Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường trung học phổ thông huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.56 KB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục
phổ thơng đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục
thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống, đó là: Học để biết,
Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Mục
tiêu của giáo dục phổ thông cũng đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là
trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh.
Phương pháp giáo dục phổ thông đổi mới theo hướng phát huy tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh.
Trong quá trình giáo dục, ngồi việc hình thành thái độ đúng đắn, các
hành vi và thói quen tốt, các kỹ năng hoạt động và ứng xử trong các mối quan
hệ xã hội về chính trị, đạo đức, pháp luật..., cịn phải giúp các em bổ sung và
hoàn thiện những tri thức đã học trên lớp. Vậy, q trình giáo dục khơng
những được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục trên lớp mà cịn
thơng qua các hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp (GDNGLL).
Hoạt động GDNGLL là những hoạt động được tổ chức ngồi giờ học
các mơn văn hóa và tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, có quan hệ chặt chẽ
với hoạt động dạy học và các hoạt động giáo dục trong nhà trường THPT,
nhằm tạo môi trường cho người học, gắn lý thuyết với thực hành, thống nhất
giữa nhận thức với hành động và cơ hội trải nghiệm của họ, góp phần tích cực
vào việc hình thành và phát triển kỹ năng sống, khả năng tự giáo dục, tự rèn


2



luyện cho học sinh. Hoạt động GDNGLL giúp nhà trường và giáo viên phát
triển các chương trình giáo dục, xây dựng văn hóa nhà trường.
Hoạt động GDNGLL cịn là cầu nối tạo ra mối liên hệ hai chiều giữa nhà
trường và xã hội. Là điều kiện và phương tiện để huy động sức mạnh cộng
đồng cùng tham gia vào quá trình phát triển giáo dục của nhà trường.
Hoạt động GDNGLL là linh hồn của các hoạt động tập thể trong nhà
trường. Nó là thước đo sự phối hợp tổ chức các hoạt động của các lực lượng
giáo dục trong và ngồi nhà trường nhằm góp phần “… nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hoá giáo dục. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học
sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề …”
(Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X).
Tuy nhiên, trong thực tiễn các nhà trường THPT ở Việt Nam nói chung
và ở huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng, chưa chú ý nhiều đến
hoạt động GDNGLL cho HS. Nhận thức và năng lực của CBQL, đội ngũ GV
còn nhiều hạn chế, vì thế chất lượng hoạt động GDNGLL chưa đáp ứng được
yêu cầu giáo dục toàn diện cho HS. Điều đó thể hiện ở sự yếu kém về kỹ năng
sống, kỹ năng thích ứng, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, năng
lực tổ chức quản lý, năng lực hợp tác... của HS sau khi tốt nghiệp phổ thông.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện
pháp quản lý hoạt động giiáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường trung học
phổ thơng huyện Thường Xn, tỉnh Thanh Hố”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những biện pháp QL hoạt động GDNGLL, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường THPT huyện Thường Xuân, tỉnh
Thanh Hoá.



3

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
QL hoạt động GDNGLL ở trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp QL hoạt động GDNGLL ở các trường THPT huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý có cơ sở khoa học và có tính
khả thi thì sẽ nâng cao chất lượng hoạt động GDNGLL ở các trường THPT
huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động GDNGLL ở các
trường THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường
THPT huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL ở các
trường THPT huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hố.
6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát cứu cơng tác quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường THPT
huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay (từ năm 20072008; 2008-2009; 2009-2010)
Số liệu đã thu thập từ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh trường
THPT Cầm Bá Thước, THPT Thường Xuân 2, huyện Thường Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL áp dụng cho giai
đoạn 2011-2015.


