Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài tiểu luận địa chí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.95 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Thể loại địa chí có một lịch sử hình thành, phát triển và tồn tại rất lâu đời. Địa
chí ra đời từ rất sớm ở phương Đông, tác phẩm địa chí cổ nhất Trung Quốc là
“Vũ cống” trong sách Thượng Thư, được biên soạn vào thời Chiến quốc (475 –
221 TCN), sau đó là cuốn Sơn hải kinh. Ở Việt Nam, địa chí cũng ra đời từ sớm,
cuốn địa chí đầu tiên là “Giao Châu dị vật chí” của Dương Phù, trong kho sách
Hán Nôm của ta, sách địa chí chiếm một số lượng khá nhiều. Ngày càng có nhiều
địa chí được biên soạn với cách trình bày phong phú về cách thức thể hiện, hoàn
thiện dần cách thức thể hiện thể loại địa chí theo cách của người Việt. Thể loại
địa chí đã có những thành tựu nhất định và đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia cũng như của các địa phương.
Bài viết này phân tích sự hình thành, phát triển và thành tựu của thể loại địa
chí Việt Nam (từ khi ra đời đến cuối thế kỷ 19). Tuy được giúp đỡ nhiều về tài
liệu tham khảo nhưng bài làm không tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy đóng
góp kiến để bài viết được hoàn thiện.

-1-


NỘI DUNG
Chương I

ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI ĐỊA CHÍ
1. Định nghĩa
Địa chí theo nghĩa gốc thì "địa" là đất, "chí" là ghi chép, "địa chí" là ghi chép về
đất.
Theo Từ điển Từ Hải thì: "Địa chí là sách ghi chép rõ các mặt địa hình, khí hậu,
cư dân, chính trị, sản vật, giao thông của một quốc gia, một khu vực thì gọi là địa
chí".
Địa dư, địa chí xuất hiện trong văn hiến Việt Nam rất nhiều, người ta thường gọi
chung là dư địa chí. Trong quá trình biên soạn, các soạn giả người Việt thường


có những quan niệm xuất nhập khác nhau, song thống nhất về mặt nội dung, gọi
là địa chí, có nghĩa là phải ghi chép về đất đai, duyên cách, phong tục tập quán
xã hội của cả nước hay của từng địa phương. Địa chí là thể loại sách ghi chép,
biên soạn, giới thiệu về địa lý, lịch sử, phong tục, nhân vật, sản vật, kinh tế, văn
hoá... của một địa phương (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố...) hay rộng hơn là
của một quốc gia. Xét về nội dung, loại sách này mang tính chất lịch sử hơn là
sách địa lý học. Theo sự phân loại trong Tứ khố toàn thư tổng mục, địa chí được
xếp vào loại địa lý thuộc sử bộ, với các sách viết về đô, hội, quận, huyện, hà cừ,
biên phòng, núi sông, cổ tích...
Nội dung của các sách địa chí đều được xây dựng trên cơ sở phản ánh ba yếu tố
cơ bản: đất đai, khí hậu, con người. Ba yếu tố này được đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ, tác động lẫn nhau theo thuyết Tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Viết địa chí
phải phản ánh được đầy đủ các yếu tố thiên, địa, nhân cùng mối quan hệ không
chia tách giữa ba yếu tố đó, địa là yếu tố chủ chốt nhất. Đấy là một nét đặc trưng
khu biệt dễ nhận thấy ở thể loại địa chí.

-2-


Thể loại của địa chí là chí, ký, lục. Đây là ba thể khác nhau nhưng chí là thể chủ
đạo. Chí: có nghĩa là ghi chép, văn ghi việc (ký sự chi văn dã). Ký: nghĩa là ghi
chép (ký lục), cũng có nghĩa là kinh tịch. Tất cả các sách ghi chép về sự vật gọi
là ký. Lục: Nghĩa là ghi chép, thu lượm.
Với những đặc điểm riêng về nội dung, về thể tài, thể loại, địa chí là loại sách có
giá trị thực tiễn cao cũng như mang tính khách quan, khoa học cao. Tìm hiểu,
nghiên cứu loại sách này không những phục vụ cho công tác biên soạn địa chí
ngày nay mà còn là vấn đề cần thiết đối với việc nghiên cứu lịch sử địa lý học.
2. Phân loại địa chí
Có nhiều tiêu chí để phân loại địa chí, từ đó chia địa chí thành nhiều loại:
Nếu lấy không gian làm tiêu chí để phân biệt, ta có địa chí thế giới, địa chí châu

