Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.87 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG THỊ HÒA

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO HỌC SINH TIỂU
HỌC HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

2

NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG THỊ HÒA

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO HỌC SINH TIỂU
HỌC HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
Chuyên ngành: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:


2


3

3

TS. NGUYỄN NGỌC HIỀN
NGHỆ AN - 2015
LỜI CẢM ƠN
Vì đây là đề tài mới mẻ lại ít kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa
học nên trong quá trình làm đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân,
tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ và quan tâm để hoàn thành đề tài.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa
Giáo dục và khoa Sau Đại học trường Đại học Vinh cùng như toàn thể
thầy cô ở các khoa dạy các môn đại cương đã nhiệt tình dạy dỗ, tạo điều
kiện cho tôi được học tập tốt trong suốt khóa học.
Và đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng
dẫn khoa học TS. Nguyễn Ngọc Hiền đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ
bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện làm đề tài.
Nhân đây, cho tôi gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động
viên và tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

3


4


4
Đặng Thị Hòa

MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

4


5

5

KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG

BGH

Ban Giám hiệu

CB, GV, NV

Cán bộ, giáo viên, nhân viên

CBQL

Cán bộ quản lý


CBYT

Cán bộ Y tế

GDSK

Giáo dục sức khỏe

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

CSVC

Cơ sở vật chất

GD

Giáo dục

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc

TTLB

Thông tư liên bộ

PPGD


Phương pháp giáo dục

KT-XH

Kinh tế - xã hội

BVSK

Bảo vệ sức khỏe

YT-GD

Y tế giáo dục

TN

Thực nghiệm

ĐC

Đối chứng

QL

Quản lý

QLGD

Quản lý giáo dục


KNS

Kĩ năng sống
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
5

LUẬN VĂN


6

6
Mục tiêu của giáo dục là phát triên con người toàn diện, tăng

cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về năng lực trí tuệ cũng như phẩm chất
đạo đức, nhân cách. Mục tiêu giáo dục toàn diện phải hội đủ các mặt: đức
- trí - thể - mĩ - lao động hướng nghiệp. Trong đó, sức khỏe - thể lực là cơ
sở để tiếp nhận các mặt còn lại [14].
Sức khỏe được định nghĩa là một trạng thái thoải mái về thể chất,
về tinh thần, chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật. Khỏe mạnh
không chỉ đơn thuần về thể chất mà còn phải có một cuộc sống thoải mái
và hạnh phúc. Giáo dục nâng cao sức khỏe là một phần của y học lâm
sàng, giúp cho bệnh nhân, gia đình họ và cộng đồng có được sức khỏe tốt
nhất. Giáo dục nâng cao sức khỏe cũng là một phần của công việc hàng
ngày, các cán bộ y tế phải luôn nhớ đến vị trí của nó trong khung cảnh xã
hội chung giữa nhiều yếu tố như nhà ở tiện nghi, giáo dục tốt, nghề nghiệp
có ý nghĩa và những mối quan hệ khác.

Sức khoẻ là vốn tài sản quý giá nhất của mỗi con người và của quốc
gia, có nhiều yếu tố liên quan mật thiết với nhau, tác động ảnh hưởng đến
sức khoẻ con người trong đó chăm sóc sức khoẻ cho trẻ thơ là việc làm
hết sức cần thiết [15]. Mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng đều có vai trò
quan trọng trong việc chăm sóc giáo dục hình thành ở trẻ một số nề nếp
thói quen vệ sinh, hành vi văn minh và kĩ năng sống đơn giản ban đầu,
góp phần tạo cơ hội cho trẻ sống, phát triển một cách khoẻ mạnh. Nếu
được chăm sóc tốt và hình thành những thói quen vệ sinh cá nhân cần
thiết từ nhỏ thì sẽ tạo thành nền móng vững chắc về sau này.
Để thúc đẩy công tác chăm sóc sức khỏe, bên cạnh việc đẩy mạnh
các công tác y tế trường học, các nhà nghiên cứu cũng nhận thức rằng
6


