Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Lịch sử văn hóa làng đông chử, xã nghi trường, huyện nghi lộc, tỉnh nghệ an (từ thế kỷ XVII đến năm 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.31 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ VÂN

LỊCH SỬ - VĂN HÓA LÀNG ĐÔNG CHỬ,
XÃ NGHI TRƯỜNG, HUYỆN NGHI LỘC,
TỈNH NGHỆ AN (TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ VÂN

LỊCH SỬ - VĂN HÓA LÀNG ĐÔNG CHỬ,
XÃ NGHI TRƯỜNG, HUYỆN NGHI LỘC,
TỈNH NGHỆ AN (TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 2014)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 602.203.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học
TS. DUƠNG THỊ THANH HẢI


NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và thực hiện luận văn này, ngoài
sự nổ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, dạy dỗ và hướng dẫn
của các thầy giáo cô giáo và những người thân.
Trước hết, cho phép tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.
Dương Thị Thanh Hải là người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi tận
tình trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, những người thân, bạn bè đã
động viên khích lệ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành
khóa học cao học và luận văn tốt nghiệp của mình.
Trong suốt quá trình làm luận văn, bản thân tôi đã rất cố gắng bằng tất
cả sự đam mê và năng lực của mình. Song do còn nhiều hạn chế về nguồn
tài liệu và hạn chế về thời gian, đồng thời bản thân tôi chưa có kinh nghiệm
trong nghiên cứu đề tài khoa học nên chắc chắn luận văn này khó tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong tiếp tục nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Vân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nơi bảo tồn phát huy tinh hoa của nền văn minh Việt cổ suốt nghìn
năm Bắc thuộc vẫn không đâu khác là các làng Việt. Làng Việt có lịch sử
lâu dài như lịch sử đất nước, làng lúc nào cũng đóng vai trò quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Làng còn đóng vai trò quyết định trong quá trình trị thuỷ, khai hoang
phát triển sản xuất, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước.
Làng cũng chính là nơi nuôi dưỡng lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường,
là cơ sở nền tảng của văn hóa, văn minh Việt Nam. Làng Việt Nam được ví
như hình ảnh của một nước Việt Nam thu nhỏ.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với lịch sử đất nước mà làng còn là
nơi sinh thành, là nơi mỗi người dân việt Nam gắn bó cả cuộc đời. Cuộc sống
khó khăn nhiều người phải xa quê hương, xa làng quê yêu dấu của mình.
Nhưng trong con người họ luôn hướng về quê hương, bởi như ai đó đã nói:


“Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người ”. Vì thế, nghiên
cứu làng Việt là để tìm hiểu quá trình phát triển, những đóng góp, vai trò và vị
trí của nó trong lịch sử, góp phần lý giải cuộc sống hiện tại của con người Việt
Nam.
Làng ở Nghệ An được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, có làng ở
ven sông ven biển, ở vùng đồng bằng, có làng ở vùng trung du, bán sơn địa,
có làng (bản) ở vùng rừng núi. Ngay ở đồng bằng, có làng ở cạnh đường
thiên lý đi qua, có làng có chợ, có làng ở ven đô thị, có làng ở vùng đồng
trũng, có làng ở đồng bãi, có làng là làng nghề hay có người làm các nghề
thủ công truyền thống, có làng nhiều người học hành, đỗ đạt, v.v... Và thực
tế cho thấy, bao nhiêu tên đất, tên làng là bấy nhiêu khát vọng, tự hào được
nhân dân gửi gắm vào đó, nào là Bút Điền, Bút Luyện, Đa Văn, Văn Hiến,
Văn Trung, Văn Xá, Nho Lâm… Trong số những làng cổ truyền nổi tiếng
đó, tôi lựa chọn một làng ngay chính trên quê hương mình để tìm hiểu,
nghiên cứu.

Nghi Lộc – một vùng quê nghèo nhưng nơi đây được coi là đất địa linh
nhân kiệt, nơi có nguồn gốc lịch sử và văn hoá lâu đời. Vùng đất hình thành
với nhiều làng truyền thống, một trong số những ngôi làng đó là làng Đông
Chử, thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ngày nay
Đông Chử hình thành vốn là vùng đất bãi sông về phía Đông, do có
hiện tượng biển lùi, thuở trước là cồn khô cát bạc, nghèo, nhưng lại nổi
danh trong huyện cả về học vẫn khoa bảng, cả về yêu nước cách mạng. Tìm
hiểu về làng Đông Chử cũng là về tìm hiểu về một làng quê giàu truyền
thống đấu tranh cách mạng. Đây chính là nơi phát triển các cơ sở Đảng, là
nơi huấn luyện chính trị cho cán bộ, Đảng viên của tỉnh uỷ, là nơi thành lập
hội nông dân tương tế... và đây cũng là địa phương có nhiều đóng góp sức
người sức của phục vụ cho cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của
dân tộc.

5


Trên địa bàn huyện Nghi Lộc, làng Đông Chử thể hiện sắc thái văn
hóa riêng của làng, bởi vậy, tìm hiểu và nghiên cứu về làng Đông Chử tôi
muốn làm rõ hơn về quá trình hình thành và phát triển về đời sống văn hóa
vật chất, tinh thần của những con người nơi đây.
Bên cạnh đó, thông qua việc tìm hiểu sẽ giúp chúng ta, đặc biệt là lớp
trẻ biết nâng niu, trân trọng và biết ơn những giá trị mà các thế hệ đi trước
đã để lại, giáo dục niềm tin vào quê hương, đất nước và góp sức vào việc
giữ gìn phát huy các bản sắc văn hóa dân tộc.
Với tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài “Lịch sử - Văn hóa làng
Đông Chử, Xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An’’ (từ thế kỷ
XVII đến năm 2014).để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, làng lúc nào cũng

đóng vai trò hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội… chính vì vậy, làng Việt luôn là đề tài nghiên
cứu mới mẻ và hấp dẫn của các nhà khoa học. Từ rất sớm đã có không ít ấn
phẩm giá trị nghiên cứu về làng, tiêu biểu là các công trình của Nguyễn
Quang Ngọc, Bùi Xuân Đính, Phan Đại Doãn, Từ Chi… Các công trình
này tiếp cận dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau của làng Việt như cơ
cấu tổ chức, tập quán, đặc trưng văn hoá, hoạt động kinh tế…
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: Công trình “ Một số vấn
đề làng xã Việt Nam ” của Nguyễn Quang Ngọc, tác phẩm đề cập đến sự ra
đời và biến đổi của làng xã Việt Nam trong tiến trình lịch sử, tác giả còn làm
rõ về kết cấu kinh tế - xã hội của làng Việt cổ truyền, văn hoá xóm làng.
Cuối cùng, tác giả đưa dẫn chứng cụ thể về làng xã Việt Nam qua trường
hợp làng Đan Loan. Công trình này đã giúp tôi có cái nhìn khái quát về làng
xã Việt Nam, cung cấp một số cơ sở lý luận quan trọng cho luận văn.
Khi viết “Về một số làng buôn ở Đồng bằng Bắc Bộ ở thế kỷ XVIII –
XIX ”, tác giả Nguyễn Quang Ngọc đã tập trung nghiên cứu về làng Việt ở
6


