tiêu chuẩn phù hợp với mục tiêu và
trung thành cao nhất với các tiền đề đã xác định.
+ Lựa chọn phương án và ra quyết định thực hiên phương án tối ưu
này.
2.2. Tổ chức.
Tổ chức là chức năng thứ hai của quá trình quản lý, là hoạt động quản
lý nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận sao cho
các cá nhân, các bộ phận đó có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để
thực hiện mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Về bản chất tổ chức là việc
phân công lao động một cách khao học, là cơ sở để tạo năng suất lao động cao
cho doanh nghiệp.
Công tác tổ chức của doanh nghiệp bắt đầu từ việc phân tích mục tiêu
chiến lược của doanh nghiệp, sau đó xác định và phân loại các hoạt động cần
thiết để thực hiện mục tiêu và từ đó xác định cả vấn đề phân cấp, phân quyền
và trách nhiệm của từng bộ phận và từng cá nhân trong doanh nghiệp. Công
tác tổ chức của doanh nghiệp sẽ có ý nghĩa rất lớn tới sự thành bại của doanh
nghiệp trong việc triển khai thực hiện kế hoạch.
2.3. Lãnh đạo.
Lãnh đạo là việc định ra chủ trương, đường lối, mục đích, tính chất,
nguyên tắc hoạt động của những người lãnh đạo doanh nghiệp trong những
điều kiện nhất định.
Từ khái niệm trên ta có thể rút ra các đặc điểm của lãnh đạo:
+ Thứ nhất, lãnh đạo là một hàm số của cả 5 yếu tố: người lãnh đạo,
người bị lãnh đạo, mục đích của doanh nghiệp, các nguồn lực và môi trường.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
+ Thứ hai, lãnh đạo là một quá trình mà sự biến chuyển của nó tuỳ
thuộc vào mối quan hệ và cách xử lý 5 yếu tố kể cả không gian và thời gian
xác định.
+ Thứ ba, lãnh đạo là hoạt động quản lý mang tính phân tầng.
+ Cuối cùng, lãnh đạo gắn liền với sự phục tùng của người dưới quyền
đối với người lãnh đạo của mình trong doanh nghiệp vì thế người lãnh đạo
phải là người có khả năng bắt người khác phục tùng mệnh lệnh của mình.
2.4. Kiểm tra.
Kiểm tra là quá trình xem xét, phát hiện ra những sai sót và có những
biện pháp điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp trong việc đề xuất và
thực hiện kế hoạch của mình nhằm mục đích làm cho các hoạt động đạt kết
quả tốt hơn, đồng thời kiểm tra giúp phát hiện ra những sai sót, lệch lạc để có
biện pháp khắc phục, bảo đảm cho hoạt động thực hiện đúng hướng.
Kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng: Nó giúp tìm ra những khuyết
điểm và sai lầm để sửa chữa, ngăn ngừa những vi phạm; kiểm tra là nhu cầu
cơ bản để hoàn thiện các quyết định trong quản lý; đảm bảo cho các kế hoạch
của doanh nghiệp được thực hiện với kết quả cao; và quan trọng hơn, kiểm tra
giúp hệ thống theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi trường; kiểm tra tạo
tiền đề cho sự hoàn thiện và đổi mới.
Quá trình kiểm tra là hệ thống gồm rất nhiều công việc:
+ Thứ nhất, xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn như các tiêu chuẩn về
vốn, về kinh tế kỹ thuật, về sản phẩm dịch vụ, các tiêu chuẩn về lợi nhuận của
doanh nghiệp.
+ Thứ hai là việc đo lường việc đánh giá sự thực hiện: từ việc đo lường
các hoạt động thiết yếu và các điểm kiểm tra thiết yếu trên cơ sở nội dung đã
được xác định tiến tới đánh giá việc thực hiện các hoạt động tức là xem xét sự
phù hợp giữa kết quả đo lường được so với hệ tiêu chuẩn đã được xác định.
+ Cuối cùng của quá trình kiểm tra đó là việc điều chỉnh các hoạt động
có sai lệch.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập nền kinh tế; trong quan hệ đa
phương hoá; đa dạng hoá các quan hệ hợp tác; cạnh tranh quốc tế, hoạt động
xuất nhập khẩu trở lên nóng hổi thu hút sự quan tâm của các thành viên tham
gia vào thị trường.
II. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
7
1. Khái niệm và nội dung hoạt động xuất nhập khẩu
1.1. Khái niệm hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch
vụ của nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện
thanh toán. Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và
phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng
biệt của các quốc gia. Khi mỗi quốc gia có các điều kiện tự nhiên và sự phát
triển kinh tế khác nhau, thì việc liên kết với nhau để cùng nhau phát triển là
rất cần thiết vì lý do cơ bản là khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất
khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước nhập khẩu.