7

7
phải đẩy mạnh công tác giáo dục sức khỏe cho học sinh từ khi các em
bước vào ngưỡng cửa nhà trường. Đặc biệt, học sinh tiểu học thuộc tuổi
trẻ đang lớn nhanh và phát triển về mọi mặt vì vậy muốn có thế hệ tương
lai khỏe mạnh phải chú ý từ lứa tuổi này. Trên thực tế đa số bệnh ở tuổi
trưởng thành đều bắt nguồn từ tuổi học đường như: suy dinh dưỡng, cận
thị, cong vẹo cột sống, bướu cổ, các bệnh về tim mạch, tiêu hóa, bệng lây
qua đường tình dục,...và các bệnh truyền nhiễm. Nhiệm vụ giáo dục sức
khỏe là công tác quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục sức khỏe
cho thế hệ trẻ và quan trọng ngang với các công tác khác của nhà trường
tiểu học nhằm thực hiện khẩu hiệu: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
[1].
Hiện nay, công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nói chung, học sinh
nói riêng đã có những điều kiện thuận lợi để thực hiện. Tuy nhiên, trên

thực tế, việc triển khai GDSK trong Nhà trường Tiểu học hiện nay chưa
đạt hiệu quả, chất lượng như mong đợi, có nhiều bất cập. Cơ sở vật chất
các nhà trường chưa đảm bảo, thư viện còn thiếu các tài liệu, phương tiện
phục vụ giảng dạy GDSK. Đội ngũ giáo viên chưa được tập huấn bài bản,
giáo viên chưa có được nhiều các biện pháp phù hợp để thực hiện nội
dung GDSK, các cấp các ngành địa phương vẫn chưa quan tâm kịp thời.
Chính vì vậy, việc GDSK và bảo vệ sức khỏe cho học sinh tiểu học là rất
quan trọng, hình thành cho các em kiến thức và kỹ năng ban đầu về chăm
sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình và xã hội, xây dựng cho các em thái
độ, hành vi cư xử đúng để bảo vệ sức khỏe cho cá nhân và cộng đồng là
cần thiết.
7


8

8
Tuy nhiên, đến nay dù nhận được nhiều quan tâm của các ngành,

các cấp nhưng công trình nghiên cứu đang rất ít cho việc đề xuất các biện
pháp GDSK cho học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh
Tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng GDSK cho
học sinh tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học.

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh tiểu học huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh tiểu học huyện
Nghi Xuân Tỉnh Hà Tĩnh nếu đề xuất được một số biện pháp Giáo dục
sức khỏe cho học sinh tiểu học ở Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh có cơ
sở khoa học và có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về GDSK cho học sinh tiểu học.

8


9

9
5.2. Tìm hiểu thực trạng GDSK cho học sinh tiểu học huyện

Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học
sinh tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện có phạm vi nghiên cứu ở 3 trường tiểu học:
Xuân An 2, Xuân Giang 1 và trường tiểu học Xuân Phổ trên địa bàn
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
7. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
7.1. Nội dung nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học
sinh tiểu học ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các nhiệm vụ trên của đề tài, chúng tôi đã sử dụng
kết hợp các phương pháp sau: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá những tài liệu lý luận để xây dựng cơ sở
lý luận của đề tài.
7.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.3.1. Phương pháp quan sát
Phương pháp này sử dụng để tìm hiểu thực trạng các hoạt động của
giáo viên, nhân viên và học sinh trường tiểu học về thực hiện công tác
GDSK, đồng thời đó cũng là cơ sở để khẳng định, kiểm chứng các biện
pháp đề xuất.
7.3.2. Phương pháp điều tra (bằng bảng câu hỏi)
9


10

10
Sử dụng phương pháp này

nhằm đánh giá thực trạng công tác

GDSK cho họa sinh tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Tỉnh Hà Tĩnh.
7.3.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Tổng kết kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục,
các nhà quản lý về các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm
mục đích đánh giá, tổng kết công tác GDSK cho học sinh tiểu học huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
7.4. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này được sử dụng để xử lý tất cả các mẫu phiếu điều

tra. Mặt khác dùng để đánh giá tính cấp thiết và mức độ khả thi của các
biện pháp.
8. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng
GDSK cho học sinh tiểu học.
- Làm sáng tỏ thực trạng về vấn đề nâng cao chất lượng GDSK cho
học sinh tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học
sinh tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận - kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng GDSK cho học
sinh tiểu học

10


11

11
Chương 2: Thực trạng công tác nâng cao chất lượng GDSK cho
học sinh các trường tiểu học huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học
sinh tiểu học, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