Đồng bằng Bắc Bộ, sự xuất hiện loại làng buôn và đặc điểm của làng buôn
ở Đồng bằng Bắc Bộ. Thông qua công trình này, tôi hiểu hơn về làng ở
Đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là làng buôn ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài ra, còn có các công trình: “ Hương ước và quản lý làng xã ”
của Bùi Xuân Đính, Nxb Khoa học Xã hội. Tác giả đã trình bày một số nội
dung cơ bản của hương ước, qua đó tác giả đề cập đến vai trò và tác động
của hương ước trong quản lý làng xã, nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong
nội dung hương ước xưa và nay. “ Hương ước và quản lý làng xã” giúp tôi
hiểu sâu hơn về đời sống kinh tế - xã hội của những người nông dân làng
quê
Công trình “Lệ làng phép nước” của Bùi Xuân Đính, Nxb Pháp lý,

nghiên cứu về một hệ thống luật lệ thành văn rất có giá trị về mặt pháp lý.
Nghiên cứu về làng xã chúng ta không thể không nhắc tới GS. Phan
Đại Doãn, ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng xã, trong số đó có
thể kể đến công trình nghiên cứu “Làng Việt Nam – cộng đồng đa chức
năng liên kết chặt chẽ”. Tác giả chỉ rõ làng Việt Nam là một phức hợp của
nhiều tổ chức xã hội mà trước hết là các dòng họ, làng Việt là một kết cấu
chặt, trong làng có hương ước, có tộc ước lại có thêm cả phường lệ.
Nghiên cứu về làng xã ở Nghệ An cũng được đề cập đến trong công
trình của Ninh Viết Giao, trong đó tiêu biểu như: “ Tục thờ thần và thần
tích ở Nghệ An”. Tác giả viết về sự tích các Thành hoàng, các nhân vật lịch
sử gắn liền với các di tích lịch sử - văn hoá ở các địa phương trong tỉnh
Nghệ An và các Nhiên thần, Thiên thần đã từng được nhân dân Nghệ An
thờ phụng. Trong cuốn “ Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ
An”, Ninh Viết Giao đã giới thiệu một số nghề, làng nghề với các quy trình
sáng tạo trong công nghệ để cho sản phẩm và cả việc truyền dạy nghề.
Trong số các công trình đó đã đề cập ít nhiều đến đề tài chúng tôi lựa
chọn, nhưng viết về vùng đất Nghi Lộc, về văn hoá làng xã ở Nghi Lộc,
làng Đông Chử với nhiều lý do khác nhau nên đến nay vẫn chưa được
7


nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể trên tất cả các lĩnh vực. Có chăng cũng
chỉ là những bài viết mang tính chung chung hoặc đề cập đến một khía
cạnh nào đó của văn hóa làng Đông Chử như:
Trong cuốn “Lịch sử xã Nghi Trường” Nxb Nghệ An, cũng đã khái
quát quá trình hình thành, phát triển, các sự kiện lịch sử của xã Nghi
Trường nói chung và làng Đông Chử nói riêng.
Ngoài ra, còn có một số bài viết, liên quan đến văn hóa làng Đông
Chử như trong cuốn “ Đền Diên Cờ” của Hoàng Anh Tài và Đào Tam Tĩnh
, Nxb Nghệ An, đề cập đến làng Đông Chử, trong tâm thức của người dân

Đông Chử xưa và cả nay, đền Diên Cờ rất thiêng, các vị thần ở đây đã phù
hộ cho cuộc sống người dân rất lớn; Cuốn “ Hồ sơ di tích nhà thờ và mộ
Nguyễn Thức Tự”, Nghi Trường, Nghi Lộc, Nghệ An, phần lớn viết về nhà
thờ và mộ Nguyễn Thức Tự và chỉ dành một số trang để đề cập đến sự thay
đổi của tên làng Đông Chử sau cách mạng tháng tám.
Luận văn cao học thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam : “ Dòng họ
Nguyễn ở Nghi Lộc và thầy giáo Nguyễn Thức Tự”, Nguyễn Thị Lan
Phương, Nghệ An, Đại học Vinh, 2008. Qua nội dung chính của luận văn có
thể thấy được quê hương, gia tộc và người thầy đáng kính Nguyễn Thức Tự,
không chỉ làm nỗi danh cho làng Đông Chử, vùng đất Nghi Lộc mà cả vùng
đất xứ Nghệ.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập tới một khía cạnh
đề tài lựa chọn, chưa có công trình nào đề cập hệ thống về diện mạo của
làng Đông Chử. Tuy nhiên, trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc những công
trình đi trước cùng với quá trình tập hợp nguồn tư liệu điền dã, chúng tôi đã
dựng nên phần nào diện mạo của làng Đông Chử từ khi thành lập đến nay
với mong muốn góp phần nhỏ cho việc tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của
làng xã trên địa bàn Nghi Lộc nói riêng, Nghệ An nói chung.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục tiêu
8


Thực hiện đề tài này, tôi hướng đến một làng quê tiêu biểu của xã
Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An – Làng Đông Chử với quá
trình hình thành phát triển của làng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .
Với việc tìm hiểu lịch sử - văn hóa làng Đông Chử, luận văn nhằm
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: làm rõ hơn về mảnh đất và con người làng Đông Chử từ

xưa đến nay cùng với nét văn hoá riêng của làng, qua đó rút ra một số nét
đặc trưng về văn hoá vùng quê này.
- Thứ hai: Làm rõ những giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần
của làng Đông Chử
- Thứ ba: nắm rõ hơn về truyền thống văn hóa của làng Đông Chử,
qua đó rút ra được nét đặc trưng của mỗi vùng miền, gìn giữ và phát huy
nhưng tinh hoa văn hóa dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng:
Đề tài tập trung nghiên cứu về lịch sử - văn hóa của làng Đông Chử
thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
- Giới hạn thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ khi làng có tên là
làng Đông Chữ đến năm 2014.
- Giới hạn không gian: Làng Đông Chử, xã nghi Trường, Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An đến năm 2014.
- Giới hạn về mặt nội dung: Tập trung nghiên cứu về quá trình hình
thành và những giá trị văn hóa của làng Đông Chử.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này tôi dựa vào các nguồn tư liệu sưu tầm được và
xét về nội dung và tính chất của những nguồn tư liệu nằm ở các cơ quan
9