4


7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này tác giả sử dụng các nhóm phương pháp:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phương pháp phân tích và
tổng hợp lý thuyết, phương pháp cụ thể hoá lý thuyết, phương pháp phân loại
và hệ thống hóa lý thuyết để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài
7.3. Phương pháp hỗ trợ: sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu.
8. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của công
tác quản lý hoạt động GDNGLL trong trường THPT, từ đó đề xuất được các
biện pháp quản lý hiệu quả công tác này ở các trường THPT huyện Thường
Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
9. Cấu trúc nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường THPT
huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL ở các trường
THPT huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hoạt động GDNGLL là một phần quan trọng trong chương trình giáo
dục ở hầu hết các nước trên thế giới. Hoạt động này được chú trọng và nghiên
cứu để trở thành một cơng cụ hữu ích giúp cho học sinh, sinh viên đạt kết quả
cao hơn và phát triển toàn diện hơn về nhân cách. Hoạt động GDNGLL giúp
học sinh, sinh viên gắn kiến thức trong nhà trường vào cuộc sống.
Rabơle (1494 - 1553) là một trong những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa
nhân đạo và tư tưởng giáo dục Pháp thời kỳ Phục Hưng đòi hỏi việc giáo dục
phải bao hàm các nội dung: Trí dục, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ, đã có sáng
kiến tổ chức các hình thức giáo dục như: ngồi việc học tập ở lớp và ở nhà
cịn có những buổi tham quan xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp xúc với các nhà
văn, các nghị sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần, thầy và trị về sống ở nơng
thơn một ngày.
J. A Kômenxki (1592 - 1670) được coi là ông tổ của nền sư phạm cận
đại đặc biệt quan tâm kết hợp việc học trên lớp với các hoạt động ngồi lớp.
Ơng khẳng định: Học tập khơng phải là lĩnh hội kiến thức trong sách vở mà
lĩnh hội kiến thức từ mặt trời, mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ [14].
A. S. Macarenco (1888 - 1939) bàn về tầm quan trọng của cơng tác
giáo dục học sinh ngồi giờ học: phương pháp giáo dục không thể hạn chế
trong các vấn đế giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ
thực hiện trên lớp học, mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước
chúng ta…Nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được quan niệm
rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành trong lớp. Cơng tác giáo dục chỉ
đạo tồn bộ cuộc sống của trẻ [18]. Trong thực tiễn, Macarenco đã tổ chức
các hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ cho học sinh ở trại M.Gorki và ở


6

Công xã F.E.Dzerjinski như: tổ đồng ca, tổ văn học Nga, tổ khiêu vũ, xưởng
tự do, tổ khoa học thực nghiệm tự nhiên, tổ vật lý, hóa học, tổ thể dục thể

thao…Việc phân các em vào các tổ chức ngoại khóa, câu lạc bộ được tổ chức
trên cơ sở hồn tồn tự nguyện, các em có thể xin ra khỏi tổ bất cứ lúc nào,
nhưng các tổ phải kỷ luật trong q trình hoạt động.
Các nghiên cứu ở Liên Xơ vào những năm 60 - 70 về lý luận giáo dục
nói chung và hoạt động GDNGLL nói riêng được đẩy mạnh. I.Xmarienco
trong tác phẩm “Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở trường phổ thơng”
[28] đã trình bày sự thống nhất của công tác giáo dục trong và ngồi giờ học,
vị trí của người Hiệu trưởng trong việc lãnh đạo hoạt động giáo dục và các tổ
chức Đội thiếu niên và Đoàn thanh niên trong nhà trường.
- Rabơle (1494-1553) là một trong những đại biểu xuất sắc của chủ
nghĩa nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kì Phục hưng. Ơng địi hỏi
việc giáo dục phải bao hàm các nội dung: “trí dục, đức dục, thể chất và thẩm
mỹ”. Ơng đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục như ngồi việc học
ở lớp và ở nhà, cịn có các buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp
xúc với các nhà văn, các nghị sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy và trị về
sống ở nơng thơn một ngày.
- Ở Việt Nam tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi
học sinh nhân ngày khai trường: Các em cũng nên ngoài giờ học ở trường,
tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến
sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước [19].
Với lứa tuổi măng non, giữa cái chơi và cái học, có sự hỗ trợ thúc đẩy lẫn
nhau: Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm
cho chúng học. Ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui, đều học.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, để đáp ứng yêu cầu cải cách giáo
dục, đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp, có thể


7

kể các cơng trình nghiên cứu sau: Viện khoa học giáo dục với đề tài nghiên

cứu về “Các hoạt động ngồi giờ lên lớp và sự hình thành nhân cách của học
sinh”. Đề tài được triển khai và thực nghiệm từ năm 1979 - 1980 tại một số
trường phổ thông ở Hà Nội, kết quả thực nghiệm đã được công bố trên tạp chí
Nghiên cứu giáo dục và tạp chí Thông tin khoa học giáo dục.
Một số nghiên cứu lý luận về hoạt động GDNGLL trong những năm
1985 - 1987 của các tác giả như: Nguyễn Lê Đắc, Hoàng Mạnh Phú, Lê
Trung Trấn, Nguyễn Dục Quang và một số nghiên cứu thực nghiệm cải tiến
nội dung, phương pháp tổ chức nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
GDNGLL năm 1989 - 1990 do nhóm cán bộ nghiên cứu của Viện khoa học
giáo dục thực hiện như: Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỉ, Hà Nhật
Thăng…
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu và kinh nghiệm tổ chức hoạt động
GDNGLL, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, tổng
kết kinh nghiệm, đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động GDNGLL. Tác giả
Ngô Văn Phước (2001) với đề tài “Người Hiệu trưởng tổ chức hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp ở trường Trung học phổ thông”, đã nghiên cứu thực
trạng quản lý hoạt động GDNGLL ở một số trường Trung Học Phổ Thông
tỉnh Thừa Thiên - Huế và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động này ở các trường Trung học phổ thông tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tác
giả Nguyễn Thị Hoàng Trâm (2003) với luận văn: “Các biện pháp nâng cao
chất lượng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Hiệu trưởng một
số trường Trung Học Phổ Thơng phía Nam” đã làm rõ lịch sử nghiên cứu đề
tài ở các nước trên thế giới và Việt Nam, phân tích cơ sở lý luận, xác định nội
dung, thành lập ban chỉ đạo đồng thời đề ra các biện pháp nâng cao chất
lượng quản lý hoạt động GDNGLL. Tác giả Lê Hồng Quảng (2005) với luận
văn “Một số giải pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và Ban Chấp Hành Đoàn