lục, địa chí khu vực, địa chí quốc gia. Trong phạm vi địa chí quốc gia, lại có thể
chia thành quốc chí và địa phương chí. Quốc chí (cũng được gọi là Tổng chí, Đại
nhất thống chí, Nhất thống chí...) là những bộ địa chí toàn quốc, thường lấy đơn
vị hành chính cấp tỉnh, thành làm đơn vị khảo cứu. Quốc chí là một bộ sách gồm
nhiều quyển, mỗi quyển viết riêng về từng tỉnh, thành (như Đại Nam nhất thống
chí). Địa phương chí: Địa phương chí (còn gọi là phương chí, địa chí, tạp lục,
phong thổ ký...) viết về từng vùng đất, từng. Trong địa chí địa phương lại còn có
thể chia thành những đơn vị không gian nhỏ hơn nữa như: tỉnh chí, huyện chí, xã
chí.
Nếu lấy thời gian làm tiêu chí để phân biệt, ta có địa chí cổ đại, địa chí trung
đại và địa chí hiện đại.
Nếu lấy đối tượng khảo sát làm tiêu chí, ta có địa chí tự nhiên và địa chí nhân
văn. Địa chí tự nhiên nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc của môi trường địa lý, cùng
sự hình thành và diễn biến của các vùng hay tiểu vùng địa lý khác nhau. Địa chí
nhân văn, dựa vào lý thuyết tương quan giữa con người và địa bàn cư trú, tìm

-3-


hiểu sự phân bố, thay đổi của các hiện tượng nhân văn, cùng ảnh hưởng của
chúng đối với hoạt động xã hội của con người. Có thể chia địa chí nhân văn ra
làm nhiều mảng để tiếp cận như địa chí kinh tế, địa chí chính trị, địa chí dân cư,
địa chí văn hóa xã hội, vv.

-4-


Chương II
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỂ LOẠI ĐỊA CHÍ VIỆT
NAM TỪ KHI RA ĐỜI ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX

Ở Việt Nam, sách địa chí có từ khá sớm. Hiện còn khoảng hơn 200 cuốn, đủ các
loại: Quốc chí, tỉnh chí, huyện chí, xã chí… Trong đó có 92 cuốn Hán Nôm, 23
cuốn tiếng Pháp và hơn 100 cuốn được viết bằng tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX đến
nay. Sách địa chí ở Việt Nam có thể tạm chia thành hai loại: quốc chí và địa
phương chí.
1. Địa chí Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ XV
Cuốn “Giao Châu dị vật chí” ra đời sớm nhất được biết tác giả là người Việt
Nam, ông tên là Dương Phù sống ở thời Đông Hán. Thời Chương đế (năm 76 83) Nam Hải thuộc Giao Chỉ (nước ta). Các thứ sử tranh nhau đòi (dân Giao Chỉ)
nộp của quí. Dương Phù bèn nhặt nhạnh các vật thần dị, chỉ là thứ lạ để châm
biếm họ và soạn cuốn “Nam duệ dị vật chí”, sau làm thái thú Lâm Hải, lại soạn
cuốn “Lâm Hải thuỷ thổ ký”.
Về địa chí toàn quốc, có các tác phẩm đáng chú ý như “Nam Bắc phiên giới địa
đồ” (1172) hiện đã mất, chưa rõ tác giả, “An Nam chí lược” (1339) của Lê Trắc,
“Dư địa chí” (1435) của Nguyễn Trãi, đây là cuốn địa chí cổ đầy đủ nhất và là
cuốn quốc chí đầu tiên của dân tộc ta, có thể thức như lối viết giống với Vũ cống
và nên còn có tên gọi “An Nam Vũ cống”, hoặc “Lê triều cống pháp”.
2.