lưu trữ như: Trung tâm lưu trữ Nghệ An, thư viện Nghệ An, thư viện
Nguyễn Thúc Hào, gia phả các dòng họ ở làng Đông Chử. Đây là những
nguồn tư liệu hết sức phong phú, có giá trị lớn, giúp tôi có cái nhìn khái
quát, dựa vào đó để nghiên cứu.
Thứ hai là nguồn tư liệu ở địa phương mà cụ thể là các công trình biên

soạn lịch sử của huyện, xã, làng, cá nhân, liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Đây là nguồn tư liệu giúp tôi rất nhiều trong quá trình làm luận văn.
Thứ ba: trong quá trình thực hiện luận văn của mình, tôi đã trực tiếp
tiến hành nhiều cuộc diễn giả, gặp gỡ trao đổi với các cụ già trong làng.
Đây là nguồn tư liệu bổ trợ quan trọng giúp tôi làm rõ hơn những vấn đề
văn hóa làng Đông Chử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Sưu tầm tư liệu : Để có nguồn tài liệu phục vụ cho luận văn tôi đã
tiến hành các chuyến đi để sưu tầm, thu thập tài liệu tại thư viện Tỉnh Nghệ
An. Thư viện Nguyễn Thúc Hào, thư viện Nghi Lộc, sao chép chụp ảnh lại
các đền, sử dụng các phương pháp phỏng vấn, thực tế điền dã tại các đền,
nhà thờ họ ở làng Đông Chử.
- Xử lý tư liệu: Để xử lý tư liệu cho viết luận văn tôi đã sử dụng
phương pháp chuyên ngành khoa học lịch sử, các phương pháp liên ngành
như tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, phân tích.. để thuận lợi cho việc
nghiên cứu lịch sử văn hóa làng Đông Chử.
6. Đóng góp của luận văn:
- Thứ nhất: Dựng lại bức tranh có hệ thống về quá trình hình thành và
phát triển của làng Đông Chử, các giá trị văn hóa vất chất và văn hóa tinh
thần của làng Đông Chử.
- Thứ hai: Góp phần nâng cao sự hiểu biết và lòng yêu quý vốn văn
hóa cổ truyền của quê hương. Từ đó giúp cho mọi người ý thức về cội
nguồn, về lịch sử quê hương mình, về công lao của ông bà tổ tiên đi trước,
phát huy truyền thống yêu nước và uống nước nhớ nguồn.
10


- Thứ ba: Góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu lịch sử địa phương,
cung cấp nguồn tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu văn hóa, nghiên
cứu làng ở Nghệ An nói riêng, của cả nước nói chung.

7. Bố cục luận văn .
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Làng Đông Chử - Quá trình hình thành và phát triển.
Chương 2: Truyền thống giáo dục và khoa bảng của làng Đông Chử
Chương 3: Các giá trị văn hóa của làng Đông Chử

CHƯƠNG 1:
LÀNG ĐÔNG CHỬ – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN
1.1. Khái quát địa lý tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Nghi Lộc là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Nghệ An, nằm sát
phía Bắc thành phố Vinh trên toạ độ từ 18 độ 40 đến 18 độ 55 vĩ độ Bắc, từ
105 độ 28 đến 105 độ kinh Đông, phía Bắc giáp hai huyện Yên Thành và
Diễn Châu, phía Nam giáp thành phố Vinh và hai huyện Hưng Nguyên,
Nam Đàn; phía Đông giáp biển Đông và huyện Nghi Xuân (tỉnh Hà Tĩnh);
phía Tây giáp huyện Đô Lương. Có diện tích rộng gần 420 ki lô mét vuông.
Theo cuốn Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện Nghi Lộc
(từ năm 1954 về trước) có ghi: từ thuở các vua Hùng dựng nước, trên lục
địa huyện Nghi Lộc ngày nay đã có cư dân người Việt cổ sinh sống. Thuở
11


ấy nơi đây là lãnh thổ bộ Việt thường của nước Văn Lang sau, là nước Âu
Lạc.
Cũng theo cuốn Lịch sử Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện
Nghi Lộc thì dân cư huyện Nghi Lộc hình thành sớm từ dọc ven sông Cấm
và đường Thiên Lý ( tên trước khi có đường quốc lộ I) rồi lan dần ra các
vùng trong huyện, trước hết là vùng phía Đông và Đông Nam theo sự lùi

dần của biển. Trải qua hàng ngàn năm cai trị của các tập đoàn phong kiến
Trung Quốc và các triều đại phong kiến Việt Nam, cũng như các địa
phương khác trong cả nước, địa giới và tên gọi quận, huyện ở vùng đất
Nghi Lộc đã nhiều lần thay đổi. Theo “Nghi Lộc – Đất văn hiến toả rạng”
của Đào Tam Tĩnh có viết về huyện Nghi Lộc, thời Trần gọi là Tân Phúc;
thời Minh đổi gọi là Chân Phúc; triều Tây Sơn gọi là Chân Lộc. Sách “ Đại
Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi về huyện Chân
Lộc như sau:
“ Huyện Chân Lộc ở cách tỉnh thành 125 dặm về phía đông, đông tây
cách nhau 25 dặm, nam bắc cách nhau 42 dặm; phía đông đến biển 18 dặm;
phía tây đến địa giới huyện Hưng Nguyên 7 dặm; phía nam đến địa giới
huyện Nghi Xuân 70 dặm; phía bắc đến địa giới huyện Hưng Nguyên 25
dặm; xưa là huyện Tân Phúc, có thuyết nói là huyện Nghi Chân; đời Tây
Sơn đổi tên hiện nay; trước lệ phủ Đức Thọ; Bản triều (triều Gia Long) vẫn
theo như thế; năm Minh Mạng 7 đổi lệ phủ Anh Sơn. Nay lãnh 4 tổng 66
xã thôn.”
Theo “Nghi Lộc – Đất văn hiến toả rạng” của Đào Tam Tĩnh thì thời
Đồng Khánh (1886 -1888), huyện Chân Lộc là huyện thống hạt thuộc phủ
Anh Sơn. Huyện lị đặt ở địa phận hai xã Kim Nguyên và Cẩm Trường
( thuộc hai xã Nghi Liên và Nghi Trung ), trước đặt ở hai làng Ngô Trường
và Ngô Xá (nay thuộc xã Nghi Đức). Toàn huyện có 4 tổng 81 xã, thôn,
phường. Tổng Yên Trường gồm 26 xã, thôn (nay là thành phố Vinh). Tổng

