Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tỷ giá hối đoái và tỷ giá so sánh đồng tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.32 KB, 35 trang )

I.

Trình bày quan niệm chung về tỷ giá hối đoái

1.

Định nghĩa về tỷ giá hối đoái:

Khi một đồng tiền tăng lên về giá trị là nó tăng giá, và khi một đồng tiền
giảm xuống về giá trị có nghĩa là nó sụt giá. Chúng ta nhận thấy rằng khi đồng
tiền của một nớc tăng giá thì hàng hóa của nớc đó trở thành đắt hơn và hàng hoá
của nớc ngoài tại nớc đó trở nên rẻ hơn (giá nội địa tại hai nớc đó giữ nguyên).
Ngợc lại khi đồng tiền của một nớc sụt giá thì hàng hoá của nớc đó trỏ nên rẻ hơn
trong khi hàng hoá nớc ngoài tại nớc đó trở nên đắt hơn. Nh vậy một việc tăng giá
của một đồng tiền có thể làm cho những nhà sản xuất nớc đó khó khăn trong việc
bán hàng của họ tại nớc ngoài và có thể tăng sự cạnh tranh của hàng hoá nớc
ngoài tại nớc mình bởi vì giá nó giảm đi. Điều gì đã tác động đến giá cả tơng đối
của hàng hoá trong nớc và hàng hóa nớc ngoài. Đó chính là tỷ giá. Có rất nhiều
nhà kinh tế đã đa ra nhiều khái niệm về tỷ giá hối đoái:
- Samuelson: Nhà kinh tế học ngời Mỹ cho rằng tỷ giá hối đoái là tỷ giá
để đổi tiêng của một nớc láy tiền của một nớc khác.
- Christopher Pass và Bryan Lowes: ngời Anh cho rằng tỷ giá hối đoái là
giá của một loại tiền đợc biểu hiện bằng giá của một loại tiền khác.
Các khái niệm trên đây phản ánh một số khía cạnh khác nhau của tỷ giá hối
đoái. Từ đó ta có đợc một khái niệm tổng quát: Tỷ giá hối đoái là tỷ giá so sánh
đồng tiền giữa các nớc xét về mặt giá trị.
2.
Các loại tỷ giá:


Phân loại theo đối tợng xác định:


- Tỷ giá chính thức: Là một loại tỷ giá do ngân hàng Trung ơng của nớc
đó xác định. Dựa vào tỷ giá này, các ngân hàng thơng mại và các tổ chức
tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán
đổi.
- Tỷ giá thị trờng là tỷ giá hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trờng
hối đoái.



Phân loại theo kỹ thuật giao dịch:
- Tỷ giá giao ngay: Là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao
dich hoặc do hai bên thoat thuận nhng phải bảo đảm trong biên đị do
ngân hàng nhà nớc quy đinh.
(1)


- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn: Là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết giá
hoặc do hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau
nhng phải đảm bảo trong biên độ quy định của ngân hàng Nhà nớc tại
thời điểm ký hợp đồng.


Phân theo hoạt động xuất nhập khẩu:
- Tỷ giá xuất khẩu: Là tỷ giá so sánh giữa tổng giá vốn hàng xuất khẩu
tính tiền sân tầu bằng tiền nội địa thu đợc theo giá FOB tại cảng xuất
khẩu.
Tỷ giá xuất khẩu = Tỷ giá vốn hàng hoá tại sân tàu bằng tiền nội tệ
Tổng ngoại tệ thu đợc theo giá FOB tại cảng
- Nếu tỷ giá xuất khẩu nhỏ hơn tỷ giá thị trờng (giá mua của ngân hàng)
nhà nớc có lời.

- Tỷ giá nhập khẩu: Là tổng giá bán hàng nhập khẩu tại cảng nhập khẩu
tính theo nội tệ so với ngoại tệ phải tính theo giá CIF tại cảng xuất khẩu
Tỷ giá xuất khẩu =

Tổng giá bán hàng nhập khẩu tại cảng nhập
Tổng ngoại tệ phải trả theo giá CIF tại cảng nhập khẩu

- Nếu tỷ giá nhập khẩu lớn hơn giá thị trờng thì nhà nhập khẩu có lời.


Căn cứ vào giá trị của tỷ giá:
-

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: Là tỷ giá của một loại tiền tệ đợc biểu hiện
theo giá hiện tại, không tính đến bất kỳ ảnh hởng nào của lạm phát.

- Tỷ giá hối đoái thực: Là tỷ giá có tính đến tác động của lạm phát và sức
mua trong một cặp tiền tệ, phản ánh giá cả hàng hóa tơng quan có thể
bán ra nớc ngoài và hàng tiêu thụ trong nớc. Đặc tính quan trọng nhất
của tỷ giá hối đoái thực là nó đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế
của nớc đó .


Căn cứ vào thời điểm giao dịch:

(2)


- Tỷ giá mở cửa: Là tỷ giá đợc công bố vào đầu giờ của đầu ngày giao
dịch.

- Tỷ giá đóng cửa: Là tỷ giá đợc công bố vào cuối ngày của ngày giao
dịch.
- Ngoài ra ở Việt Nam còn có tỷ giá tiền mặt, tỷ giá chuyển khoản.

3. Các chế độ tỷ giá hối đoái:
a. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là một chế độ tỷ giá hối đoái trong đó Nhà nớc, cụ thể là
ngân hàng trung ơng tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của
quốc gia mình với đồng tiền nào đó hoặc theo một rổ các đồng tiền nào đó ở
một mức cố định không đổi bằng cách thờng xuyên can thiệp vào thị trờng
ngoại tệ để thực hiện các hoạt động mua hay bán lợng d cung hay cầu ngoại tệ
với mức tỷ giá hối đoái cố định mới công bố.
Đặc trng của tỷ giá hối đoái:
- Những dự báo về thay đổi trên thị trờng là bằng Zero (ngoại trừ những trờng hợp đặc biệt khi thị trờng dự báo là Chính phủ sẽ thay đổi mức tỷ giá
cố định).
- Những lợng cung - cầu vẫn tồn tại trên thị trờng ngoại tệ và chi phối số lợng cung, cầu ngoại tệ trên thị trờng.
- Ngân hàng trung ơng cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở một mức cố
định nào đó. Nếu cung trên thị trờng lơn hơn cầu ở mức tỷ giá cố định đó
thì ngân hàng trung ơng sẽ đảm bảo mua hết lợng d cung ngoại tệ. Nếu
cung trên thị trờng nhỏ hơn cầu ở mức tỷ giá cố định đó thì ngân hàng
trung ơng đảm bảo cung cấp một lợng ngoại tệ bằng với lợng d cầu.
Ngân hàng trung ơng sẽ thực hiện hoạt động mua bán lợng d cung hay d
cầu đó với t cách là ngời mua bán cuối cùng, ngời điều phối.
(3)


u điểm của chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
- áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố đinh sẽ tạo kỷ luật đối với các chính
sách kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các thơng mại và đầu t quốc tế,