Như vậy hoạt động xuất nhập khẩu không đơn thuẩn là một hoạt động
buôn bán riêng lẻ mà là hoạt động Kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế vì
thế hoạt động mua bán ở đây có những khác biệt: phức tạp hơn mua bán đơn
thuần trong nước, các chủ thể thực hiện hành vi mua bán phải có quốc tịch
khác nhau và hàng hoá trao đổi ở đây được đưa ra ngoài biên giới của một
nước khác.
Từ khái niệm của hoạt động xuất nhập khẩu ta có thế nhận thấy vai trò
rất to lớn của hoạt động xuất nhập khẩu: Điều đầu tiên dễ nhận thấy ở vai trò
của hoạt động xuất nhập khẩu là khả năng tận dụng tối đa tiềm năng sẵn có
trong nước, dựa vào lợi thế của mỗi quốc gia có thể xác định những mặt hàng
mà một quốc gia có thể xuất khẩu hay nhập khẩu hay nói một cách khác ta
thực hiện chuyên môn hoá nền sản xuất của mỗi nước. Việc chuyên môn hoá
này tạo động lực cho các quốc gia phải cố gắng tăng sức cạnh tranh của hàng
7
Nguồn tham khảo: TLTK13 trang 5 - 19, TLTK 14 trang 5 - 25
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
hoá mình sản xuất ra, chính vì thế mà chất lượng sản phẩm được nâng cao,
giá thành hạ.
Một vai trò nữa của hoạt động xuất nhập khẩu là tạo điều kiện cho thị
trường tiêu dùng của mỗi nước phong phú hơn đa dạng hơn nhiều chủng loại
thích hợp với nhiều loại thu nhập trong một nước. Và hơn thế nhờ hoạt động
xuất nhập khẩu mà mỗi quan hệ giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu
ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với
nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập ngày nay.
Hoạt động xuất nhập khẩu tách ra thì gồm hai hoạt động riêng biệt đó là
hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành dưới sự quản lý của nhà
nước trên nguyên tắc: (1)Tuân thủ luật pháp Việt nam, và các chính sách có
liên quan (chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách bảo hộ sản xuất
trong nước,...) và các quy định của Nhà nước về sản xuất, lưu thông và quản
lý thị trường; (2)tôn trọng luật pháp và tập quán thương mại quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết với bên ngoài;(3)bảo đảm tự chủ kinh doanh của các
doanh nghiệp trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước
và ngoài nước, đồng thời bảo đảm sự kiểm soát của nhà nước.
1.2 Nội dung hoạt động xuất nhập khẩu
Như đã khẳng đinh ở trên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá báo giờ
cũng phức tạp hơn và chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với hoạt động buôn bán
trong nước bởi phạm vi buôn bán rộng và giữa các bên có thể rất khác nhau
về luật pháp, phong tục tập quán,... Các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động
xuất nhập khẩu cũng như bất kỳ các doanh nghiệp khác đều mong muốn mình
có được lợi nhuận càng cao càng tốt. Vậy để thu được lợi nhuận cao thì mỗi
doanh nghiệp kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu có những biện pháp khác
nhau, tuy nhiên để kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả thì bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng cần phải thực hiện theo các nội dung sau:
1.2.1. Nghiên cứu thị trường
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Cũng như bất kỳ hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp, hoạt động
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng rất cần thiết phải nghiên cứu thị trường, nó
quyết định sự thành bại của một hoạt động của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị
trường là quá trình tìm hiểu xem xét có hệ thống cùng với sự phân tích thông
tin cần thiết để giải quyết các vấn đề marketing.
Nghiên cứu thị trường bao gồm: nghiên cứu về môi trường pháp luật,
kinh tế chính trị, văn hoá và con người (hành vi tiêu dùng), môi trường cạnh
tranh. Từ việc nghiên cứu này, doanh nghiệp sẽ đưa ra kế hoạch xuất nhập
khẩu sao cho tận dụng tối đa các ưu thế và điểm mạnh của doanh nghiệp, hạn
chế tốt nhất nhưng bất lợi và điểm yếu của doanh nghiệp; điều chỉnh hoạt
động của doanh nghiệp sao cho phù hợp và thích nghi được những đòi hỏi của
thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một hoạt động rất khó kiểm soát. Nó có nhiều
cấp độ khác nhau, phạm vi khác nhau. Vì thế doanh nghiệp phải tổ chức các
hoạt động nghiên cứu thị trường một cách khoa học và hợp lý để tránh sự lãng
phí, gây tốn kém mà không đạt hiệu quả.