Địa chí Việt Nam từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XIX

2.1 Địa chí Việt Nam dưới thời các chúa Nguyễn
Địa chí giai đoạn này không được biên soạn nhiều, nhưng có những cuốn đáng
kể như : “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An, “Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ
đồ thư” do tác giả Đỗ Bá soạn năm 1686, , “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn,
Lê Quý Đôn viết “Phủ biên tạp lục”, khi quân Trịnh chiếm vùng Thuận Hóa của
chúa Nguyễn và chúa Trịnh Sâm trao cho ông chức chức Hiệp trấn vùng này,

-5-



“Hải Đông chí lược” (1772) của Ngô Thì Nhậm, “Phủ biên tạp lục” (1776) của
Lê Quý Đôn, “Hưng Hóa xứ phong thổ lục” (1778) của Hoàn Bình Chính.
2.2 Địa chí dưới thời Nguyễn (1802-1945)
Quốc chí có những bộ sách quan trọng như: Hoàng Việt nhất thống địa dư chí
(1806) của Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (1833) của Phan
Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí (1882) của Quốc Sử quán triều, Đồng Khánh
địa dư chí (1886 – 1888) của Phan Huy Chú, …
Có các cuốn Cao Bằng lục (thứ kỷ XVIII) của Phan Trọng Phiên, Gia Định thành
thông chí (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) của Trịnh Hoài Đức, Cao Bằng
thực lục (1810) của Nguyễn Hựu Cung, Nghệ An ký (đầu thứ kỷ XIX) của Bùi
Dương Lịch, Bắc Thành địa dư chí lục (1845) của Lê Chất, Hưng Hóa ký lược
(1856) của Phạm Thận Duật, Cao Bằng tạp chí (1920) của Bế Huỳnh, v.v…
Địa chí dưới thời Nguyễn thường viết chuyên khảo về các tỉnh, huyện cũng để lại
cho lịch sử thư tịch Việt Nam khá nhiều sách địa chí như các tác phẩm của Trịnh
Như Tấu, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thụ, Dương Bá Cung… Kiền khôn nhất lãm
của Phạm Đình Hổ, có chép cả địa lý một số nước trong khu vực, , Thiên tải
nhàn đàm (1810) của Đàm Nghĩa Am, , …Một điều đáng suy nghĩ là trong thời
Nguyễn, khi các nhà Nho đỗ đạt được bổ đi làm quan các địa phương, ngoài
nhiệm vụ của một ông quan cai trị ra, các vị ấy còn phải làm bổn phận của nhà
Nho là ghi chép về địa phương mình trị nhậm, phần vì đó là bổn phận của nhà
nho, phần vì giúp ngay cho việc tìm hiểu địa phương để phục vụ cho công cuộc
cai trị. Một viên quan có hiểu biết về địa phương thì mới thực thi nhiệm vụ tổ
chức và quản lý tốt địa phương đó. Bên cạnh các sách địa chí trên, các sách
chuyên về một lĩnh vực cụ thể như danh nhân, cổ tích, phong tục, văn chương…
cũng rất nhiều, góp phần làm cho bộ phận sách địa chí nói chung ngày thêm
phong phú.
2.3 Trong thời kỳ thuộc Pháp (1858 – 1945)
-6-