thúc đẩy sự hợp tác và phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế, loại bỏ
đợc hiện tợng đầu cơ gây ra bất ổn đối với nền kinh tế.
- Dới chế độ tỷ giá cố định đầu cơ không tồn tại nên không gây ra bất ổn
định đối với nền kinh tế. Không có đầu cơ nên tỷ giá hối đoái không bị
sai lệch, do vậy sự phân bổ các nguồn lực trở nên hợp lý.
- Khi đề ra một chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì các nhà hoạch định
chính sách không thể tuỳ ý thay đổi chính sách, mặt khác chính phủ
buộc phải theo đuổi những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Nếu chính
phủ không thực hiện chính sách kinh tế phù hợp thì đồng nội tệ có thể
mất giá và buộc Chính phủ phải dùng dự trữ ngoại tệ để can thiệp vào thị
trờng ngoại hối.
- Việc cam kết cố định tỷ giá sẽ khiến cho các chính phủ dễ nhất trí với
nhau hơn về việc cần phải phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm
duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Những cam kết này sẽ giúp cho
các nớc tránh đợc tình trạng phá giá cạnh tranh, cũng nh tạo một môi trờng kinh doanh ổn định cho thơng mại và đầu t quốc tế.
- Chế độ tỷ giá hối đoái giúp cho các nhà kinh doanh và đầu t quốc tế có
đợc những tín hiệu kinh tế chuẩn xác nên rủi ro tỷ giá hối đoái sẽ đợc
loại trừ. Khi đó chi phí giao dịch giảm, hiệu quả kinh doanh sẽ tăng và
điều đó sẽ thúc đẩy thơng mại và đầu t quốc tế.
Nhợc điểm của chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
- Chính sách tiền tệ sẽ lại bị vô hiệu hoá vì phải kìm giữ tỷ giá ở mức cam
kết nên những nớc lựa chọn mức lạm phát cao sẽ không thể theo đuổi
chính sách tiền tệ nới lỏng với việc đồng tiền giảm giá.
- Trong chế độ tỷ giá hối đoái nếu đồng tiền nội địa đợc định giá quá thấp
thì sức ép tăng giá sẽ làm cho dự trữ ngoại tệ sụt giảm. Nếu đồng tiền nội
địa đợc định giá quá cao, sức ép giảm giá sẽ khiến cho dự trữ ngoại tệ
tăng.

(4)



- Khi áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì có thể dẫn đến sự gia tăng
của lạm phát nớc ngoài làm cho đồng nội địa bị sức ép lên giá. Lúc này
chính phủ buộc phải can thiêp bằng cách bán nội tệ và mua ngoại tệ với
hậu quả là mức cung tiền tệ sẽ gia tăng đồng thời với sự gia tăng của lạm
phát.
b. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
Khái niệm:
Là chế độ tỷ giá hối đoái mà trong đó tỷ giá hối đoái sẽ đợc vận dụng và
xác định một cách tự do theo quy luật thị trờng (quy luật cung cầu trên thị trờng ngoại tệ) với các yếu tố đứng đằng sau những lực lợng cung cầu đó.
Đặc trng cơ bản của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
- Tỷ giá hối đoái đợc xác định và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc vào tình
hình cung cầu ngoại tệ trên thị trờng.
- Ngân hàng trung uơng hoàn toàn không có bất kỳ một tuyên bố hay một
cam kết nào trong việc chỉ đạo và điều hành tỷ giá.
- Ngân hàng trung ơng không có bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào vào thị
trờng ngoại tệ. Tuy nhiên, bằng các biện pháp nh tham gia mua bán
ngoại tệ trên thị trờng theo giá cả do thị truờng quyết định với t cách nh
một nhà kinh doanh giao dịch bình thờng thì ngân hàng trung ơng vẫn có
thể can thiệp một cách gián tiếp vào thị trờng ngoại tệ để có thể giảm bớt
những biến động mạnh về giá trên thị trờng nhằm giảm bớt những tác hại
có thể xảy ra đối với nền kinh tế.
u điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
- Dới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi cán cân thanh toán sẽ tự cân bằng. Khi
tài khoản vãng lai thâm hụt, đồng nội tệ giảm giá làm cho xuất khẩu tăng
lên và nhập khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân thanh toán trở về trạng
thái cân bằng. Và khi tài khoản vãng lai thặng d, đồng nội địa sẽ lên giá
làm cho nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân
thanh toán trở về trạng thái cân bằng.
- Trong chế độ này ngân hàng trung ơng sẽ tự do hơn trong việc sử dụng

chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi
(5)


cho phép ngân hàng trung ơng có thể lựa chọn mức lạm phát mà họ cho
là phù hợp. Nớc nào lựa chọn mức lạm phát thấp sẽ đợc tự do trong việc
theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt với việc đồng tiền tăng giá.
- Dới chế độ này nền kinh tế có thể chống lại đợc những cú sốc giá cả xuất
phát từ bên ngoài. Hơn nữa sự gia tăng của lạm phát nớc ngoài sẽ khiến
cho tỷ giá hối đoái thay đổi phù hợp với quy luật ngang giá sức mua,
đồng nội địa sẽ lên giá khiến cho cơ chế nhập khẩu lạm phát không thể
phát huy tác dụng.
- Các nhà đầu cơ cũng là một nhân tố tác động và làm ổn định tỷ giá. Để
kiếm lợi sẽ bán một đồng tiền khi nó nằm trong tình trạng cao giá và
mua một đồng tiền khi nó bị mất giá. Việc làm nh vậy sẽ khiến cho tỷ
giá quay trở lại trạng thái cân bằng dài hạn khi nó bị lệch ra khỏi trạng
thái cân bằng này
Nhợc điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
- Dới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, thị trờng có thể trở nên quá nhạy cảm
với rủi ro. Do quá nhạy cảm với rủi ro, đồng thời không sử dụng một
cách có hiệu quả những thông tin sẵn có trên thị trờng, hiện tợng đầu cơ
ồ ạt trên thị trờng có thể phát sinh một cách tự phát. Các nhà đầu cơ có
thể mắc sai lầm, họ có thể bán một đồng tiền khi nó tiếp tục tăng giá, và
mua một đồng tiền khi nó tiếp tục giảm giá. Nh vậy các nhà đầu cơ đã
gây bất ổn định cho thị trờng.
- Mặt khác do tỷ giá hối đoái không chỉ phụ thuộc vào tình hình kinh tế
hiện tại mà còn phụ thuộc vào viễn cảnh kinh tế trong tơng lai. Các nhà
đầu cơ khi xây dựng một mô hình xác định tỷ giá hối đoái, nhiều khi
những dự tính của họ chỉ phù hợp với tình hình hiện tại mà không còn
phù hợp với viễn cảnh trong tơng lai nữa. Việc đầu cơ của họ có thể làm

cho tỷ giá hối đoái biến động mạnh, gây ảnh hởng nghiêm trọng đến việc
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô cũng nh sự ổn định của nền kinh
tế vĩ mô.
- Trờng hợp khi các nhà đầu cơ phát hiện ra rằng họ đang nắm giữ trong
tay những đồng tiền cao giá nên họ vẫn tiếp tục giữ chúng với kỳ vọng
có thể bán đợc những đồng tiền này với giá cao hơn trớc khi chúng giảm
giá mạnh. Kỳ vọng đó sẽ làm cho những đồng tiền đó ở trong tình trạng

(6)


cao giá trong một thời gian dài và gây những tác động tiêu cực tới nền
kinh tế.
c. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của nhà nớc:
Khái niệm:
Là chế độ tỷ giá hối đoái có sự kết hợp giữa hai chế độ tỷ giá hối đoái ở
trên. Trong đó tỷ giá hối đoái sẽ tự xác định trên thị trờng theo quy luật cung
cầu, chính phủ chỉ can thiệp vào thị trờng khi tỷ giá có những biến động mạnh.
Đặc trng của chế độ tỷ giá hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái đợc xác định và thay đổi hoàn toàn tuỳ thuộc vào tình
hình cung cầu ngoại tệ trên thị trờng.
- Ngân hàng trung ơng tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ
giá và chỉ can thiệp vào thị trờng với t cách là ngời mua bán cuối cùng
khi tỷ giá trên thị trờng có những biến động mạnh vợt ra khỏi mức cho
phép này.
- Nếu tình hình kinh tế có những biến đổi lớn thì mức tỷ giá hối đoái cũng
nh biên độ giao động cho phép cũng đợc nhầ nớc xác định và công bố
lại.
Ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái có sự quản lý của nhà nớc:
- Khi tỷ giá hối đoái biến động bất thờng sẽ ảnh hởng nghiêm trọng đến

nền kinh tế, lúc này rất cần có một bàn tay đủ lớn có thể chống đỡ và
điều tiết tỷ giá cho nó trở về trạng thái cân bằng. Nhà nớc chính là bàn
tay đó. Để tỷ giá hối đoái phù hợp với nền tảng kinh tế cơ bản nhà nớc
có thể can thiệp vào thị trờng ngoại hối dới hai hình thức: Trực tiếp
(mua, bán ngoại tệ) và Gián tiếp cung cấp những thông tin cần thiết và
chuẩn xác cho thị trờng. Việc can thiệp vào thị trờng sẽ làm giảm bớt
những chi phí tăng, giảm quá mức của tỷ giá hối đoái. Trong điều kiện
giá cả không linh hoạt trong ngắn hạn, sự tăng hay giảm quá mức của tỷ
giá hối đoái sẽ khiến cho tỷ giá thực sai lệch khỏi tỷ giá hối đoái cân
bằng và các nguồn lực bị phân bố không hợp lý giữa hai khu vực sản
xuất hàng hoá: thơng mại và phi thơng mại. Một đồng tiền thấp giá sẽ

