Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.54 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
=======&=======

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

Đề tài:
Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ ra ý nghĩa
của nguyên tắc này trong quản lí hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Họ và tên: Nguyễn Thị Thảo
Mã số SV: 361142
Lớp

: N17 – TL4

Nhóm

: B1


Hà Nội, tháng 06/2012
MỤC LỤC
Trang
Mục lục........................................................................................................ 1
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................. 1
B. NỘI
1
DUNG.......................................................................................


I.
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
1
CHỦ..................................
1. Khái niệm nguyên tắc tập trung dân chủ........................................... 1
2. Sự cần thiết tất yếu trong việc phải áp dụng nguyên tắc tập trung
dân chủ trong hoạt động quản lí nhà nước...................................... 1
3. Cơ sở pháp lí..................................................................................... 1
II.
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ
1
TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.....................
1. Sự phụ thuộc của cơ hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực
Nhà nước cùng cấp........................................................................... 1
2. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung
ương.................................................................................................. 1
3. Việc phân cấp quản lý....................................................................... 1
4. Hướng về cơ sở................................................................................. 1
5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương.............................................................................................. 1
III. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY........................................................................ 1
IV. THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ................................................................................... 1
1. Thực trạng việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ.................... 1

2. Phương hướng nâng cao hoạt động quản lí hành chính nhà nước
Việt Nam nhằm đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ................... 1
C. KẾT LUẬN...................................................................................... 1
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................... 1
2


A. LỜI MỞ ĐẦU
Quản lí hành chính nhà nước là một hoạt động có mục đích. Những mục
đích, mục tiêu cơ bản định ra trước cho hoạt động quản lí và kết quả của việc đạt
được mục đích, mục tiêu đó phản ánh hiệu quả của việc quản lí. Để hoạt động quản
lí hành chính nhà nước có hiệu quả thì phải được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức
và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thực hiện có hiệu
quả các công việc của mình trên các lĩnh vực được phân công. Ðặc biệt, khi Luật
hành chính thực định vẫn còn chưa được tập trung - chỉ là tập hợp các văn bản về
quản lí nhà nước, tồn tại dưới nhiều hình thức văn bản pháp lí có tính ổn định
không cao, thì nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước là một đòi hỏi bức thiết và
sự tuân thủ hệ thống các nguyên tắc càng đòi hỏi chặt chẽ.
Trên thực tế, việc tiến hành hoạt động quản lí hành chính nhà nước cần phải
dựa trên rất nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác nhau trong đó nguyên tắc
tập trung dân chủ được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
quản lí hành chính nhà nước. Nguyên tắc tập trung – dân chủ trong lí luận cũng như
thực tiễn đã mang lại nhiều thành tựu lớn cho hoạt động quản lí nhà nước. Nhằm
giúp nắm vững kiến thức và có cách hiểu sâu sắc về nguyên tắc tập trung dân chủ,
những biểu hiện và ý nghĩa của nó trong quản lí hành chính nhà nước, em xin đi
sâu nghiên cứu đề tài: “Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ ra ý nghĩa
của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.

3



B. NỘI DUNG
I.

NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ

1. Khái niệm nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Hiện nay có rất nhiều quan điểm về nguyên tắc
này, trong đó quan điểm cho rằng “nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hai
mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước,
vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân
chủ dưới sự lãnh đạo tập trung” được đánh giá là đúng nhất về bản chất và nội
dung của nguyên tắc này.
Dân chủ là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, có đảm bảo dân chủ mới có
thể tập trung sức mạnh của tập thể và phát huy trí tuệ, phát huy tính chủ động và
sức sáng tạo của nhân dân. Quản lí nhà nước, quản lí xã hội đòi hỏi phải có sự tập
trung quyền lực, có tập trung quyền lực mới quản lí được xã hội, thiết lập được trật
tự xã hội. Vì vậy, tập trung phải đi liền với dân chủ. Tập trung và dân chủ là hai
mặt của một thể thống nhất không thể tách rời, chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập
trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngược lại,
nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho
hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Do vậy, bất kỳ sự nhấn mạnh hay
coi nhẹ một mặt nào của nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu lực và hiệu quả
trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Sự nhầm lẫn và thực hiện không đúng
nguyên tắc này đã tạo ra một thứ tập trung giả hiệu không trên cơ sở dân chủ, cũng
giống như cố tình tạo ra một thứ dân chủ hình thức không dựa trên cơ sở tập trung.
Ở nước ta, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ được áp dụng trong tổ chức

và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam
mà còn được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức chính trị xã hội khác. Sự kết hợp giữa các mặt của nguyên tắc này phụ thuộc vào tính chất
các cơ quan, trình độ quản lí, điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước.
Trong quản lí hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền

4


lực Nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo thực hiện pháp luật một
cách thống nhất. Dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí
nhằm phát huy trí tuệ tập thể vào hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng
của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện pháp luật. Cả hai yếu tố này phải có
sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau, chúng có sự qua lại phụ thuộc và
thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính Nhà nước.
2. Sự cần thiết tất yếu trong việc phải áp dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong hoạt động quản lí nhà nước
Một là, xuất phát từ mục đích, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm
bảo thực hiện quyền lực và lợi ích làm chủ xã hội của nhân dân lao động. Muốn
cho nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí quyền lực của nhân
dân, trở thành nhà nước của dân, do dân và vì dân thì phải tập trung dân chủ trong
quản lí.
Hai là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng Sản lãnh đạo muốn thực hiện
đường lối, Nghị quyết của Đảng, muốn thể chế hoá các đường lối đó để đưa vào
cuộc sống có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân và toàn xã hội phải thực hiện tập
trung dân chủ trong quản lí, điều hành, kiểm tra, giám sát từ trên xuống, đảm bảo
cho hoạt động của Nhà nước, của xã hội có tổ chức, có nề nếp, kỷ luật, ăn khớp
nhịp nhàng như một bộ máy. Tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị của Đảng
cộng sản, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước chịu sự lãnh đạo
của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được biểu hiện một cách trực

tiếp và thực hiện thông qua tổ chức Đảng và các Đảng viên hoạt động trong cơ
quan nhà nước. Do đó, tập trung dân chủ từ một nguyên tắc lãnh đạo chính trị trở
thành một nguyên tắc trong quản lí, điều hành.
Ba là, chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo, có tổ chức cao, đầy tính tự giác,
chủ động tích cực của quần chúng. Chỉ có áp dụng quản lí hành chính mới đảm bảo
cho quần chúng nhân dân có điều kiện tham gia quản lí, kiểm tra giám sát ngày một
sâu rộng, có hiệu lực và công việc của nhà nước. Chỉ có áp dụng tập trung dân chủ
trong hoạt động quản lí nhà nước thì chế độ nhà nước mới thực sự phát triển thành
một chế độ dân chủ.
3. Cơ sở pháp lí
Nguyên tắc tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống nguyên tắc
quản lí nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này đã được quy định tại Điều 4

5


Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ
sung năm 2001, sau đây xin phép được gọi tắt là Hiến pháp) “…Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa
cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác định là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
II.

NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG
QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực
Nhà nước cùng cấp
Theo Điều 6 Hiến pháp:“Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua

Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Như
vậy, Hiến pháp nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực
đó. Ðể thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương được thành lập và nó luôn có sự phụ
thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
 Cơ quan quyền lực Nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc
thành lập, bãi bỏ các cơ quan hành chính Nhà nước:
Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp.
Theo Điều 109 Hiến pháp quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn
đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó
Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ (khoản 7 Điều 84 Hiến pháp).
Ở địa phương, Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực
hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương (Điều 123 Hiến pháp,
Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2003).

6


Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước như Bộ, cơ
quan ngang Bộ... đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết
định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ (khoản 8 Điều 84 Hiến pháp).
 Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo,
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động
của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Điều 1 Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2001 quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo

công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội”. Quy định trên đảm bảo tính
tập trung quyền lực nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc
hội.
Như vậy, tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan
do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Yếu tố dân chủ được thể hiện rõ
nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho cơ
quan hành chính Nhà nước trong qua trình cơ quan này chỉ đạo thực hiện pháp luật
và các văn bản khác của cơ quan quyền lực.
2. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương.
Sự phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Nhờ
có sự phục tùng này mà cấp trên và trung ương có thể tập trung quyền lực để chỉ
đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Nếu thiếu sự phục tùng đó
sẽ dẫn đến việc buông lỏng lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và cấp trên,
làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
Cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện theo tất cả các yêu cầu và
mệnh lệnh của cấp trên và trung ương. Tuy nhiên đây không phải là sự phục tùng
vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định
của pháp luật. Cấp trên, trung ương phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương
về công tác tổ chức hoạt động và về các vấn đề khác của quản lí hành chính nhà
nước. Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo
nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được “thẩm
quyền cấp mình”. Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm
mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới.