12


Đặng Xá có 18 xã, thôn. Tổng Thượng Xá có 24 xã, thôn. Tổng Kim
Nguyên có 13 xã, thôn.
Cuốn Lịch sử xã Nghi Trường, đến đời vua Thành Thái (1889 – 1907),
mới đổi tên huyện Chân Lộc dưới triều Tây Sơn thành huyện Nghi Lộc,

cắt phần lớn tổng Yên Trường về Hưng Nguyên, cắt tổng Vân Trình, tổng
La Vân về huyện Nghi Lộc. Huyện Nghi Lộc có 5 tổng với 79 đơn vị hành
chính gồm : tổng La Vân, tổng Vân Trình, tổng Thượng Xá, tổng Đặng Xá,
tổng Kim Nguyên.
Có thể thấy, huyện Nghi Lộc là huyện nằm kề thành phố Vinh – trung
tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của tỉnh Nghệ An. Lại là vùng đất hội tụ
đủ các yếu tố tự nhiên, xã hội, vừa có đồng bằng, có biển, có núi non, sông
ngòi, vừa có giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường sắt, đường hàng
không thuận lợi. Đây có thể coi là vùng đất “ địa linh, nhân kiệt” của xứ
Nghệ mà các nhà nghiên cứu thường nói.
Nằm trong địa thế đó, xã Nghi Trường là một trong 30 xã, thị trấn của
huyện Nghi Lộc, đây là vùng đất đã trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành
chính và tên gọi khác nhau.
Tháng 5/ 1946, thực hiện sắc lệnh của Chính phủ và Nghi quyết Hội
nghị đầu tiên của hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, huyện Nghi Lộc đã
lãnh đạo tổ chức lại đơn vị hành chính, chính quyền trong huyện. Cấp tổng
là cấp trung gian giữa huyện và làng, xã được xoá bỏ. Huyện Nghi Lộc có
79 đơn vị hành chính dưới chính quyền thực dân phong kiến, nay sát nhập
lại thành 24 đơn vị hành chính cấp xã dưỡi chính thể nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, với 24 xã thì lúc đo xã Nghi Trường gọi là xã Thịnh Trường
[15, 6]
Để đảm bảo xây dựng địa bàn tác chiến, huyện Nghi Lộc từ 24 xã nay
sắp xếp lại thành 13 xã mới. Khi sáp nhập thành 13 xã thì xã Thịnh Trường
vẫn giữ nguyên với ba làng Kỳ Trân, Đông Chử, Xuân Tình.

13


Qua đợt phát động giảm tô đơn vị hành chính xã và các tổ chức Đảng,
chính quyền, mặt trận, đoàn thể ở các cấp đều được chấn chỉnh, sắp xếp lại

theo yêu cầu mới. Huyện Nghi Lộc từ 13 xã lớn lần lượt được chia thành
38 xã mới và thống nhất lấy chữ đầu tên huyện làm chữ đầu tên xã: xã
Thịnh Trường chia thành hai xã: Nghi Trường, Nghi Thịnh. Từ đó đến nay
xã Nghi Trường ổn định về đơn vị hành chính.[15, 7]
Xã Nghi Trường nằm cách trung tâm huyện – thị trấn Quán Hành 5
km về phía Đông Nam, cách trung tâm thị xã Cửa Lò 3 km về phía Tây.
Phía Bắc giáp xã Nghi Thịnh, phía Nam giáp xã Nghi Ân, phía Đông giáp
xã Nghi Thạch, phía Tây giáp xã Nghi Trung. Nghi Trường hiện nay là đất
đai của hai làng cổ Đông Chử ( phía Đông) và Kỳ Trân ( phía Tây). Theo
số liệu của lịch sử xã Nghi Trường thì Nghi Trường hiện nay có diện tích
đất tự nhiên 826 ha, dân số 5.400 người.
Trong các làng cổ ở xứ Nghệ, làng Đông Chử là làng quê tiêu biểu,
giàu truyền thống văn hoá. Mặc dù đã trải qua thời gian dài, những dấu tích
cổ xưa không còn nguyên vẹn như xưa nữa, nhưng những gì còn lại vẫn
nhắc nhỡ cho các thế hệ sau một quá khứ hào hùng mà ông cha ta đã viết
nên.
Đông Chử là một vùng quê yên bình, cách trung tâm văn hoá xã
khoảng 2 km về phía Đông, cách trung tâm huyện - thị trấn Quán Hành
khoảng 5 km về phía Đông Nam, cách trung tâm thị xã Cửa Lò 3 km về
phía Tây, phía Bắc giáp xóm 5 xã Nghi Thịnh, phía Nam giáp xóm 13 xã
Nghi Trường, phía Đông giáp xã Nghi Thạch, phía Tây giáp xóm mới bệnh
viện huyện.
Đây là một vùng đất có núi, có sông, sơn thuỷ hữu tình, một làng quê
có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời của Nghi Lộc nói riêng và của
Nghệ An nói chung, đặc biệt nơi đây còn là nơi nổi tiếng cách mạng trước
và sau khi có phong trào cách mạng vô sản và xem ra dẫn đầu vẫn là gia
đình cụ Nguyễn Thức Tự. Có câu ca dao rằng:
14



Ai về Nghi Lộc Nghệ An
Hỏi thăm con cháu cụ Sơn thế nào?
Hỏi Canh hoạt động bên Tàu
Hỏi Đường, Tây đã chặt đầu năm nao
Dần dà hỏi đến Thức Bao
Côn Lôn tin bặt lần sau vượt vời
Cha con sau trước bốn người
Hiến thân cho nước cho nòi Việt Nam.
[26, 378]
Làng Đông Chử trước đây thuộc tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc,
vốn là vùng đất bãi sông về phía đông (Đông Chử) do có hiện tượng biển
lùi. Nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nơi đây, thuở
trước là cồn khô cát bạc, nghèo, trải qua bao biến thiên của tự nhiên, vùng
đất phía đông của huyện là kết quả của những lần biển lùi “ Xưa kia là biển
nay thành nương khoai ”. Sau những lần “biển tiến, biển lùi” diễn ra hàng
trăm năm trong lịch sử, giờ đây biển đã cách xa vùng quê. So với các làng
xã khác trong huyện, Đông Chử có điểm đặc biệt xa núi non, xa sông biển.
Đời vua Thành Thái (1889 – 1907) làng Đông Chử là một trong 26
làng xã thuộc tổng Thượng Xá của huyện Nghi Lộc. Nhưng đến năm 1946
thì Đông Chử thuộc xã Thịnh Trường. Đến năm 1953 thì Đông Chử thuộc
xã Nghi Trường vì lúc này xã Thịnh Trường chia thành hai xã: Nghi
Trường, Nghi Thịnh. Hiện nay Đông Chử tuy đã tách thành các đơn vị
xóm, gồm 7 xóm, và 7 xóm này đều thuộc xã Nghi Trường, đều bắt đầu
một quá trình phát triển mới, có tuyến tỉnh lộ 546 chạy từ thành phố Vinh
xuống thị xã Cửa Lò, có tuyến tỉnh lộ 534 chạy từ thị xã Cửa Lò đến thị
trấn Quán Hành, một vị trí thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế.
Với vị trí địa lý thuận lợi, nên Đông Chử đã có điều kiện giao lưu
buôn bán với các vùng miền trong và ngoài tỉnh. Do vậy, có thể chọn lọc và
kết tinh những nét văn hoá độc đáo của các làng xã xung quanh.
15