(7)


khiến cho lạm phát tăng. Ngợc lại một đồng tiền cao giá sẽ khiến cho
thất nghiệp gia tăng.
- Sự sai lệch của tỷ giá hối đoái còn dẫn tới sự bảo hộ bởi vì một đồng tiền
thấp giá dồng nghĩa với một đồng tiền khác đang cao giá và sự cao giá
này kéo dài sẽ khiến cho không chỉ hàng hoá xuất khẩu mà ngay cả hàng
hoá nội địa cũng trở nên mất sức cạnh tranh so với hàng hoá nớc ngoàim
và áo lực đòi hỏi bảo hộ là tất yếu. Mặc dù sự sai lệch của tỷ giá cuối
cùng sẽ bị triệt tiêu do nền kinh tế có khả năng tự điều chỉnh nhng sự
điều chỉnh đó cần có thời gian và chi phí do phải chuyển đổi cơ cấu. Nh
vậy sự can thiệp của nhà nớc vào thị trơng ngoại hối làm giảm mức độ
tăng trởng của tỷ giá hối đoái là cần thiết.
- Khi cán cân thanh toán do khu vực sản xuất hàng hoá thơng mại liên tục
có thặng d quá lớn so với khu vực sản xuất hàng hoá phi thơng mại sẽ
khiến cho đồng tiền nội địa lên giá. Điều này sẽ khiến cho lao động di
chuyển từ khu vực sản xuất hàng hoá thơng mại sang khu vực sản xuất

hàng hoá phi thơng mại và thất nghiệp tạm thời sẽ tăng. Để làm dịu bớt
quá trình điều chỉnh này, nhà nớc có thể can thiệp để kìm hãm bớt sự lên
giá của đồng tiền nội địa.
Nhợc điểm của chế độ tỷ giá hối đoái có sự quản lý của Nhà nớc:
- Để việc can thiệp của nhà nớc vào thị trờng có hiệu quả thì bản thân nhà
nớc phải có uy tín đối với thị trờng và phải có lợng dự trữ ngoại tễ sẵn có
đủ mạnh để có thể can thiệp vào thị trờng, bình ổn tỷ giá kịp thời.
- Sự can thiệp của nhà nớc chỉ hợp lý và hiệu quả khi sự can thiệp này
không ngăn cản xu hớng tiến tới vị trí cân bằng dài hạn của tỷ giá.
Hiện nay trên thế giới vẫn tồn tại cả ba chế độ tỷ giá hối đoái này, đan xen lẫn
nhau giữa các nớc khác nhau trên thế giới tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh và điều
kiện kinh tế của từng nớc.
4. Các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái:
Ngày nay các nhà nghiên cứu khi bàn về những yếu tố tác động đến tỷ giá
thờng có hai cách tiếp cận khác nhau.

(8)


a.

Cách thứ nhất cho rằng muốn biết đợc những biến động của tỷ giá
hối đoái phải chú ý tới sức mua trong nớc của tiền tệ nớc đó, đợc biểu
hiện qua tỷ lệ lạm phát và lãi suất tín dung ở nớc đó.
Việc so sánh sức mua giữa hai loại tiền, so sánh tỷ lệ lạm phát giữa hai nớc
khác nhau là điều khá phức tạp. ở các nớc ngời ta hay dùng phơng pháp đồng giá
sức mua. Sức mua của đồng ngoại tệ và đồng nội tệ đợc biều hiện qua chỉ số lạm
phát là một nhân tố quan trọng ảnh hởng đến tỷ giá hối đoái. Nếu lạm phát trong
nớc giảm và lạm phát nớc ngoài tăng thì tỷ giá giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ
sẽ giảm. Ngợc lại nếu lạm phát trong nớc tăng và lạm phát nớc ngoài giảm thì tỷ

giá sẽ tăng. Lạm phát là nhân tố ảnh hởng cùng chiều đến tỷ giá hối đoái danh
nghĩa của đồng nội tệ. Lạm phát cao là gia tăng lãi suất tơng đối của đồng tiền gửi
bằng ngoại tệ so với đồng nội tệ, kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là lạm
phát tác động ngợc chiều với giá trị của đồng nội tệ. Lạm phát cao hơn tơng đối
so với nớc ngoài dẫn đến tỷ giá tăng lên, lạm phát thấp hơn tơng đối so với nớc
ngoài giảm dẫn đến tỷ giá giảm. Khi tỷ lệ lạm phát của một nớc tăng cao hơn các
quốc gia khác, sức mua của nội tệ giảm giá so với ngoại tệ. Theo điều kiện ngang
bằng sức mua, bán ngoại tệ sẽ giảm và ngợc lại, giá trị của đồng nội tệ sẽ tăng
nếu lạm phát của quốc gia thấp hơn tỷ lệ lạm phát của nớc có đồng tiền đối ứng.
Lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hoá nhập khẩu, làm ảnh hởng
đến tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trờng thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ
giá hối đoái. Thật vậy, nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hơn các nớc
khác, hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ nớc này sẽ trở nên đắt hơn, hậu quả là
khả năng cạnh tranh của quốc gia trong thơng mại giảm sút. Điều này đồng nghĩa
với cung ngoại tệ giảm. Đối với nhập khẩu, giá trị nhập khẩu tăng nhẹ, nhng mức
tăng giá của hàng nhập khẩu thấp so với mức tăng giá của hàng hoá trong nớc (do
tỷ lệ lạm phát trong nớc cao hơn nớc ngoài) nên cầu hàng nhập khẩu không giảm.
Mặt khác trong ngắn hạn, ngời tiêu dùng trong nớc cha kịp thay đổi thói quen sử
dụng, các doanh nghiệp nội địa cha kịp sản xuất hàng thay thế hàng nhập. Do đó
nền kinh tế buộc phải trả lơng ngoại tệ nhiều hơn để nhập hàng. Hậu quả là cầu
ngoại tệ gia tăng. Cung ngoại tệ giảm, cầu ngoại tệ tăng sẽ tạo áp lực đẩy ngoại tệ
lên giá, nội tệ giảm giá.
Có hai cách xác định tỷ giá trên cơ sở cân bằng sức mua giữa đồng nội tệ
và ngoại tệ:
+ Cân bằng tuyệt đối:
(9)