Mục đích của người Pháp trong biên soạn địa chí giai đoạn này là để dể dàng cai
trị và đồng hóa. Những cuốn quốc chí: Đại Việt địa dư toàn biên (1882) của
Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí (1882) của Quốc Sử quán triều
Nguyễn biên soạn dưới thời vua Tự Đức ghi chép từ Hải Vân đến mũi Cà Mau
đầy đủ nhất, Đồng Khánh địa dư chí (1886 – 1888) của Phan Huy Chú, gồm địa
lý 25 tỉnh từ Cao Bằng đến Bình Thuận v.v…Hầu hết các sách địa chí ấy đều ghi
chép về cương vực, duyên cách, hình thế, khí hậu, giao thông, phong tục, thổ sản,
thắng cảnh… của từng khu, từng tỉnh, rồi tập hợp lại cho thấy toàn bộ cảnh quan
và sinh hoạt xã hội của đất nước. Có một số nhà học giả uyên bác hơn còn đi sâu
vào tình hình địa chí của các nước cổ nay đã gia nhập bản đồ Việt Nam, như các
nước Chiêm Thành, Lâm Ấp, cùng các nước lân bang như các sách của Phan
Huy Chú, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu… Đó là những bộ sách biên soạn theo
phương pháp của bộ môn địa lý cổ ngày xưa.
Những tác phẩm do người Pháp biên soạn trong giai đoạn này: Tại Nam kỳ, từ
năm 1900-1940, với 3 đợt, có khoảng 20 cuốn sách địa chí bằng tiếng Pháp về
các tỉnh Nam Kỳ được xuất bản. Trong đó, đợt 1 (1901-1911) có 13 cuốn về các
tỉnh được xuất bản: Biên Hòa (1901), Hà Tiên (1901), Gia Định (1902), Mỹ Tho
(1902), Bà Rịa và thành phố Cap Saint Jacques (1902), Châu Đốc (1902), Bến
Tre (1903), Sa Đéc (1903), Trà Vinh (1903), Cần Thơ (1904), Sóc Trăng (1904),
Long Xuyên (1905), Vĩnh Long (1911) và đảo Phú Quốc, tỉnh Hà Tiên (1906)…
Tại các tỉnh Bắc Kì, người Pháp thực hiện hàng loạt công trình địa chí giá trị ở
các tỉnh như: địa chí Hương Hóa (1899), địa chí Hưng Yên (1899), địa chí Ninh
Bình (1899), địa chí Quảng Bình (1902), địa chí Bắc Giang (1904), địa chí
Quảng Ngãi (1905), địa chí Phan Thiết (1904), địa chí Hà Nam (1905), địa chí
Hải Dương (1905), địa chí Hoà Bình (1905), địa chí Huế (1906), địa chí vùng
Quản Bạ - Hà Giang, địa chí Bình Định (1915), địa chí Quảng Trị (1921), địa chí
Thanh Hoá (1924), địa chí Hà Đông (1926), địa chí Sơn La (1929), địa chí Bắc
Ninh (1935)...
-7-



2.4 Địa chí Việt nam từ năm 1954 đến 1975
Từ năm 1954 đến nay, sách địa chí vẫn phát triển ở cả hai miền Nam Bắc: Có thể
nói, trong khoảng những năm 1954-1975 là giai đoạn nở rộ của việc biên soạn
sách địa chí ở miền Nam Việt Nam. Các nhà viết sách địa chí cho ra đời nhiều
tác phẩm, số lượng tác phẩm được biên soạn và xuất bản đứng đầu trong các thời
kỳ, tính cho đến thời điểm hiện nay (8-2008). Theo thống kê chưa đầy đủ của
chúng tôi, đã có 64 tác phẩm được xuất bản, tạm chia thành 2 nhóm chính. Nhóm
do các tòa hành chính, tòa thị chính của các địa phương biên soạn và xuất bản, có
28 tác phẩm, cụ thể là (xếp theo thời gian xuất bản): Địa phương chí tỉnh Hà Tiên
(Trần Thêm Trung, 1957), Địa chí quận Chợ Gạo (1958), Địa phương chí tỉnh
Kiên Giang (1958), Địa phương chí tỉnh Phước Long (1960), Địa phương chí
tỉnh Côn Sơn (1961), Địa phương chí tỉnh An Giang (1961, 1963), Địa phương
chí tỉnh Phước Tuy (1961, 1965, 1973), Địa phương chí tỉnh Biên Hòa (1963,
1972, 1974), Địa phương chí tỉnh Phong Dinh (1964), Pleiku ngày nay (1964),
Địa phương chí tỉnh Hậu Nghĩa (1965, 1966, 1974), Địa phương chí tỉnh Bến Tre
(1965), Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu (1965, 1974), Địa phương chí tỉnh Vĩnh
Long (1966, 1969), Địa phương chí tỉnh Đà Nẵng (Vũ Lang, Phan Uyên Trang,
1967), Địa phương chí tỉnh Châu Đốc (1968), Địa phương chí thị xã Vũng Tàu
(1968, 1971), Địa phương chí tỉnh Ba Xuyên (1971), Địa phương chí tỉnh Biên
Hòa (Trương Văn Nam 1971), Địa phương chí tỉnh Gia Định (1971), Địa phương
chí thị xã Rạch Giá (1973), Địa phương chí tỉnh Gia Định (1973), Địa phương
chí tỉnh Vĩnh Bình (1973), Địa phương chí Bình Long (1974), Địa phương chí
tỉnh Bạc Liêu (1974), Địa phương chí tỉnh Kon Tum, Địa phương chí phường
xóm củi - Quận 8 đô thành Sài Gòn (Cao Đức Thanh, Nguyễn Thị Vinh, 1968),
Địa phương chí xã Châu Giang (người Việt gốc Chăm)…
Nhóm do các cá nhân biên soạn và xuất bản, có 36 tác phẩm. Trong đó, tác giả
có 1 tác phẩm (21 tác giả), tác giả có từ 2 tác phẩm trở lên (3 tác giả với 15 tác