8


thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong cơng tác giáo dục đạo đức học sinh ở
trường Trung Học Phổ Thơng tỉnh Bình Phước” đã nghiên cứu về sự phối
hợp giữa Hiệu trưởng và tổ chức Đoàn thanh niên trong cơng tác giáo dục đạo
đức, một khía cạnh rất quan trọng của hoạt động GDNGLL. Luận văn đã đúc
kết nhiều kinh nghiệm hữu ích về việc phối hợp các lực lượng giáo dục và
phát huy vai trị Đồn thanh niên trong công tác quản lý của người Hiệu
trưởng.
- Một số cuốn sách viết về hoạt động GDNGLL trong thời gian đầu
những năm 80 của một số tác giả như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Nhật Thăng,
Nguyễn Hữu Hợp, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Đăng Thìn, Nguyễn Thị
Kỷ…và gần đây nhất, năm 2003, hai tác giả: Hoàng Minh Thao-Hà Thế
Truyền (Trường Cán bộ quản lí giáo dục và Đào tạo Trung ương) đã đề cập
đến hoạt động GDNGLL trong cuốn “ Quản lí giáo dục theo định hướng
CNH-HĐH”
Một số bài viết về kinh nghiệm thực tiễn của một số trường THPT tổ chức
hoạt động GDNGLL mà tác giả là giáo viên cán bộ quản lý trường phổ thông.
Qua hệ thống các nghiên cứu nói trên, cho thấy các tác giả đã đi sâu vào
nghiên cứu cơ bản về hoạt động GDNGLL, nghiên cứu thực nghiệm tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn nhằm xây dựng quy trình tổ chức và đổi mới nội dung
phương pháp hoạt động GDNGLL. Các nghiên cứu về quản lí hoạt động
GDNGLL chưa nhiều. Cho tới năm 1999, Ngô Văn Phước bảo vệ luận văn
thạc sỹ: “Người Hiệu trưởng tổ chức hoạt động GDNGLL ở trường THPT”;
năm 2005 Nguyễn Như Ý bảo vệ luận văn thạc sỹ: “Một số biện pháp quản lí
hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp của hiệu trưởng các trường THPT huyện
Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay...”. Tại địa bàn tỉnh Thanh


9

Hố nói chung và huyện Thường Xn nói riêng, chưa có đề tài nào nghiên

cứu chun sâu về quản lí hoạt động GDNGLL.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận, khái niệm “Quản lý”
được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt (1998):
Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; là tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định [26].
Frederich Winslow Taylor (1856 - 1915) đã định nghĩa: Quản lý là biết
được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ
đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
Henry Fayol (1845 - 1925), cha đẻ của thuyết quản lý hành chính cho
rằng: Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối
hợp và kiểm tra.
Theo Trần Xuân Sinh: Quản lý là một quá trình tác động của con người
vào một hệ thống nhằm thay đổi hiện trạng của hệ thống đó hoặc đưa vào hệ
thống đó những thuộc tính mới. Đây là q trình tác động có định hướng, có
tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động dựa trên các thông tin, thực trạng
của đối tượng và môi trường nhằm làm cho sự vận động của các đối tượng
được ổn định, phát triển đạt đến mục tiêu đề ra [23].
Thái Văn Thành và nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam coi: Quản lý là
sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra [24].
PGS-TS Đặng Quốc Bảo cho rằng: hoạt động quản lý là hoạt động bao
gồm hai quá trình “Quản” và “Lý” tích hợp vào nhau, trong đó, “Quản” gồm
sự coi sóc giữ gìn để duy trì tổ chức ở trạng thái ổn định, qúa trình “Lý” gồm
sự sửa sang, sắp xếp đổi mới, đưa hệ vào thế phát triển.” [16,tr.31]. Như vậy