mua của một đồng ngoại tệ
Tỷ giá = Sức

Sức mua một đồng bản tệ

=

Mức giá cả trong nớc
Mức giá cả nớc ngoài

+ Cân bằng tơng đối:
Tỷ giá ở
thời điểm

=

Tỷ giá ở thời
ì
điểm t-1

1 + % chỉ số lạm phát trong nớc
1+ % CSLP nớc có đồng tiền định giá

Sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ biểu thị qua sự chênh lệch về lãi
suất giữa hai đồng tiền cũng là một nhân tố ảnh hởng đến tỷ giá hối đoái. Lãi suất
giúp các nhà quản trị tài chính dự đoán và xác định tỷ giá trong tơng lai, từ đó
hoạch định chiến lợc rủi ro và chiến lợc kinh doanh hiệu quả. Trong thực tế tỷ giá
thị trờng thờng lệch khỏi tỷ giá đợc hình thành trên cơ sở ngang giá lãi suất, bởi lẽ
trạng thái cân bằng lãi suất của tỷ giá chỉ tồn tại trong một số điều kiện nhất định,
nh chu chuyển vốn trên thị trờng tài chính phải hoàn toàn tự do, chi phí giao dịch
bằng không, rủi ro trong đầu t vào các tài sản tài chính bằng nhau... Trong nền
kinh tế các điều kiện này rất khó tồn tại.
Lãi suất đợc các ngân hàng trung ơng sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái

trên thị trờng. Chính sách chiết khấu là chính sách mà nhà nớc thay đổi lãi suất
chiết khấu của ngân hàng trung ơng, điều chỉnh lãi suất trên thị trờng tiền tệ, từ
đó tác động tới quan hệ cung cầu làm thay đổi tỷ giá. Chính sách chiết khấu là
chính sách điển hình của các nớc kinh tế thị trờng phát triển, những nớc mà đồng
tiền của họ có vị trí quan trọng trong thơng mại và tài chính quốc tế, thờng đợc
mua bán trên thị trờng hối đoái. Mỹ thờng xuyên sử dụng chính sách chiết khấu.
Cứ mỗi khi có sự biến động tỷ giá USD, cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) lại lập tức
sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu.
Chính sách lãi suất cao có xu hớng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp
dẫn các luồng vốn nớc ngoài chảy vào trong nớc. Tuy nhiên đồng nội tệ lên giá
tạo cho giá cả hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn và do đó tạo ra áp lực làm giảm
giảm giá hàng hoá nội địa, điều này làm kìm hãm tốc độ tăng trởng kinh tế.
Tuy nhiên chính sách chiết khấu chỉ có ảnh hởng nhất định và có hạn đối với
tỷ giá, vì lãi suất không phải là nhân tố duy nhất tác động tới sự vận động của t
bản giữa các nớc, tức là nó không phải là nhân tố duy nhất tác động tới cung cầu
(10)


ngoại hối. Ngoài yếu tố lãi suất cao, việc t bản nớc ngoài đầu t vào một thị trờng
nào đó còn phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố kinh tế, chính trị, pháp lý...
b.

Cách thứ hai cho rằng, cán cân thanh toán quốc tế (ccttqt)
của một nớc phản ánh đầy đủ những xu hớng cung và cầu ngoại hối trong
các giao dịch quốc tế có tác động lớn tới tỷ giá.
Mục đích của việc lập và báo cáo cán cân thanh toán quốc tế không phải để
phản ánh các nhân tố đứng đằng sau cung cầu của một đồng tiền mà việc lập cán
cân thanh toán chính là để theo dõi và phân tích hoạt động thơng mại quốc tế
cũng nh số lợng các luồng vốn chạy vào và chạy ra khỏi một quốc gia là nh thế
nào. Tuy nhiên những tài khoản trên cán cân thanh toán phản ánh hoạt động thơng

mại quốc tế, và sự di chuyển của các luồng vốn lại là thớc đo của tất cả các nhân
tố làm phát sinh cung cầu của một đồng tiền trên thị trờng hối đoái. Do vậy cán
cân thanh toán trở thành một phuơng tiện thuận tiện và hiệu quả trong việc tiếp
cận lý thuyết xác định tỷ giá và có thể hình dung cán cân thanh toán nh là bản ghi
chép thành từng khoản các nhân tố phản ánh cung cầu một đồng tiền. Cán cân
thanh toán là một bảng kế toán tổng hợp toàn bộ các luồng tiền hàng hoá, dịch vụ,
vốn, tài sản giữa các công dân và chính phủ một nớc so với nớc còn lại trên thế
giới trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin chi tiết liên quan
đến cung cầu ngoại tệ của một quốc gia, đồng thời có thể đợc sử dụng để đánh giá
khả năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế của một quốc gia. Sự tồn tại giữa đồng
nội tệ của một nớc với ngoại tệ là tất yếu khi mà c dân và chính phủ của nớc đó
cần có những giao dịch với thế giới bên ngoài. Do đó để hiểu tỷ giá xũng nh
những yếu tố cơ bản tác động đến sự biến động của tỷ giá hối đoái thì cần thiết
phải hiểu những giao dịch của c dân và chính phủ của một nớc thực hiện với thế
giới bên ngoài trong một khoảng thời gian nhất định, thờng là một năm. Nói cách
khác cán cân thanh toán là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nớc ngoài
trả cho một nớc và những khoản tiền mà nớc đó trả cho nớc ngoài trong một thời
gian nhất định, phản ánh các dòng lu chuyển tiền tệ do quan hệ cung cầu trên thị
trờng hối đoái nớc đó.
Tỷ giá là một loại giá nên nó đợc điều tiết bởi quan hệ cung - cầu tiền tệ.
Quan sát sự thay đổi trong từng khoản mục trong cán cân thanh toán sẽ giúo cho
các nhà quản lý, các nhà kinh doanh tiền tệ nắm bắt dòng lu chuyển tiền tệ phải
thanh toán cho nớc ngoài hoặc nhận đợc từ bên ngoài. Tình trạng mất cân đối
trong cán cân thanh toán quốc tế sẽ ảnh hởng đến quan hệ cung cầu ngoại hối trên
(11)


thị trờng, do đó sẽ ảnh hởng ngay đến tình hình biến động của tỷ giá hối đoái nớc
đó.
Cần lu ý rằng sự tác động của cán cân thanh toán quốc tế không phải là

quan hệ thụ động một chiều. Chẳng hạn, nếu cán cân thanh toán quốc tế của một
nớc thiếu hụt thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên, điều này làm cho giá hàng nhập khẩu
sẽ tăng và giá hàng xuất khẩu ra thị trờng thế giới giảm đi, do đó sẽ khuyến khích
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng hóa dịch vụ. Nh vậy sẽ cải thiện đợc tình
trạng của cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên muốn xác định đợc tác động của
tình hình cán cân thanh toán quốc tế đối với tỷ giá phải loại trừ những khoản mục
phản ánh sự can thiệp của chính phủ và tơng quan lực lợng cung cầu ngoại hối
trên thị tròng. Thật ra sự chênh lệch giữa cung và cầu, những sự thay đổi điều
chỉnh làm thay đổi dự trữ ngoại hối, thay đổi những khoản nợ nớc ngoài chỉ tồn
tại chừng nào các nhà cầm quyền một nớc duy trì một tỷ giá cố định. Nếu tỷ giá
đợc phép thay đổi tự do, thì các khoản dự trữ ngoại tệ chính thức không cần thiết
phải bù đắp những thiếu hụt và tất nhiên tỷ giá ngoại hối sẽ thay đổi hoàn toàn
theo cung và cầu của thị trờng.

