Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Giải pháp quản lí hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường trung học phổ thông huyện lộc hà tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.73 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________________________________________

NGUYỄN DUY NGỌC

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN LỘC HÀ TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________________________________________

NGUYỄN DUY NGỌC

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN LỘC HÀ TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN NHƯ AN

NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu chương trình thạc sĩ ở Trường Đại
học Vinh, khóa học 2013 - 2015, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của quý thầy cô, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp; Với lòng chân thành, tôi xin
gửi lời cảm ơn đến các thầy cô ở Phòng Đào tạo sau đại học, Khoa Giáo dục Trường Đại học Vinh đã truyền đạt đầy đủ kiến thức cho chúng tôi về lĩnh
vực khoa học giáo dục.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Như An, thầy
hướng dẫn khoa học đã chỉ bảo tận tình, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu, viết luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới lãnh đạo Sở GD&ĐT Hà Tĩnh; lãnh đạo
Ủy ban nhân dân huyện; các đồng chí trong Ban giám hiệu và cán bộ, giáo
viên, học sinh các trường Trung học phổ thông ở huyện Lộc Hà; cảm ơn bạn
bè, đồng nghiệp đã cung cấp thông tin, số liệu; tạo mọi điều kiện để tôi yên
tâm nghiên cứu, xây dựng luận văn.
Do năng lực và điều kiện thời gian hạn chế, cho nên luận văn không
tránh khỏi thiếu sót, kính mong quý thầy cô, bạn đọc thông cảm, trao đổi để
luận văn thêm hoàn thiện.
Trân trọng./.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
TÁC GIẢ

Nguyễn Duy Ngọc


MỤC LỤC


Trang
2.1.1.2. Quản lý giáo dục................................................................................13
1.2.2. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, quản lý hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp ở trường trung học phổ thông.......................................15
1.2.2.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp................................................15
3.2.2. Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp..........................................................................................................71
3.2.2.1. Mục đích của giải pháp................................................................71
3.2.2.2. Nội dung của giải pháp.................................................................72
3.2.3.4. Điều kiện thực hiện........................................................................74


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBQL

Cán bộ quản lý

CHN-HĐH

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

CSVC

Cơ sở vật chất

ĐH, CĐ


Đại học, cao đẳng

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GDHN

Giáo dục hướng nghiệp

GV

Giáo viên

GDNGLL

Giáo dục ngoài giờ lên lớp

HS

Học sinh


PCGD

Phổ cập giáo dục

QLGD

Quản lý giáo dục

TB

Trung bình

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TBDH

Thiết bị dạy học

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHHGD


Xã hội hoá giáo dục


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
2.1.1.2. Quản lý giáo dục................................................................................13
1.2.2. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, quản lý hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp ở trường trung học phổ thông.......................................15
1.2.2.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp................................................15
3.2.2. Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp..........................................................................................................71
3.2.2.1. Mục đích của giải pháp................................................................71
3.2.2.2. Nội dung của giải pháp.................................................................72
3.2.3.4. Điều kiện thực hiện........................................................................74


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Giáo dục là quá trình kết hợp vai trò chủ đạo của GV với sự tự giác
tích cực rèn luyện của HS nhằm hình thành ý thức, tính cách và hành vi, thói
quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Nhân cách HS được hình
thành qua hai con đường cơ bản: dạy học trên lớp và dạy học qua hoạt động
GDNGLL.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ để đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH của đất nước, giáo dục
phổ thông đã đổi mới mạnh mẽ theo cách tiếp cận nguyên lý giáo dục của
UNESCO đó là: “Học để biết, học để làm việc, học để tự khẳng định mình và

học để cùng chung sống”[29]. Mục tiêu của giáo dục phổ thông chuyển
hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang hình thành năng lực, phẩm chất
cho người học. Phương pháp giáo dục phổ thông đổi mới theo hướng phát huy
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của
lứa tuổi, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Trong quá trình giáo dục, ngoài việc hình thành thái độ, hành vi đúng
đắn và các kỹ năng hoạt động, ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội
về chính trị, đạo đức, pháp luật..., thì các nhà trường còn phải giúp HS bổ
sung và hoàn thiện những tri thức đã học trên lớp; như vậy quá trình giáo dục
không những được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục trên lớp mà
còn thông qua các hoạt động GDNGLL.
Hoạt động GDNGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học
các môn văn hóa và tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, có quan hệ chặt chẽ