11



12

12
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Hiện nay, sức khỏe toàn cầu đang bị ảnh hưởng bởi ba xu hướng:

dân số lão hóa, đô thị hóa nhanh chóng không có kế hoạch, và toàn cầu
hóa. Điều này dẫn đến tỷ lệ ngày càng tăng của bệnh không lây nhiễm và
các nguy cơ của gây ra bệnh tật đã trở thành một vấn đề toàn cầu ảnh
hưởng đến cả các quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Gần 45% gánh
nặng bệnh tật cho người lớn ở những nước này hiện là do bệnh không lây
nhiễm [2]. Nhiều quốc gia thu nhập thấp và trung bình đang bắt đầu phải
chịu gánh nặng kép của các bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm
và hệ thống y tế ở những nước này đang phải đối phó với các chi phí bổ
sung để điều trị cả hai.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh cho thấy sức khỏe của
thế hệ trẻ là nhân tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng học
tập, sáng tạo và sự phát triển năng khiếu của họ đang học ở trường cũng
như tương lai sau này.
Từ thế kỷ 19 nhiều nước ở Châu Âu đã có những chủ trương và
phương pháp thực hiện chăm sóc sức khỏe cho học sinh trong các trường
học. Năm 1877, tác giả Babinski đã cho xuất bản cuốn sách giáo khoa về
vệ sinh học. Tác giả Breslauer, Herman Cahn từ năm 1864 đã nghiên cứu
12


13


13

sự tăng nhanh bệnh cận thị trường

học có liên quan đến chiếu sáng

[3].
Đến thế kỷ 20 đã có sự hợp tác chặt chẽ giữa bác sĩ trường học với
các trung tâm phòng chống dịch bệnh và đã đánh dấu một bước tiến bộ
theo lối dự phòng. Năm 1981, Vermer Kneist, viện vệ sinh xã hội Cộng
hòa dân Chủ Đức đã công bố mô hình xây dựng y tế trường học.
Năm 1973, Edith Ockel Nghiên cứu về gánh nặng trẻ em trong học
tập và chỉ rõ những em có hiệu suất học tập thấp có sự diễn biến vế huyết
áp và tần số mạch khác với trẻ em trung bình và đã đề xuất cải thiện sức
khỏe nhằm nâng cao hiệu suất học tập.
Năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới đã xây dựng sáng kiến y tế trường
học toàn cầu (Global school Health Intiatives) nhằm đẩy mạnh công tác
chăm sóc sức khỏe cho học sinh [8].
Các chương trình sức khỏe trong nhà trường có thể cùng một lúc
làm giảm các vấn đề y tế chung, làm tăng hiệu quả của hệ thống giáo dục
và vì vậy làm tiến bộ nền y tế công cộng, giáo dục và sự phát triển xã hội.
“Nếu cơ thể trẻ em khỏe mạnh thì sẽ có lợi thế nhất trong mọi thời cơ của
học tập tốt, sẽ có một đời sống đầu đủ, hạnh phúc và đóng góp xây dựng
cho tương lai đất nuớc”. (WTO 1998) [1].
Tuyên ngôn Alma-ata (1998) là một văn kiện quốc tế về chăm sóc
sức khỏe ban đầu và theo tổ chức y tế thế giới: “Trường học giáo dục sức
khỏe là nơi trong đó cả về lời nói lẫn việc làm đều có hoạt động hổ trợ và
cam kết thúc đẩy sức khỏe tòan diện cho tất cả mọi thành viên trong cộng
đồng nhà trường từ tình cảm, xã hội, thể chất đến các vấn đề đạo đức” [3].