Từ hoạt động nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp xác định nguồn
hàng xuất dùng để xuất nhập khẩu và lựa chọn đối tác kinh doanh. Khi muốn
xác định đối tác kinh doanh của doanh nghiệp mình thì phải tìm hiểu kỹ đối
tác thông qua các mối quan hệ bạn hàng hoặc qua các cơ quan tư vấn, cơ sơ
giao dịch hoặc văn phòng thương mại đặt tại nước đối tác.
1.2.2. Đàm phán ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
a)Giao dịch đàm phán
Các phương pháp giao dịch chủ yếu được sử dụng trong kinh doanh
xuất nhập khẩu hiện nay bao gồm:
- Giao dịch thông thường
- Giao dịch qua trung gian mà các trung gian buôn bán bao gồm: các
Đại lý, các môi giới, buôn bán đối lưu, đấu giá quốc tế, Giao dịch tại sở giao
dịch hàng hoá, dịch vụ tai hội trợ triển lãm, gia công quốc tế và tái xuất.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa
các nhà Kinh doanh xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Để
cuộc đàm phán có kết quả theo như mong muốn của mình người đàm phán
phải biết kết hợp giữa chuyên môn, sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình.
Đàm phán trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các hình thức
sau:
- Đàm phán trực tiếp: Hai bên gặp trực tiếp để đàm phán và thảo luận
những điều khoản của hợp đồng. Đây là hình thức đàm phán nhanh chòng và
rõ ràng nhất nhưng khá tốn kém.
- Đàm phán giao dịch qua thư tín: đây là hình thức giao dịch ít tốn kém
nhưng tốn rất nhiều thời gian.
- Đàm phán giao dịch qua điện thoại: đây là hình thức giao dịch khá
tiện lợi trong thời đại thông tin hiện nay.
Đàm phán cũng là một quá trình bao gồm các bước sau:
- Chào hàng: là việc nhà kinh doanh giới thiệu mặt hàng xuất khẩu
cùng với điều kiện bán hàng kèm theo.
- Hoàn giá (mặc cả): Là khi bên nhập khẩu nhận được lời chào hàng
của bên xuất khẩu nhưng không chấp nhận mức giá chào hàng mà đưa ra một
mức giá mới để thương lượng.
- Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn của tất cả các bên đưa ra.
- Xác nhận: là việc xác nhận lại những điều kiện mà hại bên đã thoả
thuận trước đó để tiến tới ký kết hợp đồng
Kết quả của việc đàm phán sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng xuất nhập
khẩu. Hợp đồng xuất nhập khẩu là căn cứ pháp lý để ràng buộc các bên phải
thực hiện các điều kiện đã thoả thuận ở trên.
b) Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
Hợp đồng trong Kinh doanh xuất nhập khẩu bảo đảm quyền lợi cho cả
hai bên trước pháp luật, quy định rõ trách nhiệm của mỗi bên, tránh những
biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm. Sau khi hợp đồng đã
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
được ký kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên ký kết trong hợp đồng
đã được thiết lập các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên
ký kết tổ chức thực hiện hợp đồng, tiến hành sắp xếp việc phải làm, ghi thành
bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại những diễn
biến các văn bản phát đi và nhận được để xử lý giải quyết cụ thể.
1.2.3. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu
Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu là quá trình mà mỗi bên phải thực
hiện các công việc theo đúng hợp đồng đã quy định từ ngay sau khi ký kết
hợp đồng đến khi thanh lý hợp đồng.
Các công việc của hợp đồng xuất khẩu: Thực hiện công việc đầu của
khâu thanh toán, xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu, kiểm
tra hàng xuất khẩu, thuê phương tiện vận tải, mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất
khẩu, giao hàng cho bên vận tải, lập bộ chứng từ thanh toán, khiếu nại (nếu
có) thanh lý hợp đồng.
Các công việc của hợp đồng nhập khẩu: Mở thư tín dụng (L/C) thống
nhất với các điều khoản của hợp đồng, phái tầu tiếp nhận vận chuyển hàng
hóa, làm bảo hiểm vận chuyển hàng hóa, kiểm tra chứng từ và trả tiền, khai
báo hải quan, nghiên thu hàng hóa và chuyển giao hàng hóa, và bồi thường
(nếu có)
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt đồng kinh tế tương đối
phức tạp, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố, nếu xét hoạt động xuất nhập khẩu của một doanh nghiệp thì có thể
chia các yếu tố này thành hai nhóm: nhóm yếu tổ ngoài doanh nghiệp và
nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp.
2.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
2.1.1. Yếu tố pháp luật.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà
nước đặt ra và bảo vệ. Mọi hành vi mọi cử chỉ đều phải nhất nhất tuân theo
pháp luật. Vì thế hoạt động xuất nhập khẩu cũng là một hoạt động cần thiết
phải tuân thủ đầy đủ các điều lệ của luật pháp ban hành.