2

với hoạt động dạy học và các hoạt động giáo dục trong nhà trường, nhằm tạo
môi trường thích hợp cho người học, gắn lý thuyết với thực hành, thống nhất
giữa nhận thức với hành động và cơ hội trải nghiệm, sáng tạo, góp phần tích
cực vào việc hình thành và phát triển kỹ năng sống, khả năng tự giáo dục, tự
rèn luyện của HS. Hoạt động GDNGLL còn giúp nhà trường và GV phát triển
chương trình giáo dục phổ thông và góp phần xây dựng văn hóa nhà trường.
Hoạt động GDNGLL là cầu nối để tạo ra mối liên hệ hai chiều giữa nhà
trường và xã hội; Là điều kiện và phương tiện để huy động sức mạnh cộng
đồng cùng tham gia vào quá trình phát triển nhà trường.
Hoạt động GDNGLL được quy định cụ thể tại Điều lệ trường THCS,
trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo
Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ GD&ĐT, tại Điều

26 đã chỉ rõ: “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động
ngoại khóa về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao
thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo
dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn diện và bồi
dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn
hóa, giáo dục môi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh”[4].
Hoạt động GDNGLL là linh hồn của các hoạt động tập thể trong nhà
trường. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI nêu
rõ vai trò của GDNGLL như là thước đo sự phối hợp tổ chức các hoạt động
của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm góp phần để
“...xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối
sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp
luật, nhất là trong thế hệ trẻ ”[8].


3

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
trong nội dung đánh giá tình hình giáo dục thời gian qua đã chỉ rõ phần hạn
chế “..đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và
nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo
đức, lối sống và kỹ năng làm việc,..”; phần quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết
nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý
luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội”; và Nghị quyết 29 cũng đã đưa ra giải pháp: “Tập trung vào

những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn
hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh” [9].
Nhiều nước trên thế giới cũng đã rất coi trọng nội dung hoạt động
GDNGLL trong chương trình giáo dục, đó là các nước: Pháp, Thụy Sĩ, Đức,
Ý, Hoa Kỳ, Canađa, Úc, Singapore,...
- Trong thực tiễn hoạt động giáo dục của trường THPT nói chung và
các trường THPT ở huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, hoạt động
GDNGLL tuy đã được duy trì có nề nếp nhưng chưa đổi mới, chưa thực sự
phát huy hiệu quả và chưa được thực hiện nghiêm túc; Nhận thức và năng lực
của đội ngũ CBQL và GV còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động GDNGLL
chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục toàn diện HS. Điều đó thể hiện ở sự hạn
chế nhiều về kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, năng
lực tổ chức quản lý, năng lực hợp tác,... của HS đang học phổ thông cũng như


4

sau khi tốt nghiệp THPT.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp
quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường Trung học phổ
thông huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất được những giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động GDNGLL, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện tại các trường THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý hoạt động GDNGLL ở trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Giải pháp quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường THPT huyện Lộc
Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng đồng bộ một số giải pháp quản lý hoạt động GDNGLL
đảm bảo tính khoa học và có tính khả thi thì sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động GDNGLL ở các trường THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động GDNGLL ở trường
THPT.
- Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường THPT
huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường
THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.


5

6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát nghiên cứu công tác quản lý hoạt động GDNGLL ở các
trường THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh đoạn năm 2013 đến năm 2015.
Số liệu thu thập từ CBQL, GV, HS các trường THPT ở huyện Lộc Hà,
tỉnh Hà Tĩnh.
Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động GDNGLL các trường THPT ở
huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng cho giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2018.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý
thuyết, phương pháp cụ thể hóa lý thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống
hóa lý thuyết,..nhằm thu thập các thông tin để xây dựng cơ sở lý luận.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này gồm: Phương pháp điều tra, tổng kết kinh
nghiệm giáo dục, phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp tổng kết
kinh nghiệm,.. nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng xây dựng cơ
sở thực tiễn của đề tài.
7.3. Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu điều tra, thu thập được.
8. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động
GDNGLL ở trường THPT;
- Về thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng quản lý hoạt động
GDNGLL; phân tích nguyên nhân của thực trạng và đề xuất các giải pháp
quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà


6

Tĩnh;
- Đây có thể là tài liệu tham khảo cho CBQL và GV các trường THPT.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung chính của Luận văn gồm có 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp ở trường trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
các trường trung học phổ thông huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3. Một số giải pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp ở các trường trung học phổ thông huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh



7

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
J.A.Cômenxki (l592-1670) là người khởi xướng cho việc nghiên cứu
một cách có hệ thống quá trình phát triển của khoa học giáo dục, hoạt động
dạy - học; còn hoạt động GDNGLL thì dường như chưa được sự quan tâm
của các nhà khoa học. Rabơle (1494 - 1553) là một trong những đại biểu lớn
của chủ nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kỳ văn hóa Phục
hưng, là người đã đề cập đến vấn đề này, Ông đòi hỏi việc giáo dục phải bao
hàm các nội dung: Trí dục, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ và đã có sáng kiến
tổ chức các hình thức giáo đục như ngoài việc học ở lớp và ở nhà, còn có các
buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp xúc với các nhà văn, các
nghệ sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần, thầy và trò về sống ở nông thôn một
ngày.
A.S.Macarenco (1888 - 1939) đã có nghiên cứu về tầm quan trọng của
công tác giáo dục HS ngoài giờ học: “phương pháp giáo dục không thể hạn
chế trong các vấn đề giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục
chỉ thực hiện trên lớp học, mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất
nước chúng ta...Nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan
niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành trong lớp. Công tác giáo dục
chỉ đạo toàn bộ cuộc sống của trẻ” [1,tr 63].
Trong thực tiễn, Macarenco đã tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp,



8

câu lạc bộ cho học sinh ở trại M.Gorki và ở Công xã F.E.Dzerjinski như: tổ
đồng ca, tổ văn học Nga, tổ khiêu vũ, xưởng tự do, tổ khoa học thực nghiệm
tự nhiên, tổ vật lý, hóa học, tổ thể dục thể thao,... Việc phân các em vào các tổ
chức ngoại khóa, câu lạc bộ được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các
em có thể xin ra khỏi tổ bất cứ lúc nào, nhưng các tổ phải kỷ luật trong quá
trình hoạt động [1].
Vào những năm của thập niên 60 - 70 của Thế kỷ XX, nước Liên Xô
đang trên con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội, việc giáo dục con người
phát triển toàn diện được Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết quan tâm; Các
nghiên cứu về lý luận giáo dục nói chung và hoạt động GDNGLL nói riêng
được đẩy mạnh. Trong sách “Giáo dục học” tập 3, tác giả T.A.Ilina đã đề cập
tới khái niệm, nội dung và các hình thức cơ bản của hoạt động GDNGLL.
Trong quyển “Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở trường phổ thông”, tác
giả I.X. Marienco đã trình bày sự thống nhất của công tác giáo dục trong và
ngoài giờ học, nội dung và các hình thức tổ chức hoạt động GDNGLL, vị trí
của người hiệu trưởng trong việc lãnh đạo hoạt động giáo dục và các tổ chức
Đoàn, Đội.
1.1.2. Nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về hoạt động GDNGLL đã thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà giáo trong cả nước bắt đầu từ những năm 80 của Thế kỷ
XX đến nay. Tuy vậy, trước đó, từ năm 1945 đã có một số tài liệu đề cập đến
vấn đề hoạt động GDNGLL; ở giai đoạn này cách mô tả tên gọi và nội dung
của khái niệm “hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” chưa được rõ ràng,
nhưng nội hàm cơ bản của khái niệm đã được đề cập đến; trong “Thư gửi học
sinh” nhân ngày khai trường vào tháng 9/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người viết: “Nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào
các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp



9

đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”. Và trong thư gửi
Hội nghị các cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc tới một khía cạnh của nội hàm khái niệm hoạt động GDNGLL khi
Người viết: “Trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng
cần làm cho chúng học. Ở trong nhà, trong trường, trong xã hội chúng đều
vui, đều học”[15].
Trong những năm 80 của Thế kỷ XX, đã có một số nghiên cứu lý luận
về hoạt động GDNGLL của các tác giả như: Nguyễn Lê Đắc, Hoàng Mạnh
Phú, Lê Trung Trấn, Nguyễn Dục Quang; Năm học 1989 – 1990, có nghiên
cứu thực nghiệm cải tiến nội dung, phương pháp tổ chức nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động GDNGLL của nhóm cán bộ nghiên cứu của Viện khoa học
giáo dục gồm: Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, Hà Nhật Thăng.
Đến nay, có nhiều nghiên cứu về tổ chức hoạt động GDNGLL, các tác
giả đi sâu nghiên cứu lý luận, thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, đổi mới
phương pháp tổ chức hoạt động GDNGLL. Tác giả Ngô Văn Phước (2001)
với đề tài “Người hiệu trưởng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trường Trung học phổ thông”, đã nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động
GDNGLL và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này
ở các trường Trung học phổ thông của tỉnh Thừa Thiên - Huế; Tác giả
Nguyễn Thị Hoàng Trâm (2003) với đề tài: “Các biện pháp nâng cao chất
lượng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Hiệu trưởng một số
trường trung học phổ thông phía Nam” đã làm rõ lịch sử nghiên cứu đề tài ở
các nước trên thế giới và ở Việt Nam, phân tích cơ sở lý luận, xác định nội
dung và đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động
GDNGLL; Tác giả Lê Hồng Quảng (2005) với đề tài luận văn "Một số giải
pháp phối hợp giữa hiệu trưởng và tổ chức Đoàn thanh niên trong công tác
giáo dục đạo đức HS ở trường trung học phổ thông tỉnh Bình Phước” nghiên



10

cứu về sự phối hợp giữa hiệu trưởng và Đoàn thanh niên trong hoạt động
GDNGLL,..; các tài liệu nêu trên đã đúc kết nhiều kinh nghiệm quý về việc
phối hợp các lực lượng giáo dục và phát huy vai trò Đoàn thanh niên trong
quản lý hoạt động GDNGLL của hiệu trưởng.
Một số bài viết về kinh nghiệm tổ chức sinh hoạt tập thể, hoạt động
GDNGLL mà tác giả là CBQL, GV trường phổ thông như: Trần Thị Minh
Hiền, giáo viên THPT Chu Văn An - Hà Nội; Trần Văn Thế, Phó Hiệu trưởng
trường THPT Giao Thủy - Nam Định; Nguyễn Hoài Nam, Trường phổ thông
vùng cao Việt Bắc,... Các tác giả đi sâu vào nghiên cứu cơ bản về hoạt động
GDNGLL ở trường phổ thông, nghiên cứu thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn nhằm xây dựng quy trình tổ chức và đổi mới nội dung phương pháp
hoạt động GDNGLL. Các nghiên cứu về quản lý hoạt động GDNGLL nói
chung ở trường phổ thông và quản lý hoạt động GDNGLL ở trường THPT
nói riêng gắn với địa bàn cụ thể. Nhưng qua điều tra, tìm hiểu, chúng tôi chưa
thấy có công trình, đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về các giải pháp quản lý
hoạt động GDNGLL ở các trường THPT ở huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Vì
vậy, chúng tôi thấy, cần có sự nghiên cứu cơ bản về thực trạng quản lý hoạt
động GDNGLL ở các trường THPT huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, từ đó đề
xuất một số giải pháp quản lý hoạt động GDNGLL, đáp ứng yêu cầu đổi mới
theo tinh thần của Nghị quyết 29-NQ/TW.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Khái niệm “Quản lý” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo
từ điển Tiếng Việt (1998): Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu
nhất định; là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất

định.


11

Còn F.W. Taylor (1856 - 1915) định nghĩa: Quản lý là biết được chính
xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn
thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
H. Fayol (1845 - 1925) là cha đẻ của thuyết quản lý hành chính cho
rằng: Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối
hợp và kiểm tra.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung
là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”[18].
Tác giả Thái Văn Thành cho rằng: “Quản lý là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đề ra”[25].
Theo các tác giả Trần Hữu Cát, Hoàng Minh Duệ thì: Quản lý là hoạt
động thiết yếu nảy sinh khi con người hoạt động tập thể, trong đó quan trọng
nhất là khách thể con người nhằm thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí khi nhấn mạnh đến chức năng
của hoạt động quản lý cho rằng: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ
chức bằng cách vận dụng các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm
tra.
Tác giả Nguyễn Bá Sơn định nghĩa: Quản lý là sự tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải
pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận
mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người,…
Từ đó, có thể hiểu: Quản lý là việc nhằm đạt đến mục tiêu đã xác định
thông qua sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý tới đốỉ

tượng quản lý.
- Chức năng quản lý:


12

Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông
qua đó, chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một
mục tiêu nhất định.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất về 4 chức năng quản lý chủ
yếu đó là: Kế hoạch - Tổ chức - Chỉ đạo - Kiểm tra.
- Chức năng kế hoạch hoá: Để thực hiện chủ chương, chương trình, dự
án; kế hoạch hoá là hành động đầu tiên, chức năng cơ bản để hoàn thành các
chức năng khác. Đây được coi là chức năng chỉ lối làm cho tổ chức phát triển
theo kế hoạch. Trong quản lý, đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành
động của cả tổ chức.
- Chức năng tổ chức: Người quản lý phải hình thành bộ máy tổ chức là
cơ cấu các bộ phận (tùy theo tính chất công việc, có thể tiến hành phân công,
phân nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng nhiệm vụ từng bộ phận,
mối quan hệ giữa chúng.
Bản chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ, liên hệ giữa con người
với con người, giữa các bộ phân riêng rẽ thành một hệ thống hoạt động nhịp
nhàng, thống nhất. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho các tiềm năng.
- Chức năng chỉ đạo: Đây là khâu quan trọng tạo nên thành công của
kế hoạch dự kiến. Chính ở khâu này, đòi hỏi người quản lý phải vận dụng
khéo léo các phương pháp và nghệ thuật quản lý. Đây là quá trình tác động
qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần
thực hiện hoá các mục tiêu đề ra. Bản chất của chức năng chỉ đạo xét cho
cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy những tiềm năng của con người
trong hệ thống quản lý, thực hiện tốt mối liên hệ giữa con người với con

người và quá trình đó giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện, tự
giác và hăng hái phấn đấu trong công việc.
- Chức năng kiểm tra: Nhằm đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra.


13

Điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải xuất phát từ mục
tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức.
Tất cả các chức năng nêu trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin
đầy đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch;
thông tin cũng cần cho các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, là chất liệu tạo quan
hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh lệnh chỉ đạo và
thông tin phản hồi diễn biến hoạt động của tổ chức và thông tin từ kết quả
hoạt động của tổ chức giúp cho người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu
của toàn bộ tổ chức.
2.1.1.2. Quản lý giáo dục
Các nhà lý luận về QLGD của Liên Xô đã đưa ra một số khái niệm,
như M.M.Mechti Zade đã nêu: QLGD là tập hợp những biện pháp (tổ chức,
phương pháp, cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính,...) nhằm bảo đảm sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự
tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như về mặt
chất lượng.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng, QLGD là khái niệm đa cấp (bao
hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của nó đặc biệt là
quản lý trường học): Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến

lên trạng thái mới về chất [18].
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy
học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của
nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục,


14

tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành
hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”[20].
QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong
muốn một cách hiệu quả nhất.
QLGD có tính xã hội cao; bởi vậy, cần tập trung giải quyết tốt các vấn
đề: xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc phòng phục vụ công tác
giáo dục.
Như vậy, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của
hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ
thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng cũng như chất lượng.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là quản lý vi mô. QLGD, quản lý nhà trường có thể
hiểu là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế
hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên
và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm
huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà
trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn thành những
mục tiêu dự kiến.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của QLGD. Dạy học

và giáo dục là hoạt động trung tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và
phức tạp khác của nhà trường đều hướng vào tiêu điểm này. Vì vậy, quản lý
nhà trường thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt
động học tập - tự giáo dục của trò diễn ra trong quá trình dạy học - giáo dục.
Có thể nói rằng quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình dạy học -


15

giáo dục.
Quản lý nhà trường bao gồm:
* Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà
trường.
- Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản
lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục
của nhà trường.
- Quản lý nhà trường cũng gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực
thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà trường như
cộng đồng được đại diện dưới hình thức là Hội đồng giáo dục nhằm định
hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện
phương hướng phát triển đó.
* Tác động của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm
các hoạt động sau: quản lý GV; quản lý HS; quản lý quá trình dạy học, giáo
dục; quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, tài chính trường học;
quản lý lớp học; quản lý mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình, xã hội.
Tóm lại: Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình; đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với với từng HS
cũng như với thế hệ trẻ.