13


14

14
Nhìn chung, những kinh nghiệm về phương hướng,cách thức

chăn sóc sức khỏe cho học sinh tiểu học ở các nước phát triển là rất quí
giá và đáng để chúng ta học tập. Tuy nhiên, việc vận dụng chúng vào điều
kiện kinh tế - xã hội của chúng ta đòi hỏi phải có một quá trình chọn lọc,
thử nghiệm để phù hợp với những đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
1.1.2. Ở Việt Nam
Việt Nam trong giai đoạn mở cửa, công nghiệp hóa, đô thị hóa phải
cùng lúc đối phó với mô hình bệnh tật của các nước đang phát triển cũng
như đã phát triển, nhiều loại bệnh và nhiều vấn đề xã hội đặt ra liên quan
đến tình trạng sức khỏe của cá nhân và cộng đồng. Trường học là nơi giáo
dục toàn diện cho thế hệ trẻ cho nên làm tốt công tác giáo dục sức khỏe
cũng có nghĩa là làm tốt các nội dung giáo dục khác như: đức, trí, thể, mỹ,
lao động. Trường học là nơi có thể có những can thiệp nhằm chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe và phòng bệnh có hiệu quả thông qua các hoạt động
truyền thông giáo dục sức khỏe, thực hiện các chính sách sức khỏe và dịch
vụ sức khỏe.
Nhiều công trình nghiên cứu về sức khỏe học sinh trong các trường
học lần lượt được nghiên cứu. Tác giả Trần Văn Dần và cộng sự (1998)
nghiên cứu cho thấy tỉ lệ cận thị ở học sinh tiểu học là 9,6 %, tỷ lệ học
sinh cận thị ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cao như nhau [4]. Năm
2005, Tác giả Trần Văn Dần và cộng sự Đào Thị Mùi nghiên cứu tình
hình cong vẹo cột sống ở học sinh Hà Nội ở các cấp là 18,9% các nguy cơ
chủ yếu là do bàn ghế không đúng chuẩn và tư thế ngồi sai của học sinh,

sự thiếu hụt về kiến thức, thực hành phòng tránh bệnh cong vẹo cột sống
14


15

15
học đường của học sinh còn rất thấp. Năm 2008, sau đánh giá thử
nghiệm biện pháp phòng tránh cong vẹo cột sống cho học sinh trường tiểu
học Cổ Bi trong 2 năm học 2005-2006 và 2006-2007 cho kết quả tư thế
ngồi học sai của học sinh tiểu học là vấn đề bức xúc nhất [5]. Cho tới nay
tại Việt Nam, mặc dù có nhiều nghiên cứu về y tế trường học nhưng chủ
yếu tập trung vào tình hình sức khỏe học sinh, tìm hiểu về bệnh tật học
đường [6], tai nạn thương tích và một số yếu tố ảnh hưởng như nghiên
cứu của tác giả Trần Văn Dần, nghiên cứu về cong vẹo cột sống của Vũ
Đức Thu, Chu Văn Thăng, Trần Thị Dung, Trần Công Huấn,…Tất cả
chưa thật sự đi sâu vào vấn đề chăm sóc và giáo dục sức khỏe cho sinh
từng cấp học cụ thể.
Sau hội nghị Alma Ata, ngành Y tế Việt Nam cũng đã xác định để
giáo dục sức khỏe ở vị trí số 1 trong 10 nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu của tuyến y tế cơ sở. Chính vì thế mà nước ta đã và lần lượt ban hành
các văn bản cụ thể hướng dẫn công tác chăm sóc và giáo dục sức khỏe cho
học sinh.
Thông tư liên bộ Y tế và Giáo dục số 32/ TTLB ngày 27/02/1964
đã hướng dẫn công tác vệ sinh trường học. Trong thời kỳ chiến tranh leo
thang ra miền Bắc, các trường học phải sơ tán ra miền núi, nông thôn, Bộ
Y tế đã tiến hành điều tra sức khỏe, bệnh tật của 20.000 học sinh ở 13 tỉnh
thành trong 2 năm học 1966- 1967 và 1967-1968. Trước tình hình bệnh tật
của học sinh gia tăng, Chính phủ đã ban hành chỉ thị 46/TTG ngày 02/
06/1969 giao trách nhiệm cho các ngành các cấp phải giữ gìn và nâng cao

sức khỏe học sinh. Năm 1973 có thông tư liên bộ 09/LB/YT- GD ngày
07/06/1973 hướng dẫn y tế trường học, trong đó có phân cấp việc khám
15