1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình, đất đai: Trong quá trình phát triển lịch sử, Nghi Lộc đã phải
trải qua một quá trình đầy khó khăn, cũng như các vùng ven biển của quốc
gia Việt Nam thưở trước, cách đây khoảng 18 ngàn năm mực nước biển
thấp khoảng 120m so với ngày nay, con người có thể đi bộ đến Hải Nam –
Trung Quốc, đến Hoàng Sa, Trường Sa, xuống tận Inđônêxia. Cách ngày
nay khoảng 11 năm, mực nước biển dâng lên và sau đó lùi thấp từ 10 – 15
m so với mức bình thường. Cách 5 ngàn năm thì nước biển dâng cao so với
mức đã có 4 – 5 m và lại dần thấp xuống và ổn định như ngày nay
Ở phía Bắc, phía Tây và Tây Nam từ tả ngạn sông Cấm trở lên là các
núi, đồi kế tiếp nhau suốt địa giới và các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Đô
Lương, Nam Đàn và một phần hữu ngạn sông Cấm lấn sâu lan rộng dọc
biển phía Bắc Cửa Lò. Dãy Đại Vạc từ Nghi Văn, phía Tây Bắc huyện
chạy dọc theo địa giới huyện Yên Thành, Diễn Châu về dãy núi Voi hữu
ngạn sông Cấm, trong dãy Đại Vạc có động Thần Vũ (Nghi Hưng) cao
491m so với mực nước biển. Phía Tây Nam có dãy núi Đại Huệ từ Nghi
Kiều chạy dài đến Tam Toà Thánh Mậu xã Nghi Công. Vành đai vị trí núi,
đồi thuận lợi cho công trình quốc phòng, tạo thế phòng thủ chiến lược liên
hoàn của huyện.
Có thể thấy, với địa hình đó đã tạo cho vùng đất phía đông Nghi Lộc
là kết quả của những đợt biển tiến biển lùi tạo nên những dãi cồn cát chạy
dài theo hướng Bắc – Nam xen lẫn những hồ đầm, lạch nước hoang sơ.
Trên các bãi bồi, dân cư được hình thành và khai phá đất đai trồng trọt,
chăn nuôi để phát triển các nghề để sinh tồn, xây dựng cuộc sống. Phía Tây
và Tây Bắc nhiều đồi núi cao có độ dốc lớn bởi sự chia cắt khe suối, hồ
đầm và những vùng đồng bằng phù sa đan xen tương đối rộng, địa hình
Nghi Lộc có thể nói là đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông.


16


Đông Chử có địa hình không đều, xen kẽ giữa vùng dân cư, cánh đồng
cao là những vùng thấp trũng và bàu nước. Đông chử có nhiều dấu vết của
biển cổ xưa.
Tài nguyên đất có thể chia làm hai vùng lớn. Vùng bán sơn địa có các
loại đất phù sa có nhiều giải đất này được biến đổi là vùng đất trồng lúa
nước, đất dốc tụ sử dụng trồng màu, đất này xói mòn chủ yếu trồng rừng
bảo vệ đất và môi trường. Đất ở phía Đông vùng trung tâm Đông nam có
các loại đất mặn phân bố ở vùng hạ lưu sông Cấm, qua cải tạo dùng trồng
lúa, nuôi trồng thuỷ sản; đất phù sa không được bồi sử dụng rau màu, cây
công nghiệp như lạc, ngô, vừng…Đất cồn cát dùng trồng cây chắn gió, cát
thì cải tạo trồng lạc, vừng đậu.
Trải qua nhiều thế hệ, dưới bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của nhân
dân đất đai được khai phá, cải tạo nên cũng thích hợp được một số loại cây
trồng như lúa nước cây cao, lạc, ngô, khoai, sắn, đậu vừng…Đất đai Đông
Chử có hai loại đất là đất cát pha và cồn cát.
Đất cát pha chiếm hầu hết diện tích đất tự nhiên, gồm hai loại ruộng
là: ruộng cao thích hợp trồng lúa một vụ (lúa trỉa vãi), màu và cây công
nghiệp ngắn ngày với diện tích hàng trăm ha. Ruộng thấp trũng và bàu
nước : cấy hai vụ lúa gần 100 ha. Đất cồn cát ngang dọc các làng, lớn nhất
là các giải cồn cát chạy theo hướng Bắc – Nam ở phía Tây làng Đông Chử
và phía Đông làng Kỳ Trân. Các cồn cát này có chiều rộng từ 200 – 300
mét, chiều dài 1 – 2 km. Đất cồn cát cao, khô nóng, thiếu nước khó canh
tác nông nghiệp. Một số diện tích trên loại đất này là lùm, bụi, cây hoang
dại, nhân dân trồng nhiều cây lấy gỗ và làm chất đốt như Bời lời, Bát bái,
Phi lau…
Theo khảo sát của các nhà nghiên cứu, sông Cấm là dòng sông lớn
nhất của huyện Nghi Lộc, sông dài 47 km, bắt nguồn từ chân các dãy núi