1.2.2. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, quản lý hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp ở trường trung học phổ thông
1.2.2.1. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Hoạt động GDNGLL là hoạt động giáo dục có mục đích, có kế hoạch,
có tổ chức được thực hiện trong các hoạt động thực tiễn về khoa học - kỹ
thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội, văn hóa nghệ thuật, hoạt động thể


16

thao, vui chơi giải trí,...được thực hiện ngoài giờ lên lớp, nhằm hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách HS.
Theo T.A.Ilina: Công tác giáo dục HS ngoài giờ học thường được gọi
là công tác giáo dục ngoại khóa. Công tác này, bổ sung và làm sâu thêm công
tác giáo dục nội khóa, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng
và năng lực trẻ em, thức tỉnh thiên hướng và hứng thú của HS đối với một
hoạt động nào đó, đó là một hình thức tổ chức giải trí của HS và là cơ sở để tổ
chức việc học tập về hành vi đạo đức, để xây dựng kinh nghiệm của hành vi
này [21].
Tác giả Đặng Vũ Hoạt quan niệm: “Hoạt động GDNGLL là việc tổ
chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học - kỹ
thuật, lao động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn
nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí..., để giúp các em hình thành
và phát triển nhân cách”[13].
Một số tác giả đưa ra khái niệm: Hoạt động GDNGLL là những hoạt
động được tổ chức ngoài giờ học các môn học ở trên lớp. Hoạt động
GDNGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý
thuyết và thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động của
HS.
Hoạt động GDNGLL là một mặt hoạt động của giáo dục, cơ bản được

thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức và tiến hành ngoài
giờ lên lớp nhằm góp phần thực thi quá trình đào tạo nhân cách học sinh, đáp
ứng những yêu cầu đa dạng của đời sống xã hội.
Hoạt động GDNGLL tạo điều kiện cho HS hoạt động theo hứng thú, sở
thích của mình. Nhờ đó bồi dưỡng được nhanh chóng năng lực riêng của từng
HS và góp phần hướng nghiệp cho họ. Hoạt động GDNGLL còn có thể giúp
HS củng cố, mở rộng, khắc sâu thêm tri thức, gắn liền lý luận với thực tiễn,


17

phát huy tác dụng của học tập đối với đời sống.
Hoạt động này do nhà trường quản lý, tiến hành ngoài giờ dạy học trên
lớp theo chương trình, kế hoạch dạy học. Nó được tiến hành xen kẽ hoặc nối
tiếp chương trình dạy học trong phạm vi nhà trường chỉ đạo.
Hoạt động GDNGLL có vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục HS
nói chung và càng quan trọng đối với lứa tuổi HS THPT; ở lứa tuổi này,
khuynh hướng của các em là ham hoạt động, ham hiểu biết, năng động, tự lập,
có trình độ tư duy phát triển, đã hình thành và phát triển các kỹ năng học tập,
thói quen tự học từ các lớp dưới và ngày càng có điều kiện thu thập thông tin
đa dạng và phong phú. Vì thế, quá trình giáo dục đối với lứa tuổi này sẽ gặp
không ít khó khăn, đòi hỏi phải có sự khéo léo, kịp thời và đúng đắn, lôi cuốn
các em vào hoạt động nhằm phát huy khuynh hướng tự lập của các em thành
những cá tính sáng tạo và ý thức tập thể. HS THPT là đối tượng có nhiều biến
đổi về chất trong quá trình học tập và rèn luyện; các em mạnh dạn hơn, suy
nghĩ mở hơn, có những nhu cầu mới hơn, đặc biệt là nhu cầu về hoạt động,
giao lưu. Mặc dù hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo, song nội dung
và tính chất hoạt động học tập ở lứa tuổi này khác rất nhiều so với các lứa tuổi
trước. Nó đòi hỏi ở các em tính năng động và độc lập cao hơn, tư duy lôgic
nhiều hơn. Những yêu cầu đó vừa phải được thực hiện trong hoạt động học