16

16
chữa bệnh và quản lý sức khỏe học sinh từ tuyến y tế xã đến các bệnh
viện thành phố. Đến năm 1982 có thông tư liên bộ 13/LB/YT- GD ngày
09/06/1982 về việc đẩy mạnh công tác vệ sinh trường học. Nhưng tiếc
rằng sau khi ban hành còn thiếu sự chỉ đạo phù hợp với tình hình mới của
đất nước. Cuối thập kỷ 80, với tài trợ của UNICEF, môn học giáo dục sức
khỏe đã được thí điểm giảng dạy ở một số trường tiểu học và đến năm
1996 sức khỏe được coi là môn học bắt buộc trong 9 môn ở bậc tiểu học.
Đến nay, mặc dù môn sức khỏe đã được tích hợp lồng ghép trong môn tự
nhiên xã hội ở lớp1, 2, 3 và khoa học ở lớp 4, 5 nhưng vấn đề giáo dục
sức khỏe cho học sinh tiểu học vẫn là môn học hết sức cần thiết.
Chính việc lần lượt ban hành các quy định trên đã chứng tỏ việc
giáo dục sức khỏe cho trẻ trong trường học là một việc làm hết sức cần
thiết trong thời đại ngày nay.
Trường học phải tổ chức tốt dạy tốt chương trình giáo dục sức khỏe
theo đúng quy định như thực hiện đầy đủ các quy chế, tiêu chuẩn vệ sinh
do Bộ Y tế và Bộ GD&ĐT ban hành. Trong các họat động của trường học
như giảng dạy, học tập, lao động,.. phải đảm bảo các yêu cầu hợp lý, an
tòan và hiệu quả. Sinh hoạt giải trí phải có nề nếp, điều độ, phù hợp với
sức khỏe, độ tuổi, giới tính. Xây dựng trường học là một điển hình về môi
trường “Xanh - Sạch - Đẹp”.... [3]. Trong tất cả các vấn đề trên việc giáo
dục sức khỏe cho học sinh tự biết chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia
đình, cộng đồng là một điều không kém phần quan trọng.

Như vậy, vấn đề GDSK cho học sinh các trường phổ thông nói
chung và các trường tiểu học nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều
16


17

17
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các tài liệu chỉ đưa ra các nội dung và
phương pháp giảng dạy chứ chưa đề cập đến việc nâng cao chất lượng
giảng dạy vấn đề này đi vào chiều sâu và có chất lượng. Trên cơ sở kế
thừa và phát huy các nội dung nghiên cứu về giáo dục sức khỏe, chúng tôi
vận dụng nghiên cứu vào việc đề xuất “Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học Huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Sức khỏe
Theo Tổ chức Y tế thế giới: "Sức khỏe là một trạng thái thoải mái
toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có
bệnh hay thương tật” [1]. Sức khỏe là vốn quí nhất của mỗi người, là
nhân tố cơ bản trong toàn bộ sự phát triển của xã hội. Có nhiều yếu tố tác
động đến sức khỏe của mỗi người: yếu tố xã hội, văn hoá, kinh tế, môi
trường và yếu tố sinh học như di truyền, thể chất. Muốn có sức khỏe tốt
phải tạo ra môi trường sống lành mạnh và đòi hỏi phải có sự tham gia tích
cực, chủ động của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng vào các hoạt động
bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Như vậy có thể hiểu sức khỏe gồm 3 mặt
[7]:
1.2.1.1. Sức khỏe thể chất
Thể hiện một cách tổng quát sự sảng khoái và thoải mái về thể chất.
càng sảng khoái, thoải mái, càng chứng tỏ là người khỏe mạnh. Cơ sở của

sự sảng khoái, thoải mái về thể chất là:

17


18

18

- Sức lực: Khả năng hoạt động của

cơ bắp mạnh, có sức đẩy, sức kéo,

sức nâng cao do đó làm công việc chân tay một cách thoải mái như mang
vác, điều khiển máy móc, sử dụng công cụ.
- Sự nhanh nhẹn: Khả năng phản ứng của chân tay nhanh nhạy, đi lại, chạy
nhảy, làm các kỹ thuật, thao tác nhẹ nhàng, thoải mái
- Sự dẻo dai: Làm việc hoặc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục
mà không cảm thấy mệt mỏi.
- Khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh: ít ốm đau, nếu có bệnh
cũng nhanh chóng khỏi, chóng hồi phục.
- Khả năng chịu đựng được các điều kiện khắc nghiệt của môi trường: chịu
nóng, lạnh, thời tiết thay đổi đột ngột.
Cơ sở của các điểm vừa nêu chính là trạng thái thăng bằng của mỗi
hệ thống và sự thăng bằng của 4 hệ thống: tiếp xúc, vận động, nội tạng và
điều khiển cơ thể.
1.2.1.2. Sức khỏe tinh thần
Là hiện thân của sự thỏa mãn vể mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và
tinh thần. Thể hiện ở sự sảng khoái, cảm giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi,
thanh thản; ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời; ở những quan niệm sống