Đại Huệ ở phía Tây Nam và dãy núi Đại Vạc ở phía Tây Bắc, phần lớn
chạy qua Nghi Lộc 15 km từ Tây Nam đến Đông Bắc đổ ra Cửa Lò. Với độ
17


nghiêng không lớn, sông Cấm mang đặc trưng của dòng sông đồng bằng.
Sông Cấm cũng là ranh giới tự nhiên giữa hai vùng có đặc điểm riêng của
huyện Nghi Lộc.
Vùng phía Bắc và Tây, Tây Nam từ tả ngạn sông Cấm trở lên núi đồi
nối tiếp nhau dàn dày suốt dọc địa giới chung với các huyện Nam Đàn, Đô
Lương, Yên Thành, Diễn Châu, lấn sâu vào nội địa và lan rộng ra dọc bờ
biển phía Bắc Cửa Lò.
Vùng phía Đông và Đông Nam từ hữu ngạn sông Cấm trở xuống, tuy
không có nhiều đồi núi, song địa hình cũng khá phức tạp. Bởi sau các đợt
biển lùi cứ cách nhau khoảng trên dưới 1 km lại nổi lên một cồn cát cao
rộng, kéo dài song song theo bờ biển.
Sông Lam có 6 km chảy qua phía Đông Nam huyện Nghi Lộc rồi xuôi
về Cửa Hội. Kênh nhà Lê ở phía Bắc từ Diễn Châu chạy về sông Cấm,
ngoài ra còn có sông Rào Trường bắt nguồn từ các xã phía Đông của huyện
Nghi Lộc rồi đổ ra hạ lưu sông Cấm.
Nghi Lộc là huyện đồng bằng ven biển nằm trong vùng chung của khí
hậu Nghệ An – Miền Trung thuộc khu nhiệt đới gió mùa Đông Bắc lạnh về
mùa đông, gió Tây Nam vừa nóng vừa khô (thường gọi là gió Lào) thổi
mạnh từ tháng 5 đến tháng 8, xen kẽ giữa gió Lào là gió Đông Nam mát
mang hơi nước từ biển vào (thường gọi là gió nồm).
Khí hậu Đông Chử thuộc khí hậu của vùng ven viển Bắc Trung Bộ,
quanh năm chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam,
bởi vậy có sự phân biệt rõ rệt giữa hai mùa nóng và lạnh, một năm có bốn
mùa khá rõ rệt, tuy nhiên thời gian phân bố các mùa lại không đều nhau.
Ở đây mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau thường có gió mùa

Đông Bắc rét buốt, bầu trời đầy mây, buổi sáng thường có sương mù,
sương muối, nhiệt độ xuống thấp trong tháng 11 và tháng giêng, có năm
xuống tới 10 độ C, mưa ít nên gây hạn hán gây khó khăn cho sản xuất. Mùa
nóng bắt đầu tháng 4 đến tháng 9, nhiệt độ tăng cao, nhất là tháng 7, có
18


năm lên 40 độ C, có những đợt khô nóng kéo dài hàng tuần, đây cũng là
mùa thường có bão, mưa lớn, gây ngập úng thiệt hại cho mùa màng và tài
sản của nhân dân.
Dư âm của những đợt gió mùa kéo dài cho hết mùa Đông trong cái rét
tê tái với mưa dầm, rét sương muối, khô hanh. Có những đợt rét kéo dài từ
10 đến 15 ngày, nhiệt độ xuống thấp dưới 10 độ C, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống của nhân dân và quá trình sản xuất nông nghiệp, chăn
nuôi, có khi làm trâu bò và cá nuôi nước ngọt chết rét hàng loạt...
Song thiên nhiên cũng bù đắp cho con người nơi đây một lượng nhiệt
khá dồi dào, là vùng phù sa cát bồi đắp có tầng nước ngầm lớn, thuận lợi lấy
nước phục vụ đời sống nhân dân, các loại cây trồng phát triển tốt quanh năm,
lại gần biển nên mỗi khi có mưa lũ, nước thoát nhanh không gây ngập úng dài
ngày.
Vượt lên mọi khó khăn, nhân dân Đông Chử với bản chất cần cù, sáng
tạo trong lao động sản xuất đã giành nhiều công sức chế ngữ thiên nhiên,
thời tiết khí hậu. Thêm vào đó là nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật
cũng như trình độ nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao nên
những khó khăn về điều kiện tự nhiên dần được khắc phục, đời sống sinh
hoạt cũng như hoạt động sản xuất của người dân dần bớt lệ thuộc vào tự
nhiên hơn.
1.2. Sự hình thành, phát triển và cộng đồng dân cư làng Đông Chử
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của làng
“Làng xã là một cộng đồng có tính chất dân tộc học, xã hội học và tín

ngưỡng. Nó hình thành trong quá trình liên hiệp tự nguyện giữa người dân
lao động trên con đường chinh phục những vùng đất gieo trồng” [42, 11].
Theo GS Từ Chi, làng là từ nôm, để chỉ đơn vị tụ cư nhỏ nhất trong hoàn
chỉnh của người nông dân, còn xã là chữ Hán để chỉ đơn vị hành chính thấp
nhất ở các vùng nông thôn Việt Nam. Xã của người Việt Nam có thể bao
gồm từ một đến nhiều làng, tuỳ từng trường hợp. Mặt khác trong nhiều
19


trường hợp, xã chỉ gồm một làng. Khi đi tìm hiểu về một làng cổ truyền với
những giá trị văn hoá truyền thống mang tính đặc thù của làng thì đòi hỏi
người nghiên cứu phải tìm về nguồn gốc xa xưa của nó. Ngay từ buổi đầu
lập làng, cư dân đã bắt đầu gây dựng đời sống vật chất ổn định, để từ đó tạo
nên một cộng đồng làng xã có đời sống văn hoá tinh thần phong phú, cùng
với kết cấu xã hội hoàn chỉnh.
Đông Chử xưa thuộc tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, nay thuộc xã
Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đông Chử, nghĩa chữ Hán là
vừng đất bãi bồi phía Đông. Thư tịch cổ và các tài liệu địa chất cho biết:
Thuở xa xưa, biển từng ăn sâu đến tận vùng này. Sau những lần “biển tiến,
biển lùi” diễn ra hàng trăm năm trong lịch sử, giờ đây biển đã cách xa vùng
quê Đông Chử tới chục cây số. Gần đây, có người khi khai móng xây nhà
vẫn đào được những tấm ván thuyền đi biển từng bị vùi sâu dưới lòng đất.
Qúa trình “biển cải hóa tang điền” đã để lại trên địa bàn huyện Nghi
Lộc nói chung, làng Đông Chử nói riêng những doi cát bạc màu, những cồn
cọi lúp xúp, cây phi lao, cây hoang dại xen giữa những ao đầm, rạch nước
nặng chua phèn, vì vậy mà người xưa đã có câu “Đất Nghi Lộc cỏ không
mọc được”.
Trong quá trình tìm hiểu, khảo sát và kết hợp với nguồn tài liệu ít ỏi đã
cho thấy từ cuối thế kỷ XIV đã hình thành vùng đất Đông Chử với sự khai
cơ, lập nghiệp, lấy nông nghiệp làm mưu sinh của một bộ phân dân cư.