Với phạm vi rộng lớn, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với sự tham
gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. ở mỗi một quốc gia đều có
những bộ luật riêng, trình độ lập pháp, hành pháp, tư pháp phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Ví dụ với các trình độ khác nhau của nền
kinh tế mỗi nước lại có sự khác nhau của luật thuế xuất khẩu... Các yếu tố luật
pháp không chỉ chi phối tới hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc gia đó
mà còn chi phối với tất cả các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Như vậy để có thể tham gia va phát triển hoạt động thương mại quốc tế
thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu hết sức sâu sắc về pháp luật của chính
quốc gia của mình và pháp luật của nước đối tác cùng các thông lệ quốc tế
hiện hành, các yếu tố này là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động Kinh
doanh thương mại của doanh nghiệp này, nó có thể tạo ra những thách thức
cũng như những thuận lợi đối với hoạt động thương mại của doanh nghiệp.
Từ việc hiểu biết về các luật này doanh nghiệp có thể có những phương thức
hành động của mình để tranh thủ được các thuận lợi và đẩy lùi được những
thách thức đối với hoạt động thương mại quốc tế của doanh nghiệp, và từ đó
đưa hoạt động Kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp phát triển.
2.1.2. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, các vấn
đề lạm phát, thuế quan là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đối với mọi hoạt động
kinh tế. Yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu ở
cả tầm vĩ mô và vi mô: Tầm vĩ mô, các yếu tố kinh tế tác động đến đặc điểm
và sự phân bố các cơ hội Kinh doanh quốc tế và quy mô thị trường quốc tế;
tầm vi mô, các yếu tố kinh tế lại ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Với xu hướng phát triển đi lên của nền kinh tế, với xu thế hội nhập toàn
cầu, với sự đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ thương mại quốc tế, xoá
bỏ dàn các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo sự liên kết kinh tế quốc
dân ở tầm khu vực và thề giới. Chính những điều này đã tạo ra rất nhiều cơ
hội cũng như thử thách cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
2.1.3. Yếu tố về khoa học và công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố luôn gắn liền với sự chuyên môn hoá, mà
hoạt động xuất nhập khẩu cũng là hoạt động được bắt nguồn từ sự chuyên
môn hoá sản xuất của mỗi nước. Vì thế khi khoa học phát triển thì chuyên
môn hoá càng cao và như vậy thì hoạt động xuất nhập khẩu càng được chú
trọng và phát triển.
Hoạt động lưu thông hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động sản
xuất hàng hoá bởi lẽ tốc độ của lưu thông nhanh hay chậm phu thuộc rất lớn
vào chất lường và giá cả của hàng hoá mà những yếu tố này của hàng hoá
được quyết định bới yếu tố khoa học kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất
hàng hoá. Một sản phẩm được sản xuất ra từ một công nghệ tốt sẽ có chất
lượng cao và có gia thành hạ, vì thế lưu thông nó sẽ tốt hơn. Hoạt động xuất
nhập khẩu cũng vậy, chịu ảnh hưởng hết sức sâu sắc từ yếu tố khoa học và
công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ còn tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có cả sự nhạy bén trong việc nhận biết thông tin, sự kiện xảy ra
xung quanh, giúp doanh nghiệp hiểu được thị hiếu, nhu cầu, sở thích của
khách hàng để từ đó đưa ra phương án thích hợp với sự biến đổi của thị
trường, từ đó có những phương án hợp thời đại không bị đi chậm so với đối
thủ và không bị lạc hậu so với thời đại.
Khoa học công nghệ giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chính
xác về bạn hàng, khách hàng, đối tác làm ăn về các phương diện, từ đó có thể
hạn chế được sự rủi ro trong kinh doanh.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Ngày nay, khoa học công nghệ luôn là yếu tố cần và đủ để hoạt động
kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng tiếp tục tồn tại và
phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu khi các đối thủ cạnh tranh của
mình không chỉ là các đối thủ trong nước mà bao gồm cả các đối thủ nước
ngoài với bề dày và sự phát triển rất khác nhau.
2.1.4. Yếu tố chính trị
Một môi trường chính trị ổn định chính là điều kiện cần thiết để các
hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển lâu dài.