tích cực, dũng cảm, chủ động; ở khả năng chống lại những quan niệm bi
quan, lối sống không lành mạnh [1].
Có thể nói: Sức khỏe tinh thần là nguồn lực để sống khỏe mạnh; là
nền tảng cho chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách
tự tin và hiệu quả với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khỏe
tinh thần cho ta khí thế để sống năng động, để đạt được mục tiêu đặt ra
trong cuộc sống và tương tác với người khác với sự tôn trọng và công
18


19

19

bằng. Sức khỏe tinh thần chính là

biểu hiện của nếp sống lành mạnh,

văn minh, có đạo đức. Cơ sở của sức khỏe tinh thần là sự thăng bằng và
hài hòa trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm.
1.2.1.3. Sức khỏe xã hội
Là sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng. Như Mác nói: “Con
người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Sức khỏe xã hội thể hiện ở
sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa thành viên:
gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công cộng và cơ quan. Nó thể
hiện sự được chấp nhận và tán thành của xã hội. Càng hòa nhập với mọi
người, được mọi người đồng cảm, yêu mến càng có sức khỏe tốt và ngược
lại. Cơ sở của sức khỏe xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền
lợi cá nhân với hoạt động và quyền lợi xã hội, của những người khác; là
sự hòa nhập giữa cá nhân, gia đình và xã hội [1].

Ba mặt sức khỏe trên liên quan chặt chẽ với nhau. Nó là sự thăng
bằng, hài hòa của tất cả những khả năng sinh học, tâm lý và xã hội của
con người. Nó là cơ sở quan trọng của hạnh phúc con người. Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Sức khỏe là sức sống, là lao động sáng
tạo, là tình yêu và hạnh phúc”.
1.2.2. Giáo dục sức khỏe
Có nhiều định nghĩa về GDSK và định nghĩa đầu tiên có từ năm
1943. Cho đến nay việc định nghĩa GDSK vẫn chưa hoàn chỉnh, thống
nhất.
Theo Badgly 1975 GDSK là: “Giúp quần chúng đạt được sức khỏe
bằng chính nổ lực của họ”
19


20

20
Theo Tổ chức Y tế Thế giới 1977, GDSK là: “Một hoạt động

nhằm vào các cá nhân để đưa đến việc thay đổi hành vi”.
Còn L.W Green, 1980 thì “GDSK là sự kết hợp toàn bộ các kinh
nghiệm rèn luyện có kế hoạch nhằm thúc đẩy sự thích nghi một cách tự
nguyện những hành vi dẫn tới sức khỏe“ [8].
“GDSK là một quá trình nhằm giúp nhân dân tự thay đổi những
hành vi có hại cho sức khỏe để chấp nhận thực hiện những hành vi tăng
cường sức khỏe”Bộ Y tế (1993)
Bruce G.Simons-Morton, Walter H.Greene, Nell Gottlieb (1995)
xem GDSK là “một nghề nghiệp tận dụng các tiến trình giáo dục sức khỏe
và nâng cao sức khỏe để đẩy mạnh hành vi sức khỏe và thay đổi các điều
kiện ảnh hưởng đến hành vi này cũng như các điều kiện ảnh hưởng đến

sức khỏe” [9].
Theo ý kiến của chúng tôi: "GDSK là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch, bằng nội dung và phương pháp khoa học của các nhà
giáo dục, các phương tiện truyền thông đến tình cảm, lý trí của con người
nhằm thay đổi hành vi, thói quen sức khỏe có hại thành hành vi có lợi cho
sức khỏe cá nhân và cộng đồng" [1].
Giáo dục sức khỏe làm thay đổi hành vi sức khỏe: từ việc thay đổi
nhận thức, thái độ bảo vệ và tự bảo vệ sức khỏe cá nhân và tập thể, đến
niềm tin, từ đó hình thành những kỹ năng thích hợp.
1.2.3. Biện pháp giáo dục bảo vệ sức khỏe
Dựa trên khái niệm chung về biện pháp và biện pháp giáo dục,
chúng tôi đưa ra khái niệm về biện pháp giáo dục sức khỏe như sau:
20