-8-



phẩm). Cụ thể như sau: Đây Nha Trang 1957 (Võ Hữu Hạnh, 1957), Phước
Thành ngày nay (1959), Định Tường cửa ngõ miền Hậu Giang (Thân Trọng Cự,
1960), Cố đô Huế (Thái Văn Kiểm, 1960), Non nước xứ Quảng (Phạm Trung
Việt, 1962, 1965, 1969, 1971, 1974), Cao Lãnh… đến năm 1954 (Trần Quang
Hạo, 1963), Đông Ngạc tập biên (Phạm Văn Thuyết,1963), Tân Châu (18701964) (Nguyễn Văn Kiềm, 1966), Phong quang tỉnh Darlac (Hồ Văn Đàm,
1967), Chương Thiện ngày nay (1967), Non nước Quảng Nam (Hạ Ngọc Anh,
1969), Gò Công cảnh cũ người xưa (Việt Cúc, 1969, 2 quyển), Tỉnh Bến Tre
trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945) (Nguyễn Duy Oanh, 1972), Cà
Mau xưa và An Xuyên nay (Nghê Văn Lương, 1972), Biên Hòa sử lược (Lương
Văn Lựu, 1972-1973, 2 tập), Đây! Quảng Nam (Vũ Lang, 1973), Ai có về Quy
Nhơn (Trần Đình Thái, 1973), Hành Thiện xã chí (1974), Cần Thơ Phong Dinh
chỉ nam (1974). Quách Tấn: Nước Non Bình Định (1967), Xứ Trầm hương
(1969). Nguyễn Đình Tư: Non nước Phú Yên (1965), Non nước Khánh Hòa
(1969), Non nước Ninh Thuận (1974). Huỳnh Minh: Kiến Hòa xưa và nay
(1965), Gia định xưa và nay (1965, 1973), Gò Công xưa và nay (1966), Cần Thơ
xưa và nay (1966), Vĩnh Long xưa và nay (1967), Định Tường xưa và nay
(1970), Vũng Tàu xưa và nay (1970), Sa Đéc xưa và nay (1971), Tây Ninh xưa
và nay (1972).
Trước năm 1945 ở miền Bắc và trước năm 1975 ở miền Nam, các ấn phẩm địa
chí thường có các dạng như sách, chuyên khảo.
2.5 Địa chí Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay
Từ sau năm 1975 đến nay, nhiều địa phương đã quan tâm đến công tác biên soạn
sách địa chí . Xuất hiện đầu tiên là Địa chí Hà Bắc (1982), rồi Địa chí Minh Hải
(1985), Tìm hiểu Kiên Giang (1986), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (4
tập, 1987), Địa chí Long An (1989), Địa chí Hải Phòng Tập I (1990), Địa chí
Bến Tre (1991, 2001), Địa chí huyện Đại Lộc (1992), Diễn Châu - Địa chí văn
-9-