tập, vừa phải được cụ thể hóa trong các hoạt động của tập thể. Đây là một
trong những đặc điểm rất rõ nét của HS THPT. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt
động GDNGLL với những hình thức đa dạng do HS quản lý và điều khiển đòi
hỏi GV phải đổi mới các phương pháp tổ chức hoạt động, tránh áp đặt một
chiều, cực đoan ở một vài hình thức hoạt động quá quen thuộc, gây nhàm
chán cho HS. Vì vậy, có thể nói hoạt động GDNGLL đối với lứa tuổi học sinh
THPT có vị trí then chốt trong quá trình giáo dục, nhằm điều chỉnh, định
hướng quá trình giáo dục toàn diện đạt hiệu quả. Hoạt động GDNGLL với sự


18

đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung sẽ có vai trò to lớn trong việc
giáo dục về nhận thức, thái độ và hành vi cho HS.
Hoạt động GDNGLL giúp HS bổ sung, củng cố và hoàn thiện những tri
thức đã được học trên lớp (qua các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, tham quan,
ngoại khóa, thi tìm hiểu,...); giúp các em biết vận dụng những tri thức đã học
để giải quyết các vấn đề do thực tiễn đời sống đặt ra.
Hoạt động GDNGLL giúp cho HS định hướng nhận thức, biết tự điều
chỉnh hành vi đạo đức, lối sống cho phù hợp; qua đó cũng làm giàu thêm
những kinh nghiệm thực tế cho bản thân.
Hoạt động GDNGLL còn giúp HS định hướng chính trị - xã hội, có
những hiểu biết nhất định về truyền thống đạo đức, truyền thống văn hóa tốt
đẹp của quê hương, đất nước.
Hoạt động này còn hình thành cho HS niềm tin vào cuộc sống, vào
những giá trị mà các em vươn tới; tin vào tương lai của đất nước. Bồi dưỡng
cho HS những tình cảm đạo đức trong sáng, xây dựng lối sống và nếp sống phù
hợp với đạo đức, pháp luật, truyền thống tốt đẹp của địa phương và của đất
nước.
Như vậy, GDNGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học

các bộ môn văn hóa ở trên lớp, là sự tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt
động học tập trên lớp, là con đường gắn học với hành, lý thuyết với thực tiễn,
nhận thức với hành động,… Hoạt động này được tiến hành nối tiếp hoặc xen
kẽ hoạt động dạy - học trong phạm vi nhà trường hoặc xã hội, nó diễn ra trong
suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, làm cho
quá trình này được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc. Trong quá trình tổ chức hoạt
động có thể có sự tham gia, phối hợp giữa các lực lượng giáo dục khác nhau
nhưng nhà trường vẫn giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời hoạt động GDNGLL là
điều kiện thuận lợi để HS phát huy vai trò chủ thể của mình trong hoạt động,


19

nâng cao được tính tích cực hoạt động, qua đó rèn luyện những nét nhân cách
tốt đẹp của con người.
1.2.2.2. Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường trung
học phổ thông
Quản lý hoạt động GDNGLL ở trường THPT là hệ thống những tác
động có hướng đích, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
nhằm làm cho hoạt động GDNGLL thực hiện được mục tiêu đặt ra.
Nội dung của quản lý hoạt động GDNGLL, có thể bàn đến các nội
dung quản lý hoạt động này theo các cách tiếp cận khác nhau:
a) Theo chức năng quản lý: Quản lý hoạt động GDNGLL chính là thực
hiện 4 chức năng cơ bản: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động
GDNGLL.
b) Quản lý theo nội dung hoạt động GDNGLL:
-Hoạt động chính trị - xã hội.
-Hoạt động phục vụ học tập, sáng tạo khoa học.
-Hoạt động công ích xã hội.
-Hoạt động văn hoá nghệ thuật.

-Hoạt động thể thao; quốc phòng - an ninh, tham quan du lịch.
Hay là:
- Hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể
thao.
- Các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá.
- Các hoạt động giáo dục môi trường.
- Các hoạt động lao động công ích.
- Các hoạt động xã hội từ thiện.
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng cách tiếp cận theo chức năng
quản lý hoạt động GDNGLL.


×