21

21
Biện pháp GDSK là cách

thức tổ chức nội dung giáo dục sức

khỏe cho học sinh nhằm hình thành ở các em nhận thức, thái độ và hành
vi đúng đắn về sức khỏe. Biện pháp GDSK là cách thức tổ chức thông qua
các hoạt động giáo dục nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kĩ năng
và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển con người hoàn
thiện trong một xã hội bền vững. Các biện pháp thực hiện phải nhằm vào
việc vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo vệ, chăm sóc
nâng cao sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, sửa đổi tập quán, thói quen có
hại cho sức khỏe, xây dựng lối sống lành mạnh có lợi cho sức khỏe. Từ

đó, giúp cho mọi đối tượng tự nguyện, tự giác thay đổi hành vi sức khỏe
có lợi cho cá nhân và cộng đồng.
1.3. Một số vấn đề về Giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học
1.3.1. Mục đích, yêu cầu của GDSK cho học sinh tiểu học
1.3.1.1. Mục đích của GDSK
GDSK nhằm giúp mọi người:
- Tự tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của cá nhân và cộng đồng
bằng chính những hành động và nổ lực của cá nhân.
- Tự chịu trách nhiệm và quyết định lấy những hoạt động và biện
pháp bảo vệ sức khỏe của mình.
- Tự giác chấp nhận và duy trì lối sống lành mạnh, từ bỏ những thói
quen tập quán có hại cho sức khỏe cá nhân và cộng đồng.
- Biết sử dụng các dịch vụ y tế có thể được giải quyết các nhu cầu
sức khỏe và các vần đề của cá nhân và cộng đồng.

21


22

22
Tóm lại, mục đích của

GDSK là giúp mọi đối tượng tự

nguyện, tự giác thay đổi hành vi sức khỏe của chính mình.
Trên cơ sở đó mục đích của việc GDSK cho học sinh là:
- Học sinh hiểu biết về những vấn đề sức khỏe và nhu cầu về sức khỏe của
bản thân các em.
- Xây dựng lối sống lành mạnh, khoa học thông qua những biểu hiện đúng

đắn trong quan niệm về sức khỏe và thái độ sống để học sinh có thể lựa
chọn cách nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của bản thân.
- Cải tiến môi trường sức khỏe trường học và gia đình.
- Thúc đẩy vai trò học sinh trong việc phổ biến những hiểu biết về sức khỏe
cho gia đình và cộng đồng, tích cực ủng hộ, hưởng ứng các chương trình
sức khỏe được thực hiện ở địa phương.
1.3.1.2. Yêu cầu của GDSK
Nội dung chương trình GDSK ở trường học phải được gắn liền với
nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu của Nhà nước được tiến hành ở địa
phương. Phương pháp giảng dạy phải trên nguyên tắc “Mọi người cùng
tham gia”, học sinh được hướng dẫn thực hành các kỹ năng, hành vi sức
khỏe lành mạnh [1].
Để chọn ra một phương pháp giảng dạy giảng dạy hiệu quả, giáo
viên cần lưu ý:
- Sự thích hợp của vấn đề trong nội dug GDSK
- Hấp dẫn đối với học sinh.
- Thích hợp đối với lứa tuổi và lớp học.
- Mức độ khuyến khích học sinh tham gia bằng những họat động và công
việc thực tế của công tác GDSK
22


23

23
- Thời gian và phương tiện để thực hiện công tác GDSK
- Sự phù hợp với từng địa phương
1.3.2. Nội dung Giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học
1.3.2.1. Nguyên tắc chọn nội dung GDSK
Dựa vào mục đích GDSK đã xác định và kiến thức y học mà chúng