Yếu tố chính trị có thể là những yếu tố khuyến khích hoặc hạn chế đối
với hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thiết lập các quan
hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị
trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu. Nhưng
ngược lại, sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh
tế và bóp nghẹt các mối giao lưu kinh tế giữa trong nước với nước ngoài.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay sự bất ổn về chính trị và cuộc chiến
tranh sắc tộc diễn ra mạnh mẽ. Tại đây sự an toàn trong kinh doanh là không
cao hoặc không có. Điều này đã và đang sẽ buộc các doanh nghiệp phải tạm
ngừng hoạt động kinh doanh của mình bởi vì họ đang đánh giá lại cơ hội kinh
doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn lực sang các thị trường khác có độ
an toàn tao hơn.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hỗn
hợp, Việt nam cũng như các nước tiến hành "mở cửa" nền kinh tế với sự hỗ
trợ của nhà nước về giá cả, tạo ra một cơ chế định giá theo thị trường tức là
được xác định theo quy luật cung cầu, sự chuyển đổi này ảnh hưởng đến
cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường thế giới
và mở ra cơ hội kinh doanh mới trong các thị trường bị hạn chế trước đây.
Các doanh nghiệp không có phản ứng linh hoạt, tất yếu phải chịu sự "đào thải
tự nhiên" của thị trường.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Với các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu
thụ sản phẩm và mở ra cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Song chính
các yếu tố chính trị có thể lại là rào chắn giới hạn sự tự do trên thị trường thế
giới của doanh nghiệp.
2.1.5. Các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội
Yếu tố văn hoá xã hội có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu thị trường, nó
có tính chất quyết định đến sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu của
mỗi nước, đặc biệt là thành phần hàng hoá tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu của một nước. Yếu tố văn hoa xã hội có thể kể đến là lối sống, phong
tục, tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ và đặc biết là thị hiếu tiêu dùng.
Hoạt động xuất nhập khẩu được coi là một hoạt động phức tạp vì phạm
vi của nó là rộng lớn-vượt qua phạm vi một nước vì thế yếu tố văn hoá xã hội
chi phối hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ là văn hoá của một nước mà là
văn hoá của nhiều nước cùng tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu đó. Mà
mỗi một nền văn hoá có một đặc trưng khác nhau. Để có thể xúc tiến hoạt
động xuất nhập khẩu với một nước thì chủ thể tham gia phải có bước tìm hiểu
nền văn hoá của nước đối tác của mình.
2.1.6. Các yếu tố về đồng tiền thanh toán
Khác với các hoạt động mua bán đơn giản khác, hoạt động xuất nhập
khẩu phụ thuộc khá lớn vào đồng tiền thanh toán. Đồng tiền thanh toán đước
lựa chọn trong hoạt động xuất nhập khẩu bao giờ cũng là ngoại tệ đối với một
nước. Khi đồng tiền được lựa chọn là phương tiện thanh toán này bị biến
động thì một trong hai bên sẽ bị phương hại.
Khi một hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết thì đồng tiền được lựa
chọn là phương tiện thanh toán là đồng tiền của bên nhập với một thời hạn
thanh toán nhất định. Đến hạn thanh toán, đồng tiền được lựa chọn này giảm
giá so với đồng tiền của bên xuất thì bên xuất sẽ bị thiệt và ngược lại. Hoạt
động xuất nhập khẩu tiếp tục hay ngừng trệ điều này phụ thuộc vào sự thay
đổi tỷ giá giữa hai đồng tiền thanh toán làm cho họ được bảo toàn hay không
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
được bảo toàn.Một đồng tiền có giá trị ổn định luôn là một yếu tố cần để duy
trì sư hoạt động của hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi nước. Chính sách tỷ
giá hối đoái cân bằng linh hoạt và được điều chỉnh theo giá cả thị trường là
chính sách hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của hai bên xuất khẩu và nhập
khẩu.
2.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Trong mọi hoàn cảnh vẫn tồn tại những doanh nghiệp có hoạt động
xuất nhập khẩu phát triển vững mạnh và cũng có doanh nghiệp có hoạt động
xuất nhập khẩu bị ngừng trệ. Điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp không chỉ chịu tác động hết sức mạnh mẽ từ môi trường vĩ mô
mà còn chịu sự tác động trực tiệp của các yếu tố thuộc về doanh nghiệp. Các
yếu tố này bao gồm:
2.2.1. Ban lãnh đạo của doanh nghiệp
Đây là bộ phận "đầu não" của doanh nghiệp, quyết định chiện lược
Kinh doanh của doanh nghiệp-đề la mục tiêu và phương thức thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp, đồng thời chịu trách nhiệm giám sát, kiểm tra và đánh
giá việc thực hiện chiến lược đó. Với sự phức tạp của hoạt động xuất nhập
khẩu, việc đòi hỏi một ban lãnh đạo tài tình, mạnh dạn và quyết đoán là rất
cần thiết.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy
Cơ cấu tổ chức là sư sắp xệp các bộ phận của doanh nghiệp để thực
hiện kế hoạch đặt ra của doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ
nhiễu trong sự truyền tải thông tin tư ban lãnh đạo đến các thành viên trong
doanh nghiệp và ngược lại. Một cơ cấu hợp lý còn giúp sửa đổi bổ sung lượng
thông tin kịp thời, chính xác, thích hợp, đồng thời tiết kiệm chi phí.