(12)


II. Chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển nền kinh
tế Việt Nam
1. Cơ chế tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
Trớc những năm 1990, với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nhà
nớc ta đã duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Thời gian này, sự điều hành
và quản lý nền kinh tế thị trờng còn sơ khai, kinh nghiệm và kiến thức về
quản lý nền kinh tế thị trờng còn cha nhiều. Đặc biệt trong thời kỳ này nền
kinh tế nớc ta đang trong thời kỳ khủng hoảng, lạm phát phi mã nên mong
muốn có một nền kinh tế ổn định và phát triển là rất lớn. Nhiều chuyên gia
cho rằng cần áp dụng cơ chế tỷ giá cố định làm cho lòng tin của nhân dân
vào đồng Việt Nam tăng lên. Với cơ chế tỷ giá cố định cũng tạo ra tâm lý
an tâm cho các nhà đầu t, trong đó có nhà đầu t nớc ngoài.
Việc áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong giai đoạn này là hợp lý

nhng do nớc ta đã áp dụng quá lâu chế độ này làm cho nền kinh tế Việt
Nam trở nên yếu kém, không khuyến khích xuất khẩu, việc làm giảm và
đặc biệt là nền kinh tế nớc ta chậm thích nghi với cơ chế thị trờng. Hơn nữa
chế độ tỷ giá hối đoái cố định làm cho đồng Việt Nam lên giá một cách giả
tạo sẽ làm suy giảm sức cạnh tranh của hàng hoá nớc ta, triệt tiêu lợi thế so
sánh của nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, nhiều chuyên gia cho rằng Việt
Nam nên áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi. Bởi họ cho rằng cơ chế
này sẽ có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế tạo ra một xung lực mới
khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu và sẽ tạo ra nhiều công
ăn việc làm. Cơ chế này sẽ tạo nên sự cân bằng giữa cung cầu ngoại tệ trên
thị trờng trong nớc. Tuy nhiên Việt Nam đang còn trong những bớc sơ khai
chuyển sang nền kinh tế thị trờng, mọi cơ chế chính sách còn cha đồng bộ,
còn nhiều bất cập đặc biệt là cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ. Nếu nớc
ta áp dụng cơ chế chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ dẫn đến rối loạn
hoặc khủng hoảng khi sức lực của nền kinh tế còn quá nhỏ bé, hệ thống cơ
(13)


chế, chính sách cha đồng bộ và kiến thức cũng nh kinh nghiệm về vấn đề
này còn ít. Tất cả những điều đó có lợi cho xuất khẩu nhng lại bất lợi cho
nhập khẩu. Ví dụ, khi tỷ giá VND/USD lên quá cao không ngừng sẽ diễn ra
nhiều biến động khác khó lờng nh thất nghiệp, phá sản của các doanh
nghiệp và giảm sút về đời sống của nhân dân, gây rối loạn xã hội, làm cho
chính trị và kinh tế bất ổn định.
Đại đa số các chuyên gia cho rằng Việt Nam nên áp dụng chính sách tỷ giá
hối đoái có sự điều chỉnh của nhà nớc là phù hợp nhất. Cơ chế tỷ giá hối
đoái cố định mặc dù có một số u điểm không thể phủ nhận đợc nhng cũng
có nhiều nhợc điểm không phù hợp với nền kinh tế thị trờng. Bên cạnh đó
cơ chế tỷ giá hối đoái cố định cũng có rất nhiều nhợc điểm nếu nó đợc áp

dụng cho Việt Nam khi mà nền kinh tế nớc ta còn quá non kém. Do vậy áp
dụng cơ chế linh hoạt có sự điều tiết của nhà nớc vừa phản ánh đúng đòi
hỏi của cơ chế thị trờng vừa đảm bảo tính chủ động và bàn tay cứng rắn
của nhà nớc can thiệp khi có biến động để tạo ra sự phát triển năng động
của nền kinh tế và mặt khác tạo ra sự phát triển một cách ổn định và vững
chắc của nó. Chính vì vậy, Việt Nam đã thiết lập hệ thống tỷ giá hối đoái
theo tín hiệu thị trờng có sự can thiệp của chính phủ từ tháng 3 năm 1989.
Với sự kiện phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất hệ
thống tỷ giá mới, xoá bỏ hệ thống tỷ giá cũ thì cơ chế quản lý ngoại hối và
chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có những biến động rất căn bản sang cơ
chế thị trờng. Với sự thành lập của hai trung tâm ngoại tệ tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh (1994) đã đánh giá bớc ngoặt đầu tiên của hệ
thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hớng thị trờng. Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của chính phủ trong
giai đoạn 1990 đến 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt dới sự điều
tiết của nhà nớc, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VND theo USD qua
một số ngoại tệ hẹp, trong đó USD chiếm một tỷ trọng lớn. Tuy nhiên chế
độ này cũng bộc lộ một số nhợc điểm của nó là ổn định quá lâu dẫn đến
không khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy trong
những giai đoạn cuối của những năm 1997 đến đầu 1999, để thích ứng hơn
với thị trờng và cũng để hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Nam á (2/7/1997) ngân hàng nhà nớc đã điều chỉnh liên tục tỷ
giá chính thức cùng biên độ.

(14)


- Ngày 13/10/1997 mở rộng biên độ giao dịch lên mức +(-) 10%
- Ngày 16/2/1998 nâng tỷ giá chính thức từ 1 USD =111175 VND lên mức
1 USD =11800 VND, tăng 5,6%.
- Ngày 7/8/1998 thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn +(-) 7% , đồng thời

nâng tỷ giá chính thức lên 1 USD =12998 VND.
- Từ ngày 6/11/1998 đến 15/1/1999 là một chuỗi những điều chỉnh giảm
liên tục trong tỷ giá chính thức cùng biên độ.
Thực tế, mỗi sự thay đổi sự thay đổi chính sách tỷ giá đều có những tác
động nhất định trong đời sống kinh tế và đôi khi ngân hàng nhà nớc cũng
rơi vào tình trạng muốn điều chỉnh tỷ giá chính thức cho phù hợp với tình
trạng thực tế nhng lại rất khó khăn. Nếu điều chỉnh hằng ngày sẽ gây tâm
lý bất ổn, còn nếu giữ quá lâu khi điều chỉnh sẽ dễ gây biến dộng đột ngột.
Cơ chế này rõ ràng là không phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trờng và
thông lệ quốc tế. Vì thế việc thay đổi cách xác định tỷ giá chính thức là cần
thiết.
Từ 26/2/1999 tỷ giá chính thức đợc công bố hằng ngày, đợc xác định trên
cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trờng ngoại tệ liên ngân
hàng của thị trờng giao dịch gần nhất trớc đó. Đây là sự thay đổi cơ chế
quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị trờng. Đồng thời từ
ngày 26/2 biên độ giao dịch cũng đợc rút xuống +(-) 0.1%. Điều này có thể
gây nên một bất lợi thế không thể dự đoán trớc đợc. Nếu trong một ngày
giao dịch nào đó, thị trờng có những đột biến về cung cầu của ngày giao
dịch gần nhất trớc đó thì do ràng buộc của biên độ với tỷ giá là bình quân
giữa mua và bán chắc chắn sẽ làm cho giao dịch trên thị trờng của ngày
hôm đó bị đình trệ, đóng băng. Từ đó sẽ tác động tiêu cực đến trở lại đến
các giao dịch trên thị trờng ngoại tệ bên ngân hàng và lại tiếo tục tác động
xấu đến các giao dịch trên thị trờng chính thức của ngày kế tiếp, dẫn đến
một sự khủng hoảng thị trờng.
Sau khi thay đổi mức công bố tỷ giá chính thức thì trong giai đoạn đầu tỷ
giá mua của các ngân hàng là thấp hơn tỷ giá chính thức, còn tỷ giá bán cao
hơn tỷ tỷ giá chính thức. Nhng chỉ gần 1 tháng sau thay đổi tỷ giá chính
(15)