hóa và làng xã (Nghệ An, 1995), Địa chí Đồng Tháp Mười (1996), Địa chí huyện
Nông Cống (Thanh Hóa, 1998), Địa chí văn hóa huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An,
1998), Địa chí huyện Can Lộc (Hà Tĩnh, 1999), Địa chí Hà Tây (1999 và 2007),
Địa chí Lạng Sơn (1999), Địa chí Gia Lai (1999), Địa chí Cao Bằng (2000), Địa
chí Lâm Đồng (2001), Địa chí Đồng Nai (4 tập, 2001), Địa chí Vĩnh Phúc (Sơ
thảo, 2000), Địa chí Bắc Giang (4 tập, 2002 – 2006), Địa chí Phú Yên (2003),
Địa chí Khánh Hòa (2003), Địa chí An Giang (2 tập, 2003), Địa chí Nam Định
(2003), Địa chí huyện Tương Dương (Nghệ An, 2003), Địa chí Hà Nam (2005),
Địa chí Hòa Bình (2005), Địa chí Thừa Thiên - Huế (2005), Địa chí Bà Rịa –
Vũng Tàu (2005), Địa chí Tiền Giang (2 tập, 2005-2007), Địa chí Thái Nguyên
(2009), Từ điển địa chí Bạc Liêu (2010), Địa chí Ninh Bình (2010), Địa chí
Quảng Nam – Đà Nẵng (2010), Địa chí Bình Dương (4 tập, 2010), Địa chí Thái
Bình và Từ điển Thái Bình (2010)… và hiện nay, một số tỉnh như Bắc Ninh, Bắc
kạn, Hưng Yên, Cà Mau, Vĩnh Long, Sơn La… cũng đang tiến hành biên soạn
địa chí cấp tỉnh”
Địa chí huyện có: Địa chí huyện Đại Lộc (1992), Diễn Châu - Địa chí văn hóa và
làng xã (Nghệ An, 1995), Địa chí huyện Nông Cống (Thanh Hóa, 1998), Địa chí
huyện Can Lộc (Hà Tĩnh, 1999), Địa chí huyện Tương Dương (Nghệ An, 2003),
Địa chí huyện Yên Định, Thanh Hóa (2010), Địa chí huyện Triệu Sơn, Thanh
Hóa (2010), Địa chí huyện Tỉnh Gia (2010), Địa chí huyện Yên Định, Thanh
Hóa (2010), Địa chí huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa (2010), Địa chí huyện Quỳnh
Lưu (1989), Địa chí văn hóa Hoằng Hóa (1995), Địa chí văn hóa quận Bình
Thạnh (1995), Địa chí văn hóa quận 5 (2000), Địa chí văn hóa làng Mỹ Lợi
(2000), Địa chí văn hóa miền Biển Quảng Bình (2001),Địa chí văn hóa Yên
Khánh (2002)…
Từ sau năm 1975, ấn phẩm địa chí thường thể hiện ở 2 dạng thức chủ yếu: sách
Địa chí tổng hợp và Từ điển địa chí.

- 10 -



Sách địa chí tổng hợp như dạng Dư địa chí của Nguyễn Trãi; Kiền khôn nhất lãm
của Phạm Đình Hổ, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí của Lê Quang Định; Thiên
tải nhàn đàm của Đàm Nghĩa Am; Hoàng việt địa dư chí của Phan Huy Chú; Đại
Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu; Đại Nam nhất thống chí của Quốc
Sử quán hoặc các loại địa chí các tỉnh mới biên soạn như đã kể trên thì chúng ta
cũng đã khá quên thuộc, nhưng Từ điển địa chí là loại hình mới được xuất hiện ở
nước ta sau Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng (1998). Thực ra, Từ điển địa
chí là thể oại Từ điển bách khoa về một địa phương, một nhánh cụ thể của Từ
điển bách khoa. Cuốn Từ điển bách khoa địa phương được nhiều người biết đến
là Từ điển bách khoa toàn thư địa chí vùng Xibia xuất hiện khoảng đầu thế kỷ
XX, sau đến Từ điển Thượng Hải do Nhà xuất bản Đại học Phúc Đán, Thượng
Hải Trung Quốc xuất bản năm 1989, trên 600 trang với 5.100 mục từ. Từ điển
Bách khoa địa danh Hải Phòng (1989) 624 trang với 2.251 mục từ địa danh. Năm
2010, Thái Bình biên soạn Từ điển Thái Bình dày 1.300 trang với 5.000 mục từ.
Đây là cuốn từ điển bách khoa về tỉnh đầu tiên, bề thế và phong phú. Chắc rằng
loại hình này sẽ là xu hướng mới có nhiều sự lựa chọn của các địa phương.
Số sách địa chí xuất bản những năm gần đây phần lớn là các đề tài nghiên cứu
khoa học do các cơ quan quản lý khoa học các địa phương tổ chức dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của các cấp ủy và chính quyền địa phương, mà ở đó vai trò của Ban
Tuyên giáo cấp uỷ, Sở Khoa học và Công nghệ là thường trực. Ngành Văn hóa
và Xuất bản mới tham gia với tư cách thành viên. Với hoạt động này, vai trò của
các Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch rất quan trọng và họ sẽ là người
dóng dựng và tham mưu cho các cấp chính quyền tổ chức chỉ đạo và triển khai
Viết sách địa chí là công việc không chỉ có ý nghĩa văn hóa. Ngoài giá trị như
sách để giáo dục truyền thống quê hương, sách địa chí nếu viết tốt và có các loại
hình phù hợp sẽ còn là các công cụ quảng bá về địa phương.