Đối với mỗi quy mô của một doanh nghiệp với mỗi hoạt động Kinh
doanh của doanh nghiệp cần có một cơ cẩu tổ chức hợp lý để phát huy được
sức mạnh của ban lãnh đạo, tránh sự chồng chéo trong quản lý tạo sự hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Cơ cấu tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện kế hoạch của
hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Trong hoạt động xuất nhập khẩu
rất quan trọng yếu tố uy tín đối với đối tác để duy trì quan hệ hợp tác. Cơ cấu
tổ chức hợp lý sẽ giúp việc thực hiện kế hoạch đúng theo các khoản mục hợp
đồng đã ký cả về chất lượng. số lượng, thời gian đảm bảo chữ tín đối với đối
tác.
2.2.3. Nguồn lực của doanh nghiệp
Hoạt động xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành khi có sự nghiên cứu về
thị trường như: nghiên cứu hàng hoá, về bạn hàng, về phương thức giao dịch,
đàm phán ký kết hợp đồng. Do đó, vấn đề ở đây là phải có một đội ngũ cán bộ
Kinh doanh giỏi năng động có chuyên môn trong lĩnh vực này, họ có khả
năng phân tích và giải quyết các thủ tục hành chính trong xuất nhập khẩu.
Ngoài ra doanh nghiệp rất cần có một nguồn lực tài chính đủ lớn để có thể
thực hiện các công việc như nghiên cứu thị trường, các hoạt động
marketing...quảng cáo nhằm tạo ra sức mạnh thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu phát triển.
2.2.4. Các nguồn lực khác
Hệ thống cơ sở vật chất là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao như: văn phòng, nhà xưởng, máy
móc và các trang thiết bị cho sản xuất sản phẩm đối với các doanh nghiệp sản
xuất có hoạt động xuất khẩu.
3. Các hình thức xuất nhập khẩu
3.1. Các hình thức xuất khẩu
3.1.1. Xuất khẩu trực tiếp
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng
nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình thức này được nhiều doanh
nghiệp sản xuất khi đã đủ mạnh muốn đưa các sản phẩm của mình ra thị
trường nước ngoài. Tuy rủi ro kinh doanh là lớn hơn nhưng nó lại có khả năng
mang cho doanh nghiệp lợi nhuận cao hơn rất nhiều nhờ giảm bớt chi phí
trung gian và nắm bắt kịp thời thông tin về biến động thị trường để có những
biện pháp đối phó.
3.1.2. Xuất khẩu gián tiếp
Là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt
ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước
ngoài. Hình thức này thích hợp đối với các doanh nghiệp mới tham gia vào thị
trường quốc tế, chưa đủ sức mạnh để tự khẳng định mình. Ưu điểm của của
hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp không phải bỏ chi phí ra để đưa sản
phẩm của mình ra thị trường nước ngoài và không tốn chi phí quảng cáo
marketing và chi phí bán hàng...Hơn nữa nó còn hạn chế được rủi ro so với
xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên nhược điểm là nó làm giảm lợi nhuận cho các
tổ chức trung gian, do mọi hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài đều thông qua
các tổ chức trung gian nên các thông tin về giá cả, về hàng hoá trên thị trường
quốc tế còn hạn chế nên chậm thích ứng được với sự biến động của thị
trường.
3.1.3. Xuất khẩu theo nghị định
Đây là hình thức xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho về một số
mặt hàng nhất định do chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký
kết giữa hai chính phủ.
3.1.4. Gia công quốc tế
Là hình thức xuất khẩu mà ở đó bên nhận gia công đã nhập nguyên vật
liệu hoặc bán Thành phẩm của bên đặt gia công để Chế biến Thành phẩm rồi
giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao. Ngày nay đây là hình thức xuất
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
khẩu diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển với lượng lao động đông
đảo, giá rẻ.
3.1.5. Tái xuất khẩu
Là việc xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu về
nhưng chưa tiến hành các hoạt động Chế biến. Để có hoạt động tái xuất khẩu
thì phải đòi hỏi có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu-nước tái xuất
khẩu-nước nhập khẩu.
3.2. Các hình thức nhập khẩu
3.2.1. Nhập khẩu kinh doanh
Là hoạt động nhập khẩu nhằm có được hàng hoá để kinh doanh. Hình
thức này hình thành khi một doanh nghiệp thực hiện hai hợp đồng diễn ra:
một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài (bên xuất khẩu) để mua hàng hoá, và
hợp đồng bán hàng hoá với doanh nghiệp trong nước và nhu cầu hàng hoá đó.