ta có, những người làm GDSK vạch ra những nội dung cần phải giáo dục
phù hợp với đối tượng, trong đó cần phân định rõ:
- Những gì phải biết: Phải giới hạn được chủ đề, tránh mở rộng miên man
và đưa ra nhiều thông tin một lúc. Những thông tin phải biết là những
thông tin mà đối tượng khi được biết họ có thể tiếp thu và thực hiện được.
- Những gì cần biết (thông tin hổ trợ): Giúp cho đối tượng hiểu biết nhiều
hơn, có liên quan mật thiết đến các vấn đề cần được giáo dục.
- Những gì nên biết: Giúp cho đối tượng nắm vững chủ đề và có thể giải
đáp một số câu hỏi, thắc mắc của người khác.
- Lựa chọn nội dung GDSK: sau khi đã có một tập hợp những kiến thức và
kỹ năng cần thiết phục vụ cho mục tiêu GDSK, những người làm GDSK
cần biết lựa chọn các thông tin thích hợp để sọan thành “Một bài GDSK”
cụ thể, đáp ứng yêu cầu của một bài viết.
1.3.2.2. Những nội dung chủ yếu của GDSK cho học sinh tiểu học
Nội dung GDSK phải xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với lứa
tuổi, với những kiến thức mà các em học được ở từng cấp học, bậc học
[7].
a. Vệ sinh cá nhân

23


24

24
Cần giáo dục cho học sinh biết thực hành các hành vi vệ sinh

cá nhân có lợi cho sức khỏe, khắc phục, loại bỏ các thói quen mất vệ sinh,
có hại cho sức khỏe. Vệ sinh cá nhân bao gồm: vệ sinh môi trường, vệ
sinh thân thể, vệ sinh trang phục…

b. Vệ sinh môi trường
Vệ sinh môi trường bao gồm: vệ sinh gia đình, vệ sinh trường học,
vệ sinh học tập, vệ sinh trong lao động, luyện tập thể thao phù hợp với lứa
tuổi, giới tính để phòng tránh bệnh tật, tai nạn thương tích thường gặp và
nâng cao sức khỏe cho mỗi cá nhân.
c. Dinh dưỡng và vệ sinh ăn uống
Cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng hợp lý. Đảm bảo vệ sinh an toàn lương
thực thực phẩm. Phòng tránh ngộ độc thức ăn và các bệnh do rối loạn dinh
dưỡng (suy dinh dưỡng, béo phì, bướu cổ, thiếu máu). Đảm bảo vệ sinh ăn
uống.
d. Phòng chống dịch bệnh và các vấn đề xã hội
Có những hiểu biết về các bệnh lây truyền thành dịch, các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Phòng chống các vấn đề xã hội
như: mại dâm, ma túy, nghiện thuốc lá; rượu bia, xâm hại cơ thể,…Phát
hiện các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe theo từng lứa tuổi, giới
tính, cấp bậc học.
e. Rèn luyện lối sống
Cần giáo dục cho học sinh biết tạo nên lối sống, nếp sống văn hóa,
có thói quen văn minh, lịch sự, khắc phục những thói quen, lối sống

24


25

25

không lành mạnh, lạc hậu, có hại

cho sức khỏe và chất lượng cuộc


sống của con người.
Biết vận dụng kỹ năng sống để ứng phó với những thử thách hàng
ngày của cuộc sống nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho cá nhân, gia
đình và cộng đồng.
Để GDSK cho học sinh đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải được sự quan
tâm của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và các bậc phụ
huynh, đồng thời phải xây dựng môi trường nhà trường trở thành “Trường
học nâng cao sức khỏe” để học sinh có điều kiện thực hiện tốt các nội
dung GDSK mà nhà trường đã truyền thụ.
1.3.3. Phương pháp và hình thức Giáo dục sức khỏe
1.3.3.1. Phương pháp giáo dục
PPGD là cách thức hoạt động của giáo viên, được thực hiện trong
quá trình dạy học để tác động đến người học và việc học của họ nhằm
hướng dẫn họ học tập và giúp họ đạt mục tiêu học tập [10].
Mỗi mô hình lí luận dạy học, PPGD đều có những điểm mạnh,
điểm hạn chế nhất định. GDSK có chất lượng thể hiện ở các tiêu chí về
kiến thức, thái độ và hành vi, trong đó chủ yếu là hành vi. Để đạt được
điều đó phương pháp giáo dục đóng vai trò quan trọng. Phương pháp giáo
dục phải huy động đến mức tối đa sự tham gia đóng góp của học sinh vào
họat động học tập và thực tiễn bảo vệ sức khỏe. Quán triệt tư tưởng “Tập
trung vào người học”, quá trình giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học
có thể sử dụng các phương pháp sau qua 2 phương pháp chủ yếu sau:

25


×