- 11 -



Số lượng sách địa chí của chúng ta biên soan lần đầu từ trước tới nay tập hợp lại
so sánh với số lượng đơn vị tính, huyện còn rất khiêm tốn, mới biên soạn từ sau
năm 1975, tỷ lệ còn thấp nữa, khoảng trên 40 đơn vị đã biên soạn so với gần 800
tỉnh và huyện trong cả nước.

- 12 -


Chương III
THÀNH TỰU CỦA THỂ LOẠI ĐỊA CHÍ VIỆT NAM TỪ KHI RA ĐỜI
ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX
1. Thành tựu, ý nghĩa
Sách địa chí đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của quốc gia cũng như của các địa phương. Thể loại duy nhất vẫn là dạng địa chí
tổng hợp, nó phản ánh đúng nhu cầu xã hội cũng như trình độ tác giả biên soạn,
điều kiện thực hiện (kinh phí, tổ chức thực hiện, tài liệu) lúc bấy giờ.
Tác giả biên soạn phần lớn là các nhà văn, nhà nghiên cứu, những người nặng
lòng với quê hương đất nước, với tinh thần “ôn cố tri tân” và công việc biên soạn
của họ mang tính cá nhân với những quan điểm riêng. Trong đó nổi bật lên là các
tác giả Quách Tấn, Nguyễn Đình Tư, Huỳnh Minh với số lượng lớn tác phẩm và
có giá trị. Phương pháp biên soạn dần dần được định hình. Họ muốn qua đây,
khơi dậy những truyền thống tốt đẹp của địa phương và góp phần giữ gìn bản sắc
văn hóa của nó qua việc viết và đọc sách địa chí.
Các công trình địa chí biên soạn sau năm 1975 với sự tham gia đông đảo của các
tác giả thuộc các lĩnh vực khác nhau đã kế thừa rất nhiều các tài liệu trong giai
đoạn 1954-1975. Cả các nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành như khảo cổ, sử
học, dân tộc học, văn hóa học… cũng đều tìm thấy trong đó những tài liệu bổ ích
trong lĩnh vực riêng của mình về địa phương.

Trừ những sách địa chí do chính quyền biên soạn nhằm mục đích chính trị, giống
với các sách địa chí do người Pháp biên soạn trong giai đoạn 1900-1940, số còn
lại có nội dung tương đối phong phú, cấu trúc đi dần đến chỗ hợp lý, về cơ bản
vẫn là 4 phần chính (tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hóa), giống như mô hình biên
soạn địa chí hiện nay, lượng thông tin khá dồi dào, phạm vi thể hiện chủ yếu là
cấp tỉnh.
- 13 -