Với nhập khẩu kinh doanh doanh nghiệp được tính vào kim ngạch nhập khẩu.
3.2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Là hoạt động nhập khẩu mà doanh nghiệp nhập khẩu (bên nhận uỷ
thác) tiến hành nhập khẩu dựa trên cơ sở đơn đặt hàng của doanh nghiệp nhà
nước (bên uỷ thác). Trong đó bên nhận uỷ thác hoạt động trên danh nghĩa của
mình để nhập khẩu. Còn mọi chi phí nhập khẩu do bên uỷ thác chịu và phải
chịu trách nhiệm với bên xuất trong phạm vị hợp đồng. Đồng thời bên nhận
uỷ thác phải cùng chịu mọi trách nhiệm trong phạm vi hợp đồng uỷ thác với
bên uỷ thác.
3.2.3. Nhập khẩu trên cơ sở liên doanh
Là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện
giữa các bên liên doanh (có ít nhất một bên có chức năng xuất nhập khẩu).
Bên có chức năng xuất khẩu sẽ đứng ra nhập khẩu trên cơ sở phối hợp với các
bên liên doanh sẽ phân chia quyền lợi và trách nhiệm trong phạm vi góp vốn
của mình.
3.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Đây là hình thức của buôn bán đối lưu. Việc nhập khẩu thay vì thanh
toán bằng tiền tệ là thanh toán bằng hàng hoá với một giá trị tương đương
hàng hoá nhập khẩu.
3.2.5. Nhập khẩu tái sản xuất
Hình thức này gần giống nhập khẩu kinh doanh, song điểm khác là
nhập khẩu thay vì tiêu thụ trong nước thì lại để xuất khẩu sang một nước thứ
ba (hàng hoá này không qua Chế biến ở nước tái sản xuất).
III. QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA CỦA
DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU
1. Đặc điểm của doanh nghiệp Kinh doanh xuất nhập khẩu
8
Là một hình thức kinh doanh của doanh nghiệp, vị thế doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu cũng mang những đặc điểm chung của doanh
nghiệp bình thường như đã nói như ở trên. Ngoài ra do tính chất phức tạp và
phạm vi hoạt động rộng của nó nên nó có một số đặc điểm riêng biệt như:
- Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được hiểu là doanh nghiệp
có những hoạt động giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất, nhập khẩu
hàng hoá và dịch vụ với bạn hàng nước ngoài.
- Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải có giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương mại và Du lịch cấp. Có hai loại doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu:
+ Loại doanh nghiệp sản xuất
+ Loại doanh nghiệp kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp chuyên
buôn bán, chuyên làm dịch vụ (như du lịch, giao dịch. vận chuyển...) hoặc
vừa buôn bán vừa sản xuất.
- Điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu là:
*Trước tiên doanh nghiệp phải được thành lập theo đúng luật pháp
* Kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi
thành lập doanh nghiệp.
8
Nguồn tham khảo: TLTK 3 trang 40 - 103
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
* Điều kiện về vốn:
+Đối với doanh nghiệp sản xuất thì không cần thiết phải xét đến điều
kiện về vốn
+ Đối với doanh nghiệp kinh doanh, thì phải có vốn lưu động trong vốn
pháp định tối thiểu là 200.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu có trụ sợ chính tại khu vực nào thì xin
giấp phép tại phòng giấy phép khu vực đó, nhưng có thể làm thủ tục hải quan
tại bất kỳ cửa khẩu nào của Việt nam. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu qua tất cả các cửa khẩu và các
cảng trong cả nước.
- Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, không phân biệt thành
phần kinh tế, không kể kim ngạch xuất khẩu nhiều hay ít, được xuất khẩu các
sản phẩm do mình tự sản xuất ra, được nhập khẩu vật tư, nguyên liệu phục vụ
trực tiếp cho sản xuất của doanh nghiệp mình. Còn các doanh nghiệp Kinh
doanh xuất nhập khẩu thì được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành
nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, ngoài việc phải chấp hành
theo đúng luật pháp Việt nam, thì còn phải tuân thủ theo đúng các điều ước
quốc tế mà Việt nam tham gia và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế.
- Đối với các Chi nhánh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
+ Việc thành lập các Chi nhánh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc
quyền của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Các Chi nhánh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu không được coi là
chủ thể Kinh doanh xuất nhập khẩu độc lập và không phải là đơn vị được cấp
giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo các quy chế của Bộ Thương
nghiệp mà chi là một bộ phận kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, chịu
sự chi phối của công ty.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
+ Các Chi nhánh chỉ được hoạt động xuất nhập khẩu trên cơ sở kế
hoạch xuất nhập khẩu của đơn vị chủ quản đã đăng ký với Bộ Thương nghiệp,
trong đó có phần trích giao cho Chi nhánh.