Theo sử sách thì làng Đông Chử xưa còn có tên gọi là Đông Chứ.
Theo cuốn gia phả họ Nguyễn Thức đây là dòng họ đầu tiên đến khai
hoang lập cư ở làng, gốc tổ từ Thanh Hoá vào Đông Chử từ cuối thế kỷ
XVI, đầu thế kỷ thứ XVII, đến nay đã 20 đời. Trong lời tựa của ông tổ
Nguyễn Huy Phước đã nói: “Chúng ta muốn biết công đức của sự nghiệp
tổ tiên như thế nào, đời trước và đời sau ra sao... Là người con cháu nên
tìm hiểu nguồn gốc sự nghiệp và công đức của tổ tiên...”.

20


Ông tổ đầu tiên của dòng họ là ông Trinh, vợ ông Trinh là bà Lợi, ông
bà sinh được hai người con trai. Đây là một dòng họ lớn trong huyện, con
cháu phát triển rất thịnh vượng và đông đúc.
Sau khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược và bình định
Việt Nam, Pháp nhanh chóng thiết lập bộ máy thống trị từ trung ương đến
địa phương. Lúc này huyện Nghi Lộc được chi làm 5 tổng, trong đó làng
Đông Chử là một trong 26 làng thuộc tổng Thượng Xá. Làng được chia
theo cụm dân cư và căn cứ vào đinh điền.
Đến cách mạng tháng Tám 1945, làng Đông Chử vẫn thuộc vào xã
Thịnh Trường. Song, huyện Nghi Lộc từ quy mô 24 xã lớn nhập lại thành 13
xã và làng Đông Chữ cùng làng Kỳ Trân và Xuân Tình vẫn thuộc xã Thịnh
Trường. Đến tháng 4 năm 1947, Nghệ Tĩnh bị giặc Pháp uy hiếp các phía.
Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ngày 5/ 7/ 1947 nhận định: “ Việc
quân Pháp tấn công vào Nghệ An đã rõ ràng”…Để công tác chỉ đạo tác
chiến phù hợp với từng vùng khi chiến sự xẩy ra, Hội nghị quyết định lập ra
Ban cán sự liên huyện. Đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền các cấp
cũng được sắp xếp lại để đảm bảo với việc xây dựng địa bàn tác chiến.
Huyện Nghi Lộc từ 24 xã nay xếp lại thành 13 xã mới, khi sáp nhập thành
13 xã mới thì xã Thịnh Trường vẫn giữ nguyên với 3 làng là Xuân Tình, Kỳ

Trân và Đông Chử.
Đến năm 1954, xã Thịnh Trường chia thành hai xã: Nghi Trường và
Nghi Thịnh. Lúc này hai thôn Đông Chử và Kỳ Trân sáp nhập thành xã
Nghi Trường và làng Đông Chử thuộc xã Nghi Trường cho đến ngày nay.
1.2.2. Dân cư
Làng Đông Chử trước đây nằm trong vùng đất phía đông của huyện,
từ thưở xưa là biển, trải qua quá trình biến đổi dữ dội của địa chất, thiên
nhiên, với hiện tượng biển tiến, biển lùi đã tạo nên những dọc cát cao, dài
theo hướng Bắc – Nam. Giữa các dọc cát là vùng đất trũng, tạo nên địa
hình phù hợp cho việc khai khẩn lập làng, phát triển sản xuất.
21


Theo các nguồn tài liệu xưa, con người sinh sống ở vùng đất của xã
Nghi Trường rất sớm. Ban đầu là những ngôi làng với thưa thớt dân cư.
Cho đến đầu thế kỷ XIV, cùng với sự phát triển của các triều đại, vùng đất
này là nơi hội tụ của nhiều dòng họ khác nhau. Địa chí Nghi Lộc đã viết:
“Tại làng Đông Chử có các họ Nguyễn Đăng, Nguyễn Thức, Lê, Phan,
Nguyễn Đình…Cư trú đã nhiều đời là họ Nguyễn Đăng, 22 đời, từ ngoài
Bắc vào. Họ Nguyễn Thức từ Thanh Hóa vào cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ
XVII; các họ Lê, Phan, Nguyễn Đình… cũng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ
XIX tiếp tục đến khai canh cư trú tại Đông Chử” [26, 61]
Như vậy, trong sự hình thành dân cư ban đầu của Đông Chử đã cho
thấy các dòng họ đến định cư khai phá ở làng vào các thời gian khác nhau.
Họ cùng nhau đoàn kết chống lại thiên tai, bão lũ, chống lại sự áp bức của
bọn cường hào, chống kẻ thù xâm lược, cùng nhau xây dựng nên quê
hương làng xóm ngày càng đông vui. Đến nay, làng Đông Chử hiện có 35
dòng họ cùng chung sống, góp phần tạo thành một cộng đồng dân cư
khăng khít, ổn định. Ở mỗi gia đình, cá nhân đều tìm thấy ở làng mình
không chỉ là chỗ dựa về vật chất mà hơn hết vẫn là tình cảm, tinh thần nên

họ luôn thể hiện được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng đồng và dân tộc,
“tối lửa tắt đèn có nhau”.
Căn cứ vào nguồn tư liệu điền dã, căn cứ vào gia phả của các dòng họ
Nguyễn Thức, Nguyễn Đình, Phan Viết…chúng ta thấy rõ hơn về quá tình
dân cư lập làng tại vùng đất này:
Dòng họ Nguyễn Thức là dòng họ lớn, sinh sống lâu đời lại làng Đông
Chử từ đầu thế kỷ thứ XVII, đến nay đã 20 đời.
Ông tổ đầu tiên của dòng họ là ông Trinh, vợ ông Trinh là bà Lợi, ông
bà sinh được hai người con trai, người con tên là Duyên (tức là Trần Lưu
Quân). Trần Lưu Quân là đời thứ hai của dòng họ Nguyễn Thức, ông lấy
vợ và sinh được hai người con trai, con đầu đặt tên là Khương (tức là Hội
Triều Bá). Hội Triều Bá là đời thứ ba của dòng họ, tiếp nối từ thế hệ này
22


sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đây là dòng họ có truyền thống
khoa bảng và là dòng họ đông nhất ở làng
Từ buổi khai cơ đến nay, dòng họ Nguyễn Thức luôn xây dựng và
phát huy những truyền thống tốt đẹp, sức mạnh của dòng họ mình, góp sức
cùng nhiều dòng họ khác xây dựng, bảo vệ làng.
Có thể nói dòng họ Nguyễn Thức là dòng họ lớn trong huyện, con
cháu phát triển rất thịnh vượng và đông đúc. Trích gia phả họ Nguyễn
Thức, đoạn nguyên văn chữ Hán “Bồ đề nhất niên, đạt kính thành vu,
quảng đại chi môn; Lân chí gia phong, du phúc lý ư tuy tương chi hậu”.
Dòng họ Phan Viết cũng là một dòng họ lớn, có nguồn gốc từ Thanh
Hoá, một bộ phận đến Đông Chử sinh sống phát triển đến nay là đời thứ 10.
Dòng họ chính gốc là từ họ Mạc, họ Mạc vốn gốc từ họ Cơ đời nhà Chu
(khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 3 TCN) đến thời Đông Chu liệt quốc (770 –
256TCN) phải ly tán. Đến đời Tây Hán (206 TCN-25) một hậu duệ làm quan
đến chức Chấp Kích được hưởng thực ấp ở đất huyện Mạc, quận Cự Lộc từ