Cùng với quốc sử, sách địa chí là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục tình
yêu xứ sở, giúp người đọc nắm bắt được những bản sắc của một vùng đất. Đối
với nhà nghiên cứu, đó là công cụ không thể thiếu được khi nghiên cứu về các
địa phương, cả trên phương diện tự nhiên và xã hội. Với nhà quản lý, địa chí thực
sự là cẩm nang bổ ích trong việc quản lý, điều hành ở địa phương trên các mặt
công tác. Cho nên sách địa chí giai đoạn này, về cơ bản phục vụ rộng rãi mọi đối
tượng
Người xưa nói, đọc địa chí để vua có thể ở tại triều mà hiểu rõ được địa dư,
cương thổ, sản vật… tại mọi nơi trong vương quốc do mình cai quản. Địa chí
giúp nhà cầm quyền hiểu được đặc điểm, tình hình, truyền thống, dân cư, thổ
nhưỡng… của từng địa phương để lãnh đạo, chỉ đạo tốt hơn địa phương do mình
cai quản.
Thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí thống nhất về cương vực, lãnh thổ, truyền
thống chống ngoại xâm, truyền thống văn hoá…Các sách dư địa chí trước nay
không chỉ được xem là di sản văn hóa chữ viết của dân tộc, mà chúng còn là tài
sản vật chất quý giá của nhiều thế hệ hàng ngàn năm xây dựng, truyền giữ của
người Việt. Các sách dư địa chí đã từng phát huy tác dụng đặc biệt to lớn trong
suốt quá trình dựng nước, giữ nước ngàn năm của người Việt. Nó trao truyền cho
các thế hệ đời sau những tri thức to lớn của cha ông, những giá trị văn hóa tinh
thần ngàn đời của dân tộc để bảo tồn và phát huy.
2. Hạn chế

Tuy nhiên, chưa có một bộ quốc chí nào được viết kể từ năm 1975 đến nay. Việc
nghiên cứu, lý luận, phê bình về địa chí chưa được chú ý đúng mức, gần như
không có cây bút nào trên lĩnh vực này, mới chỉ là một số ý kiến của các nhà văn,
nhà nghiên cứu trên báo chí qua việc “đọc” các sách địa chí. Đó là hạn chế đáng

- 14 -


kể trong việc nâng cao chất lượng biên soạn các sách địa chí. Mỗi địa phương,
tỉnh thành đều có viết địa chí song không có sự thông nhất nào về tiêu chí cả, có
sự sao chép lẫn nhau rất dễ nhận thấy ở các công trình này. Tuy nhiên, những địa
phương có chủ trương viết địa chí là rất đáng hoan nghênh, nó giúp nhiều cho
chính quyền địa phương trong việc hoạch định, phát triển kinh tế, quản lý xã hội,
bảo tồn văn hóa truyền thống…
Hầu hết các công trình do một nhóm tác giả viết nên, chưa có sự huy động một
cách mạnh mẽ, hùng hậu các nhà khoa học khác nhau trong việc biên soạn địa
chí, nhiều người đang có xu hướng thương mại hóa hoạt động này, viết cho lấy
có.

- 15 -


TỔNG KẾT
Truyền thống biên soạn địa chí của nước ta có lịch sử khá lâu đời, đặc biệt,
những năm gần đây, việc biên soạn địa chí đã được đẩy mạnh trong toàn quốc và
bước đầu thu được những thành tựu nhất định. Ở Việt nam, trong nhiều năm qua
có khá nhiều tổ chức và cá nhân biên soạn sách địa chí. Với sự phát triển của địa
chí trong từng giai đoạn đã để lại những thành tựu to lớn góp phần phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa của từng vùng cũng như quốc gia. Địa chí phát huy tác
dụng trong dựng nước và giữu nước, trong thời kì này giúp khẳng định chủ

quyền đất nước trong sự tranh chấp về vấn đề biển Đông như hiện nay. Tuy
nhiên nghiên cứu, lý luận, phê bình về địa chí cần có sự chú ý đúng mức để địa
chí ngày càng phát triển, nâng cao chất lượng biên soạn sách địa chí. Trong giáo

dục, cần có một giáo trình đồng bộ, các học liệu đầy đủ để học sinh, sinh vên
có thể học ngành khoa học này. Có chủ trương mang tính chiến lược trong
việc đưa ngành địa chí vào dạy ở các cấp học như một số nước trên thế giới,
bởi đây cũng là một ngành khoa học có ý nghĩa quan trọng, truyền cho các thế hệ
trẻ những tri thức to lớn của cha ông, những giá trị văn hóa tinh thần ngàn đời
của dân tộc để bảo tồn và phát huy.

- 16 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đề cương giáo trình địa chí Việt Nam, Lưu Anh Rô.

2.

Một số trang web:





- 17 -



MỤC LỤC

- 18 -



×