thức thì tỷ giá mua và bán của ngân hàng luôn cao hơn tỷ giá chính thức.
Nếu tính từ đầu năm 1999 đến tháng 11/2003 chúng ta đã áp dụng tỷ giá
linh hoạt có quản lý của Nhà nớc đợc gần 5 năm. Trong 5 năm qua chúng ta
đã áp dụng chế độ biên độ dao động của tỷ giá hối đoái ở mức thấp 10,1%
và hiện nay biên độ này có nới lỏng hơn. Quan sát thực tế cho thấy đồng
Việt Nam hàng năm mất giá khoảng 2% so vơi 2002. Đến cuối tháng
11/2003, đồng USD mất giá kỷ lục so với hầu hết các loại ngoại tệ trên thị
trờng tài chính quốc tế, nhng đối với đồng VND thì USD lại lên giá (đến
28/11/2003 1USD = 15.760 VND). Nhìn chung từ đầu năm 1999 đến nay
bình quân hàng năm giảm giá khoảng 2,64%. Điều này đã góp phần tăng
trởng kinh tế nhanh, đẩy mạnh xuất khẩu và làm ổn định nền kinh tế.
Tóm lại, quá trình cải cách chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong suốt thời
gian qua là phù hợp với quá trình cải cách kinh tế nói chung và là quá trình
cải cách lĩnh vực tài chính - tiền tệ nói chung. Từ một chính sách tỷ giá
mang nặng tính bao cấp đã chuyển sang một chính sách tỷ giá vận hành
dựa trên cơ sở thị trờng. Đặc biệt với cơ chế tỷ giá hối đoái chính thức và
giới hạn biên độ giao dịch đã tạo điều kiện cho ngân hàng nhà nớc điều tiết
đợc thị trờng, hạn chế đợc các cú sốc và hạn chế đợc những ảnh hởng tiêu
cực của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
2.

Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động
mạnh vào cung cầu ngoại tệ trên thị trờng, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản chính sách tỷ giá hối đoái tập
trung chú trọng vào hai vấn đề. Đó là vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và
vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nh đã nói ở trên Việt Nam đã lựa chọn chế độ
tỷ giá hối đoái thả nổi có sự can thiệp của nhà nớc. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối
đoái sao cho nó phù hợp với quy luật của thị trờng luôn là vấn đề khó khăn do đặc
tính luôn luôn biến động không ngừng của tỷ giá. Việt Nam điều hành chính sách

tỷ giá hối đoái cũng không nằm ngoài hai mục tiêu cơ bản sau:
Mục tiêu cân bằng nội: Toàn dụng lao động và giá cả. Khi các nguồn lực quốc
gia đã đợc sử dụng đầy đủ và mức giá của quốc gia đó ổn định thì quốc gia đó
đợc xem là tình trạng cân bằng nổi. Để tránh tình trạng mất ổn định mức giá,
chính phủ phải ngăn chặn sự dao động lớn trong tổng sản phẩm. Chính phủ
(16)


phải ngăn chặn tình trạng lạm phát kéo dài bằng cách đảm bảo cung ứng tiền
tệ không tăng lên nhanh quá hoặc chậm quá.
Mục tiêu cân bằng ngoại: cân đối trong tài khoản vãng lai của một nớc. Phần
lớn các nhà kinh tế thờng đồng nhất cân bằng ngoại với sự cân đối trong tài
khoản vãng lai của một nớc. Cách xác định này thích hợp trong một số trờng
hợp nhng nó không có tác dụng nh một quy tắc chung. Mục tiêu của cấn đối
bên ngoài là một tài khoản vãng lai cho phép thực hiện đợc những lợi ích quan
trọng từ những dòng vốn đầu t dài hạn mà không phải mạo hiểm.
Để thực hiện việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái cần có những công cụ
riêng có nh lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trờng mở. Trong thế cân bằng
ban đầu của cung cầu trên thị trờng ngoại tệ, khi lãi suất chiết khấu thay đổi sẽ
kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trờng. Từ đó tác động đến
xu hớng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn
hoặc làm những ngời sở hữu vốn trong nớc chuyển đổi dòng vốn của minh
sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm ổn định tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên cách làm này có nhiều hạn chế nhất định. Nghiệp vụ thị trờng mở
cũng là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái vì có ảnh hởng nội
sinh đến tỷ giá hối đoái và có thể dễ thực hiện nghiệp vụ đảo ngợc nếu xảy ra
hiện tợng mua bán quá mức.
Trong thời gian qua nghiệp vụ thị trờng mở đã phát huy vai trò to lớn trong
việc điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đảm bảo khả năng thanh
toán và ổn định thị trờng tiền tệ. Khi tỷ lệ lạm phát tăng có thể điều hành công cụ

này bằng cách tăng các phiên giao dịch, doanh số mua bán và ngân hàng nhà nớc
tăng số lợng phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nớc và chào bán giấy tờ có giá
ngắn hạn, nhằm thu hét lợng tiền thừa trong lu thông. Lạm phát tăng mà điều
hành lãi suất tăng là cách xử lý đúng hớng. Bởi vì lúc đó các tổ chức tín dụng có
điều kiện tăng cờng thu hút nguồn vốn huy động và cũng hạn chế cho vay đối với
nền kinh tế. Từ đó lợng cung ứng tiền tệ sẽ giảm đi tơng ứng. Trong điều kiện
thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, ngân hàng nhà nớc đã thực hiên kiểm soát lãi
suất thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đánh
giá ảnh hởng từ công cụ này đến lạm phát là không lớn, nên ngân hàng nhà nớc
không điều chỉnh tăng kên và vẫn giữ ở mức ổn định trong thời gian qua. Đồng
thời ngân hàng nhà nớc sử dụng linh hoạt tiền cung ứng để đảm bảo thanh khoản
(17)


trong nền kinh tế, mở rộng quy mô và mức độ hoạt động của thị trờng liên ngân
hàng, cùng sự phối hợp của Hiệp hội ngân hàng để giữ cho lãi suất huy động và
lãi suất cho vay không có sự biến động lớn. Nhờ đó mà từ 2004-2005 ta đã giữ đ ợc tỷ giá hối đoái khá ổn định. Trên cơ sở đảm bảo cân đối cung cầu ngoại tệ, chỉ
mua ngoại tể đẻ tăng dự trữ khi thị trờng ngoại tệ thực sự d thừa và sẵn sàng bán
ngoại tệ từ quỹ bình ổn để can thiệp nếu xuất hiện sự khan hiếm.

3. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển nền kinh tế ở
Việt Nam.
Tỷ giá hối đoái tác động đến hầu hết các nhân tố vĩ mô làm tăng trởng kinh
tế. Trớc hết phải kể đến tác động của tỷ giá tới GDP, một chỉ tiêu phản ánh một
các tốt nhất cho tăng trởng kinh tế. Tỷ giá hối đoái tác động tới GDP làm tăng hay
giảm GDP thông qua những nhân tố vĩ mô đóng góp vào cơ cấu GDP, qua đó tác
động vào sự tăng trởng kinh tế.
a. Tỷ giá hối đoái với vấn đề lạm phát:
Hiện nay nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát cao, giá cả tăng ở hầu hết
các mặt hàng, sức mua của đồng tiền giảm, đặc biệt là sức mua đối nội của VND,


(18)


xu hớng tiết kiệm từ VND sang ngoại tệ. Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu
là do cầu kéo và chi phí đẩy và chính sách tiền tệ.
Sau đây là bảng so sánh chỉ số tăng giá tiêu dùng với tốc độ tăng GDP bình
quân đầu ngời tháng - Bảng 1 (trang bên)

GDP trong bình quân đầu ngời tháng và chỉ số tăng giá tiêu dùng
cuói năm 2004 so với các năm
GDP
Năm 1994
(tỷ đồng)

GDP
Năm
1994
(tỷ USD)

Dân số
trung
bình
(ngàn ngời)

GDP
đầu
ng/tháng
(theo giá
USD năm

1994)

1995

228.892

20,7

70.824

289

2000

441.649

39,9

71.995

514

2001

481.295

43,5

77.635


2002

535.762

48,5

2003

605.538

2004

651.607

Chỉ số
giá hàng
tiêu dùng
cuối năm
so với
năm trớc

Chỉ số giá
hàng tiêu
dùng cuối
năm so
với năm
1994
(=100)

112,7


112,7

265

99,4

129,5

553

474

100,8

130,3

78.685

607

510

104,0

130,7

54,8

79.727


684

560

103,0

131,0

58,9

80.902

717

624

109,5

140,5

(19)