đó đổi họ Mạc.
Đến thời Tống, năm 1038 đời Cảnh Hữu, con cháu họ Mạc có Mạc
Vĩnh Xương đỗ tiến sĩ làm huấn học ở Quảng Châu và đã chuyển đến đó
sinh sống, Mạc Vĩnh Xương sinh được ba người con trai là Mạc Ngu, Mạc
Lỗ và Mạc Đôn. Về sau Mạc Ngu dời cư sang nước Nam sinh thành ra họ
Mạc ở Nam Tân, Chí Linh, tỉnh Hải Dương bây giờ.
Đến đời thứ năm, kể từ Mạc Hiển Tích lại có Mạc Đình Chi (12721529) là một danh nhân kiệt xuất – Lưỡng quốc trạng nguyên dưới thời
Trần Thánh Tông. Hậu duệ đời thứ 7 của Mạc Đình Chi là Mạc Đăng Dung
(1483- 1541) chính là người sáng lập ra vương triều Mạc là vị vua họ Mạc
đầu tiên (1527 – 1529). Họ Mạc tồn tại qua 10 đời vua từ Mạc Thái Tổ
Đăng Dung đến Mạc Kính Vũ (1638 -1677). Theo Phan Đăng Thuận, họ
Mạc ở Nghệ An (Thông tin khoa học và công nghệ, số 5, 2007). Năm 1592,
sau khi chính quyền Lê – Trịnh chiếm được Thăng Long và tìm cách tiêu
23


diệt con cháu họ Mạc, nên con cháu họ Mạc phải thay tên đổi họ, mai danh
ẩn tích, ly tán khắp nơi, mặc dù vậy nhưng vẫn để lại dấu hiệu của dòng họ
bằng cách đặt tên có mật hiệu riêng, ghi gia phả, đặt mật mã trong câu đối
như:
“ Bốn trăm năm trước cuối cùng trở lại như ban đầu
Mười ba đời sau tuy khác biệt mà vẫn cùng chung một dòng”
Đến ngày 30/4/2000, đã xác định được 419 chi họ Mạc và chi họ gốc
Mạc với 50 họ khác nhau ở 26 tỉnh thành, trong đó ở Nghệ An đông nhất
có 185 chi họ Mạc và gốc Mạc với các phái hệ [15, 21]
Trải qua hàng trăm năm kể từ khi phải mai danh ẩn tích vào Nghệ Tĩnh,
các thế hệ con cháu họ Mạc đã cùng các dòng họ khác có những đóng góp
hình thành nên các vùng dân cư, làm giàu thêm truyền thống hiếu học, yêu
nước…
Họ Nguyễn Đình cũng là dòng họ có mặt từ rất sớm với công khai

phá, lập làng Đông Chử. Theo lịch sử xã Nghi Trường, gốc tổ là cụ Nguyễn
Sương làm quan với chức Tổng quân vệ Nghiêm Võ Hành Thuận hoá đại
Đô tổng binh sứ Phò mã Đô uý, thuộc chi thứ 2 Nguyễn Xí ở Nghi Hợp đến
Nghi Thạch rồi một bộ phận chuyển về Đông Chử lập cư. Đây là một dòng
họ lớn trên địa bàn huyện Nghi Lộc. Nguyễn Xí là đại thần phục vụ trải qua
4 triều vua Lê, người có công lớn trong cuộc chống giặc ngoại xâm và củng
cố vương triều Lê, được phong Thái sư Cương quốc công. Sau khi đất nước
thái bình Nguyễn Xí được ban cấp nhiều đất, Ông đã cùng con trai cả là
Nguyễn Sư Hồi chiêu dân khai phá lập ra nhiều làng từ Cửa Lò đến Cửa
Hội. Các thế hệ con cháu sinh sống, phát triển ở nhiều làng trong huyện.
Theo các nhà dân tộc học thì từ xa xưa cho tới nay, con người chỉ có
hai phương thức tập hợp để hình thành nên cộng đồng dân cư, đó là tập hợp
người theo quan hệ láng giềng và tập hợp người theo quan hệ huyết thống.
Làng Việt nói chung, làng Đông Chử nói riêng là những đơn vị tụ cư theo

24


tập hợp quan hệ láng giềng, cùng sinh sống trên một địa vực cư trú và sản
xuất.
Trong địa phận làng Đông Chử có nhiều xóm, mà trong một xóm thì
lại có nhiều ngõ. Bởi sự phân chia này thường căn cứ vào hai yếu tố đó là
mật độ dân cư và sự phân nhánh của các con đường. Cũng như bao làng
quê khác ở mọi miền, làng Đông Chử có nhiều xóm tập trung, cùng sinh
sống trên địa bàn cư trú của làng. Làng Đông Chử gồm có sáu xóm. Ở mỗi
xóm có cuộc sống và sinh hoạt riêng, nơi đó có những con người có tình có
nghĩa với nhau.
Về mặt quyền lợi và nghĩa vụ, xóm không có tư cách pháp nhân, xóm
không có quyền quyết định mọi việc được mà phải phụ thuộc vào làng.
Đứng đầu xóm là có xóm trưởng – đây là người có uy tín và có tiếng nói

trong làng, được nhân dân trong xóm bầu ra để làm khâu trung gian giữa
làng với xóm, xóm có việc gì xóm trưởng phải đứng ra giải quyết. Giúp
việc cho xóm trưởng, có vài ba người do xóm trưởng cử, cùng lo việc
chung của xóm.
Trong mỗi đơn vị xóm, lại tổ chức thành hàng xóm, láng giềng, đơn vị
quần cư, tất cả mọi người trong xóm tập hợp lại với mục đích là tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau trong các công việc tang ma, cưới xin, hoặc lúc gặp khó
khăn trong cuộc sống.
+ Tổ chức hành chính của làng.
Theo GS Nguyễn Quang Ngọc “làng xã” như một đơn vị tụ, đơn vị
kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá cộng đồng, đơn vị hành
chính cấp cơ sở như ta hằng quan niệm xưa nay được hình thành trong thời
điểm lịc sử này. Còn theo GS Bùi Xuân Đính thì làng là đơn vị tụ cư truyền
thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu
tổ chức riêng, lệ tục riêng…nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất.

25


×