2. Sự cần thiết của quản lý hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của
doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Như ta đã biết, xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại
những hiệu quả đột biến (hoặc rất cao hoặc rất thua thiệt) vì nó phải đối đầu
với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham
gia vào không dễ dàng khống chế được. Nó đòi hỏi rất cao sự tình toán tỉ mỉ,
sự khôn khéo (nhiều khi phải nhân nhượng).
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ mang lại rất
nhiều điều lợi nhưng cũng không ít những hạn chế. Để đem lại hiệu quả cao,
thì điều cốt lõi là phải phát triển những cái có lợi và hạn chế những cái bất lợi:
- Những điểm có lợi mà hoạt động xuất nhập khẩu đem lại cho doanh
nghiệp là:
+ Nó tạo cơ hội rất nhiều cho các doanh nghiệp kiếm được những
nguồn lợi nhuận khổng lồ mà các hoạt động kinh doanh buôn bán trong nước
không thể có được.
+ Nó sẽ phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người trong
doanh nghiệp khi mà với áp lực cạnh tranh lớn hơn rất nhiều khi chưa có hoạt
động xuất nhập khẩu bởi sự cạnh tranh này không chỉ dừng lại ở biên giới
một nước.
+ Tạo sự cạnh tranh, sự giám sát chặt chẽ giữa doanh nghiệp (bên xuất
và bên nhập) tham gia từ đó hạn chế khắc phục sự lạc hậu của mỗi bên.
+ Hình thành các liên kết liên doanh giữa các chủ thể trong nước và
nước ngoài.
+ Xoá bỏ sự lạc hậu, và sự kém cỏi cả về kỹ thuật, ký năng, phong cách
làm việc...
+ Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các khách hàng.
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Khoa học Quản lý
Với những lợi ích khá lớn này đem lại thì việc đưa những hoạt động
xuất nhập khẩu vào trong các hoạt động kinh tế là một tất yếu, và là một sự
cần thiết. Song bên cạnh những lợi ích cực kỳ lớn lao ấy, lại có thể dẫn đến
hàng loạt những bất lợi:
- Những điểm bất lợi của hoạt động xuất nhập khẩu đem lại cho doanh
nghiệp
+Vì tồn tại cạnh tranh, tất yếu dẫn đến rối rem, tranh chấp, bên nào
cũng muốn dành thật nhiều lợi nhuận về bên mình dẫn tới sự thôn tính, triệt
hạ lẫn nhau giữa các chủ thể Kinh doanh bằng các biện pháp xấu mà xã hội
không thể chấp nhập được, các doanh nghiệp mà không nhanh nhạy thì rất dễ
dàng bị lợi dụng và bị triệt hạ ngay lập tức. Sự cạnh tranh gay gắt dẫn đến
những áp lực rất lớn của doanh nghiệp khi muốn thực hiện hoạt động xuất
nhập khẩu: phải có tiệm lực kinh tế đủ lớn; đối với các doanh nghiệp muốn
tham gia xuất khẩu thì chất lượng sản phẩm mình xuất khẩu phải tốt, giá cả
hợp lý, ...Điều này không dễ dàng một tý nào cả, không phải doanh nghiệp
nào cũng thực hiện được điều ấy.
Hơn nữa với những điều kiện rất khác nhau của mỗi đất nước cả về
điều kiện tự nhiên, con người và cả pháp luật (với những văn bản xuất nhập
khẩu, những quy đinh hải quan, chính sách thuế xuất nhập khẩu, chính sách
khuyến khích xuất nhập khẩu, rồi các vấn đề hạn ngạch thuế qua,...) nó có tác
động rất lớn đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Cần phải phân tích thật kỹ
càng những nhân tố này để có thể tận dụng được những cái có lợi và hạn chế
được những cái bất lợi.
Quả thực không phải muốn tham gia vào là sẽ mang lại lợi nhuận ngay
mà có thể kết quả sẽ ngược lại hoàn toàn. Dĩ nhiên, ngày nay trong làm ăn
kinh tế không thể có giải pháp nào chọn vẹn, chỉ có được mà không có mất.
Muốn có lợi nhuận cao, ngoài việc phải mạnh dạn bước ra khỏi cái khuôn khổ
biên giới đất nước để tiến đến tìm được các khoản lợi nhuận khổng lồ, thì còn
Nguyễn Thị Thanh Nga Lớp Quản lý Kinh tế 44B
25