GDP đầu
ngời/tháng
(ngàn
đồng)


2005

Phơng án A

2005
Phơng án B

703.736

63,6

82.100

764

717

706.993

63,9

83.200

786

705

107

Chính sách tiền tệ của ngân hàng là làm sao kiểm soát đợc tốc độ lạm phát
thấp hơn tốc độ phát triển kinh tế. Qua các số liệu thống kê, GDP đầu ngời Việt
Nam đã tăng từ năm 2000 với 265 ngàn đồng/ tháng lên 717 ngàn đồng/ tháng

năm 2004 theo giá so sánh năm 1994, gấp 2,8 lần theo giá bất biến năm 1994
trong khi giá tăng luỹ tiến cùng thời gian chỉ 40,5% . Nh vậy tình hình giá cả ổn
định không đáng lo lắng. Tuy nhiên so với các năm trớc, năm 2000 (- 0,6%), năm
2001 (+0,8%). Năm 2004 (+4%), năm 2003 (+3%), năm 2004 giá tăng mạnh, đến
tháng 8/2004 lên 8,6%, cuối 2004 lên tới 9,5%. Đến 8 tháng đầu năm 2005 lạm
phát còn 6.8%.
Sự tăng giá 9,5% năm 2004 xảy ra không do nguyên nhân tiền tệ ngân hàng
mà là do nạn cúm gia cầm đầu năm 2004 và hạn hán nghiêm trọng trong nớc, tiếp
theo là giá xăng dầu cũng tăng vọt kéo theo sự tăng giá dây chuyền của những
mặt hàng nhập khẩu. Mặt khác, giá hàng nông khoáng sản xuất khẩu cũng tăng
khiến cho các nhà thu mua hàng xuất khảu tăng giá thu mua, gây ảnh hởng dến
việc tăng giá nông sản trong nớc. Trong những năm gần đây, nông dân thờng bị
thiệt vì hàng công nghiệp dịch vụ tăng giá nhanh hơn hàng nông sản. Nh vậy việc
tăng giá nông sản là việc đáng mừng, không đáng lo. Việt Nam là nớc xuất khẩu
dầu nên nhà nớc đã có khả năng lấy lời xuất dầu thô bù cho lỗ nhập xăng dầu. Do
việc tăng giá 9,5% năm 2004 có những nguyên nhân phi tiền tệ nên không cần
thay đổi nhiều chính sách tỷ giá, lãi suất, dự trữ bắt buộc mà chủ yếu cần các biện
pháp phi tiền tệ để ổn định tỷ giá: nh bù giá cho các nhà nhập khẩu xăng dầu,
phục hồi đàn gia cầm, áp dụng các biện pháp tiết kiệm xăng dầu, tim các nguồn
năng lực mới đa vào sản xuất nh gaz, gió, năng lực ánh sáng mặt trời Đặc biệt,
năm 2004 đã thành công đa khí vào bờ và sản xuất urea có tác dụng tiết kiệm tốt
trên cân năng lợng và ngoại tệ, thành công ký các hợp đồng đóng tàu 53.000 tấn,
chuẩn bị ký hợp đồng đóng tàu 100.000 tấn, tổ chức lắp ráp hàng ngàn xe buýt
năm, tổ chức đợc một số nhà máy lắp ráp xe ô tô buýt nên trong kinh tế đã có
những bớc đột phá tốt, cần tiếp tục các phơng hớng phát triển phi tiền tệ này để

(20)


đẩy mạnh nhịp phát triển kinh tế quốc gia nhằm tạo tác dụng phi tiền tệ giảm

phát.
Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách
tiền tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hớng tới. Tỷ giá
hối đoái chịu tác dụng của nhiều nhân tố, trong đó hai yếu tố quan trọng nhất là
sức mua của đồng tiền và tơng quan cung cầu tiền tệ. Khi lạm phát tăng, sức mua
của đồng tiền giảm so với ngoại tệ làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so
với đồng nội tệ tăng và ngợc lại. Khi đó tỷ giá hối đoái cao có tác dụng kích thích
các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện
cán cân thanh toán. Tỷ giá hối đoái cao sẽ kích thích nhập khẩu vốn, kiều hối hạn
chế chuyển ngoại tệ ra nớc ngoài dẫn đến sức mua của đồng nội tệ tăng. ở Việt
Nam, ngân hàng nhà nớc đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, không cố định tỷ
giá VND vào USD mà trên cơ sở tiền tệ, mà cũng khôngthả nổi tỷ giá theo quan
hệ cung cầu. Khi cần thiết ngân hàng nhà nớc phải can thiệp bằng cả công cụ
hành chính và công cụ gián tiếp để sức mua đối ngoại của VND không bị biến
động lên. Để ổn định tỷ giá hối đoái, kiềm chế sự gia tăng của chỉ số giá tiêu
dùng thì phải chú ý đến sự gia tăng tích luỹ ngoại tệ. Tập trung quản lý ngoại tệ
vào một đầu mối duy nhất là ngân hàng nhà nớc Việt Nam. Khi dự trữ ngoại tệ
cha đủ mạnh thì chỉ nên can thiệp trong trờng hợp thị trờng có nhiều biến động
tiêu cực do những hành vi đầu cơ gây ra, lợng ngoại tệ tung thêm vào thị trờng
phải đợc sử dụng hiệu quả.
b. Tỷ giá hối đoái tác động tới xuất nhập khẩu Việt Nam:
Bất kỳ sự biến động nào cũng ảnh hởng tới tình hình xuất nhập khẩu của Việt
Nam. Khi giá thực tế của VND tăng lên thì hàng hoá của Việt Nam tại nớc ngoài
trở thành đắt đỏ hơn và hàng hóa nớc ngoài tại Việt Nam nh hàng hoá của Nhật,
Mỹ... trở thành rẻ hơn. Điều này có nghĩa là tỷ giá hối đoái VND/USD giảm
xuống khuyến khích nhập khẩu và xuất khẩu bị hạn chế. Và ngợc lại khi đồng
VND sụt giá tức là tỷ giá VND/USD giảm xuống làm cho hàng hoá Việt Nam tại
thị trờng nớc ngoài rẻ hơn, trong khi hàng hoá nớc ngoài tại Việt Nam lại trở nên
đắt hơn. Điều này là tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam.
Sau đây là bảng số liệu về tỷ giá hối đoái và tỷ lệ nhập khẩu thời kỳ 19922001: Bảng 2 (trang bên)

Năm

92

93

94

95

96

(21)

97

98

99

2000

2001


TGHĐ

1,000

1,011


1,105

1,228

1,232

1,091

1,071

1,039

0,966

0,913

N/X

0,985

1,314

1,437

1,497

1,536

1,262


1,229

1,007

1,062

1,075

2541

3924

5826

8155

11144

11592

11500

11622

15200

16162

2581


2985

4054

5449

7256

9185

9360

11540

14308

15027

Nhập
(TrUSD)
Xuất
(trUSD)

Nh vậy cùng với sự lên giá thực tế của VNĐ thì tỷ số nhập khẩu/ xuất khẩu
cũng tăng lên và ngợc lại.
Thống kê tình hình xuất nhập khẩu máy móc và t liệu sản xuất ta đợc bảng
dới đây: bảng 3
Nhập siêu và dùng nhập siêu để tài trợ việc nhập máy móc
và t liệu sản xuất(triệu USD theo thời giá)

1990

1995

2000

2001

2002

2003

2004

Xuất khẩu

2404

5449

14483

15029

16705

20176

25000


Nhập khẩu

2572

7256

15636

16218

19745

25246

32000

-1189

-3040

-5070

-7000

Nhập siêu

2005

2005


(a)

(b)