7


Ví dụ: Khoản 5 Điều 23 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 có quy định về

nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ và cơ quan ngang bộ như sau:“Tổ chức bộ máy
quản lý ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ; trình Chính phủ quyết định
phân cấp nhiệm vụ quản lý nhà nước cho Uỷ ban nhân dân địa phương về nội dung
quản lý ngành, lĩnh vực”.
3. Việc phân cấp quản lý
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Hay nói cách khác, phân cấp quản lí thực chất là việc chuyển dần
các công việc, nguồn lực do cấp trên nắm giữ cho cấp dưới một cách lâu dài, ổn
định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ
động sáng tạo của cấp dưới, địa phương. Như vậy, vấn đề phân cấp quản lí gắn liền
với vấn đề dân chủ, chỉ có thể thông qua những thiết chế dân chủ, phát huy tính dân
chủ, sáng tạo của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được môi trường thuận lợi
để nhân dân kiểm soát được hoạt động của nhà nước.
Phân cấp quản lí nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cấp trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lí
tập trung, thống nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân
dân, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở từng địa phương trong điều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân cấp quản lí là một
biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ và việc phân cấp phải đảm bảo những
yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh
vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối
hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất của nhà nước
trong phạm vi toàn quốc.
Thứ hai, phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát
huy tính chủ động sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao

phó.

8


Thứ ba, phải phân cấp quản lí cụ thể, hợp lí trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì
giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lí phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại
việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên
không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả
như cấp dưới.
Ví dụ: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 26/11/2003 đã có
những quy định khá cụ thể về phân cấp quản lí cho chính quyền cấp xã t rong việc
thi hành pháp luật, quy định tại Điều 117, mục 3, chương IV: Tổ chức tuyên truyền,
giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân
dân theo quy định của pháp luật... tổ chức thực hiện các quyết định về xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Việc phân cấp quản lí hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố
và góc độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xã hội, trình độ phát triển đồng đều về
kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, trình độ dân trí, trình độ quản lí của cán bộ…
Phải cân nhắc kĩ lưỡng, hợp lí khi đưa ra quyết định về việc phân cấp quản lí và nội
dung của việc phân cấp quản lí phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của
các cấp có thẩm quyền.
4. Hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân
chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị
kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà
nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần
của người dân lao động.
Ví dụ: Xã là đơn vị hành chính cơ sở, thấp nhất trong hệ thống các đơn vị hành

chính của nước Việt Nam. Xã là điểm tụ cư của người Việt sinh sống ở vùng đồng
bằng và trung du của Việt Nam. Ở vùng núi, trước cách mạng tháng Tám gọi là
bản.
Các đơn vị cơ sở trước hết là các tế bào của nền kinh tế quốc dân, được Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, các quyền tự chủ trong sản xuất và
kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước quan tâm, giúp đỡ và cung cấp những
trang thiết bị cần thiết để các đơn vị này hoạt động một cách hiệu quả. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần có các chính sách quản lí thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt

9


động của hệ thống các đơn vị cơ sở đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị này phát
triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: Chương trình 134 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản
xuất, đất ở nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống
khó khăn; Thông tư liên tịch giữa UB dân tộc - Bộ tài chính - Bộ Kế hoạch đầu tư
về thực hiện chính sách hỗ trợ các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; Quyết định
số 102/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc giao kế hoạch vốn đầu tư phát
triển nguồn ngân sách nhà nước năm 2012;...
5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực
thuộc. Song trùng trực thuộc là việc chịu sự phụ thuộc đồng thời của hai cơ quan
cấp trên trực tiếp; một phụ thuộc theo chiều dọc và một phụ thuộc theo chiều
ngang. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ,
phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao
phó. Mối quan hệ phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà
nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất.
Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước ở địa phương và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm
pháp luật.
Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương phụ
thuộc vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp – quan hệ ngang, và phụ thuộc
vào cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp trên ở cấp trực tiếp – quan hệ dọc.
Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc vừa chịu sự quản lý của Hội đồng nhân
dân tỉnh Vĩnh phúc (theo chiều ngang), vừa chịu sự quản lí của Chính Phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (theo chiều dọc).
Cơ quan quản lí hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương (Sở,
Phòng, Ban) phụ thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung
cùng cấp (Uỷ ban nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý
hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên ở cấp trực tiếp – quan hệ
dọc. Ví dụ: Sở Tư Pháp tỉnh Vĩnh Phúc một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh Vĩnh
Phúc (theo chiều ngang), mặt khác phụ thuộc vào Sở tư Pháp (theo chiều dọc).
Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa

10


phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa
phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ.
III.

Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 Thể hiện bản chất nhà nước, bản chất giai cấp.
Điều 2 Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công dân với giai cấp

nông dân và tầng lớp tri thức”. Như vậy, bản chất nhà nước ta thể hiện cụ thể bản
chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân; bản chất giai
cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện: nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, thực hiện theo định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và
còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Do đó, việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà
nước nói chung và trong quản lí hành chính nói riêng có ý nghĩa rất lớn.
 Phản ánh quy luật khách quan của hoạt động quản lí
Hoạt động quản lí nhà nước nói chung và quản lí hành chính nhà nước xã hội
chủ nghĩa nói riêng là hoạt động có mục đích nhằm bảo vệ nhà nước, giai cấp thống
trị và quyền lợi của nhân dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản
nhằm đảm bảo mục đích của hoạt động quản lí đạt hiệu quả. Nội dung của quy tắc
này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy luật khách quan trong hoạt
động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó phản ánh sự thống nhất
giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội chủ nghĩa.
 Đảm bảo cho việc quản lí có hiệu quả cao
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trò là tư tưởng
chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Trong
quản lí hành chính, nguyên tắc này đảm bảo cho sự tập trung quyền lực nhà nước
vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một
cách thống nhất, đồng thời đảm bảo việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí
nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng
của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật. Như vậy, mặc
dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước

11


mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng
vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lí hành chính nhà nước đạt

hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiệu quả hoạt động của công tác quản lí hành chính
nhà nước.
 Đảm bảo quyền làm chủ đất nước của nhân dân có cơ sở để thực hiện
Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước có ý
nghĩa rất lớn trong việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân một cách hoàn
thiện hơn thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương.
Người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên
một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí hành
chính nhà nước. Nguyên tắc dân chủ đảm bảo thực hiện quyền lực và lợi ích làm
chủ xã hội của nhân dân lao động, làm cho nhà nước ta trở thành nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Đồng thời, việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí
hành chính nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong quản lí hành
chính nhà nước, tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.
Tuy nhiên, việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm
cá nhân, nghĩa là dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể,
trong công việc nhất định, thời gian nhất định.
IV.

THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHẰM ĐẢM
BẢO NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ

1. Thực trạng việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
a. Thành tựu
-

Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở nước ta, nhận thức của chúng ta về nội dung và yêu cầu của nguyên tắc tập trung

dân chủ trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước đã có bước đổi mới cơ bản.
Những nội dung và yêu cầu mới của nguyên tắc tập trung dân chủ đã thực sự trở
thành tư tưởng chỉ đạo cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước nói chung và đã thu
được nhiều thành tựu rất quan trọng.
-

Tổ chức cơ quan hành chính đã được cải cách theo hướng tinh giản hơn;
việc

12


phân cấp giữa các yếu tố, phân hệ trong bộ máy quản lý Nhà nước cũng từng bước
được cải thiện, tạo điều kiện cho mỗi cấp, mỗi tổ chức trong hệ thống đề cao quyền
hạn, trách nhiệm đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo trong công việc.
-

Đội ngũ công chức Nhà nước đã được quan tâm xây dựng, bồi dưỡng về

năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân...
-

Nhà nước tổ chức đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ đến đời sống vật

chất và tinh thần của hộ nghèo, dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn,...
b. Yếu kém
-

Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có khi vẫn còn mang tính hình


thức và những hạn chế trong quá trình thực hiện nguyên tắc này không chỉ riêng ở
địa phương mà còn là tình hình chung của cả nước.
-

Bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, nhiều đầu mối

rườm rà, không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
-

Tồn tại nạn tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, tệ quan liêu...

-

Tư tưởng tập trung bao cấp trong cán bộ, công chức còn khá nặng nề, nhất


các cấp dưới, địa phương. Cán bộ, công chức còn phổ biến tình trạng thụ động,
ngồi chờ sự chỉ đạo của cấp tên trong triển khai công việc quản lí, thiếu tính chủ
động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm về những gì đã làm.
c. Phương hướng nâng cao hoạt động quản lí hành chính nhà nước Việt
Nam nhằm đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ
-

Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp giữa Chính phủ và các cấp chính quyền

địa phương.
-

Xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của cơ quan


hành chính, phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực. Xây dựng
các văn bản pháp luật quy định về thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể của từng cơ
quan.
-

Giám sát, kiểm tra các hoạt động thực hiện trách nhiệm, thẩm quyền của
mỗi

cơ quan trong quan lí hành chính; phát hiện và xử phạt đối với các hành vi tham
nhũng, hành vi lợi dụng “dân chủ” để thực hiện những yêu sách vượt quá khuôn
khổ luật pháp...

13


-

Tuyên truyền, giảng giải cho cán bộ, công chức nhận thức đúng đắn nội
dung

và yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí hành chính
nhà nước.
-

Tuyển chọn đội ngũ cán bộ, công chức chất lượng, đáp ứng được nhu cầu

hoạt động quản lí hành chính nhà nước ngày nay.
-

Khuyến khích nhân dân địa phương, cấp dưới phát biểu ý kiến, lãnh đạo cấp


trên phải lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân.

C. KẾT BÀI

Trên đây là nội dung của đề tài “Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ
và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay”.

14


Danh mục tài liệu tham khảo
8/

Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.

9/

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.

11/ Hiến pháp Việt Nam 1992

15



×