28500

29000

Thành phần hàng nhập khẩu
Máy thiết bị
phụ tùng

2096

4781

4949

5890

8175

Nguyên nhiên
vật liệu

4821

9887

9981


12312

15437

Hàng tiêu
dùng

1237

968

1287

1553

1614

Qua các con số nhập khẩu thấy rõ năm 1995 , số nhập máy từ 2 tỷ USD 1995
đã tăng lên đếm 8,1 tỷ đồng 2004 đồng thời số nhập khẩu vật t 4,8 tỷ USD đã tăng
lên hơn 15 tỷ USD. Sự tăng nhập khẩu máy móc thiết bị và vật t là nguyên nhân
chính giúp cho sự phát triển công nghiệp luôn vợt trên 10-11% hàng năm. Việt
Nam đã tăng nhập siêu. Muốn nhập siêu thì phải có ngoại tệ thanh toán, ngân
(22)


hàng đã huy động ngoại tệ kiều hối, du khách ngoại tệ nớc ngoài đầu t, ngoại tệ
lao động Việt Nam nớc ngoài gửi về... để thanh toán nhập siêu. Nhập siêu do các
nguồn ngoại tệ tự có trên đài thọ không tạo thêm nợ đối với nớc ngoài, là một
nguồn vốn đầu t tự có và gây giảm phát rất mạnh vì lẽ nhập siêu gây giảm phát do

khối tiền USD hay VND giảm khi ngoại tệ đợc huy động để thanh toán cho các
nhà cung cấp nớc ngoài.
c. Tỷ giá hối đoái tác động tới đầu t, công ăn việc làm:
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố tác động tới đầu t cả trong nớc và ngoài nớc do
đó tác động tới công ăn việc làm của ngời dân. Khi tỷ giá ổn định và tăng lên sẽ
hấp dẫn đợc các nhà đầu t nớc ngoài đầu t vào Việt Nam. Các nhà đầu t có thể đầu
t trực tiếp hay gián tiếp đều làm tăng quy mô sản xuất lên. Để đáp ứng cho quá
trình mở rộng sản xuất họ phải tuyển thêm lao động. Do đó số lợng việc làm tăng
và nền kinh tế giảm thất nghiệp.
Chúng ta sẽ xem xét tỷ lệ đầu t giá thực tế và GDP trong nớc qua các năm
theo bảng sau. Bảng 4 (trang bên)

GDP trong nớc và tỷ lệ đầu t giá thực tế qua các năm
2005

2005

(a)

(b)

651.607

703.736

706.993

54,8

58,9


63,6

63,9

79,7

80,0

82,1

83,2

83,2

607

684

717

764

786

1995

2000

2001


2002

2003

2004

GDP năm 1994
(tỷ đồng)

228.892

441.649

481.295

535.762

605.583

GDP năm 1994
(tỷ USD)

20,7

39,9

43,5

48,5


Dân số(triệu
ngời)

71,5

77,6

78,6

GDP đầu ngời
theo giá USD

289

514

553

(23)


Tổng đầu t%

27,14

29,61

31,17


33,22

35,09

35,4

36,5

a)Tài sản cố
định mới %

25,42

27,65

29,15

31,14

32,97

33,28

34,38

b) Gia tăng tồn
kho

1,72


1,96

2,02

2,08

2,12

2,12

2,12

Tiêu dùng%

81,8

72,88

71,18

71,33

71,79

64,6

A- Nhà nớc %

8,19


8,42

8,33

8,23

8,9

B- T nhân %

73,61

64,46

62,85

63,1

62,89

Nhập siêu tỷ
đồng

-20.819

-10.878

-10.982

-27.684


-45.725

0,18

0,02

0,08

0,62

0,68

Sai biệt thống
kê %

Qua các con số thống kê, mức tổng đầu t liên tục tăng, năm 1995 là 27,1%
GDP, năm 2000 là 29,6% GDP, năm 2001 là 31,1% GDP, năm 2002 là 33,2%
GDP, năm 2003 là 35,0% GDP, năm 2004 là 35,4% GDP, năm 2005 dự đoán đầu
t sẽ tăng lên 36,5% GDP và các năm tới sẽ tiếp tục tăng. Bảng thống kê trên cho
thấy chính sách tiền tệ ngân hàng là tập trung vốn cho việc tăng liên tục tổng đầu
t từ 27,1% GDP 1995 lên đến 35,4% GDP năm 2004. Thành quả nh vậy là cố
gắng rất lớn của nhà nớc, ngân hàng và ngân sách. Năm 2005 này cần phải phấn
đấu giảm nạn thất thoát trong xây dựng cơ bản, giảm nợ tồn đọng, tăng hiệu quả
đầu t tập trung u tiên các nguồn vốn cho đầu t.
Tỷ giá hối đoái tác động mạnh đến tình hình nhập khẩu Việt Nam, nhập
khẩu máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ tăng do đó tạo điều kiện mở rộng
quy mô sản xuất dẫn tới tăng số lợng việc làm và làm giảm thất nghiệp. Nh vậy
sự điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo tốc độ phát triển nền kinh tế và nhu cầu đầu t
thích hợp trong từng giai đoạn sẽ làm tăng đầu t, do đó làm tăng công ăn việc

làm.
d. Tỷ giá hối đoái tác động tới cán cân thơng mại:

(24)


Cán cân thơng mại là chênh lệch giữa doanh số xuất khẩu và doanh số nhập
khẩu trong một thời kỳ nhất định. Cán cân thơng mại thặng d phản ánh doanh số
xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu. Ngợc lại cán cân thơng mại thâm hụt phản ánh
doanh số xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu. Nhìn chung cán cân thơng mại tác động
mạnh đến nhiều mặt của nền kinh tế. Nếu thặng d sẽ góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm mới, tăng tích luỹ quốc gia dới dạng dự trữ
ngoại hối, tạo uy tín và tiền đồ để đồng nội tệ đợc tự do chuyển đổi.
Tỷ giá hối đoái là một trong những nhân tố chính có ảnh hởng nhanh và
mạnh, trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu do đó nó cũng ảnh hởng đến cán
cân thơng mại. Khi tỷ thực song phơng (đôi khi tỷ giá thực danh nghĩa) tăng có
tác dụng kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu giúp cải thiện cán cân
thơng mại. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tỷ
giá đợc nhiều nớc áp dụng thành công.
Tỷ giá danh nghĩa đa biên NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của một đồng
tiền đối với tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ các đồng tiền đăc trng) và đợc
biểu diễn dới dạng chỉ số, tỷ giá thực đa biên (PEER) đợc xác định trên cơ sở
NEER đã đợc điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nớc và ở tất cả các nớc còn lại.
PEER tác động đên xuất nhập khẩu cũng tơng tự nh tỷ giá thực song phơng,
nhng PEER thể hiện tơng quan sức mua của nội tệ vói tất cả các đồng tiền trong
rổ, do đó nó phản ánh vị thế tổng hợp về sức cạnh tranh thơng mại quốc tế của
một nớc với tất cả các nớc còn lại. Trong khi đó tỷ giá thực song phơng đơn thuần
chỉ đề cập đến vị thế cạnh tranh thơng mại quốc tế giữa hai quốc gia. Do đó động
thái của tỷ giá thực đa biên phản ánh trạng thái cân bằng thơng mại tốt hơn tỷ giá
thực song phơng.
e. Tỷ giá hối đoái tác động tới ổn định tiền tệ:

Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối khi mà sức mua
của tiền tệ giảm mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó,
hoặc khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh trong suốt thời gian dài thì vấn đề xác
định lại tỷ giá hối đoái là điều không thể tránh khỏi. Trong trờng hợp đó nhà nớc
áp dụng chính sách phá giá đồng tiền. Phá giá tiền tệ là việc đánh tụt sức mua
danh nghĩa của tiền tệ nớc mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ giá hối đoái
cuat một đơn vị ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng nội tệ tác động trực tiếp đến
(25)


×