10


quản lí chính là hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của tổ
chức đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Nguyễn Quốc Chí khi nhấn mạnh
đến chức năng của hoạt động quản lý cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra.” [25,tr.12]
Nguyễn Bá Sơn (2000) định nghĩa: Quản lý là sự tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải
pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận
mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người.
Có thể hiểu: Quản lý là việc nhằm đạt đến mục tiêu đã xác định thông
qua sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý.
Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thơng
qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một
mục tiêu nhất định.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất về 4 chức năng quản lý chủ
yếu đó là: kế hoạch hố, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và trong đó thơng tin vừa
là phương tiện, vừa là điều kiện để thực hiện các chức năng quản lý.
Chức năng kế hoạch hoá: Để thực hiện chủ chương, chương trình, dự
án kế hoạch hoá là hành động đầu tiên, chức năng cơ bản để hoàn thành các
chức năng khác. Đây được coi là chức năng chỉ lối làm cho tổ chức phát triển
theo kế hoạch. Trong quản lý đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành
động của cả tổ chức.
Chức năng tổ chức: Người quản lý phải hình thành bộ máy tổ chức là
cơ cấu các bộ phận (tuỳ theo tính chất cơng việc, có thể tiến hành phân cơng,


11


phân nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng nhiệm vụ từng bộ phận,
mối quan hệ giữa chúng.
Như vậy, thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ, liên hệ giữa
con người với con người, giữa các bộ phân riêng rẽ thành một hệ thống hoạt
động nhịp nhàng của một cơ thể thống nhất. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho
các tiềm năng.
Chức năng chỉ đạo: Đây là khâu quan trọng tạo nên thành công của kế
hoạch dự kiến. Chính ở khâu này, địi hỏi người quản lý phải vận dụng khéo
léo các PP và nghệ thuật quản lý. Đây là quá trình tác động qua lại giữa chủ
thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hố các
mục tiêu đề ra. Bản chất của chức năng chỉ đạo xét cho cùng là sự tác động
lên con người, khơi dậy những tiềm năng của con người trong hệ thống quản
lý, thực hiện tốt mối liên hệ giữa con người với con người và q trình đó giải
quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện, tự giác và hăng hái phấn đấu
trong công việc.
Chức năng kiểm tra: Chức năng kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện
các mục tiêu đề ra. Điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải
xuất phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức.
Cuối cùng, tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin.
Thông tin đầy đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định
kế hoạch; thông tin cũng cần cho các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, là chất
liệu tạo quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh
lệnh chỉ đạo (thông tin xuôi) và phản hồi (thông tin ngược) diễn tiến hoạt
động của tổ chức và thông tin từ kết quả hoạt động của tổ chức giúp cho
người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của tồn tổ chức.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Quản lí giáo dục nằm trong quản lí văn hóa – tinh thần. Các nghiên cứu
ở Liên Xô (cũ) đã đưa ra một số định nghĩa về khái niệm quản lý giáo dục.



12

Điển hình như M.M.MechtiZađe đã nêu: “Quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ, giáo dục, kế hoạch hố, tài chính,
cung tiêu..) nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ
thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng cũng như về mặt chất lượng”[23,tr.34].
Ở Việt Nam, tác giả Hồng Minh Thao đã viết: “Quản lí giáo dục theo
nghĩa tổng quan là hệ điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với
sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới
hạn ở thế hệ trẻ mở rộng cho mọi người (tuy nhiên trọng tâm vẫn là thế hệ trẻ)
cho nên Quản lí giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc
dân, các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.”[22,tr.5]
Hơn nữa, giáo dục là bộ phận của kinh tế xã hội, hệ thống giáo dục,
mạng lưới nhà trường là bộ phận kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy, quản lí giáo
dục là quản lí một loại q trình kinh tế xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài
hoà sự phân hoá xã hội để tái sản xuất sức lao động có kĩ thuật, phục vụ các
yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
Như vậy, quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các
khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan
trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lí nhà trường là quản lí vi mơ. Quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường có thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lí (có mục đích, tự giác, hệ
thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức – sư phạm của chủ thể quản lí đến tập
thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà



13

trường nhằm huy động học cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt
động của nhà trường nhằm làm cho q trình này vận hành tối ưu tới việc
hồn thành những mục tiêu dự kiến.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục.
Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung tâm của nhà
trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp khác của nhà trường đều hướng
vào tiêu điểm này. Vì vậy, quản lý nhà trường thực chất là quản lý quá trình
lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập – tự giáo dục của trị diễn ra
trong q trình dạy học – giáo dục. Có thể nói rằng quản lý nhà trường thực
chất là quản lý quá trình dạy học – giáo dục.
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại:
a) Tác động của những chủ thể quản lí bên trên và bên ngồi nhà trường:
- Quản lí nhà trường là những tác động quản lí của các cơ quan quản lí
giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục
của nhà trường.
- Quản lí nhà trường cũng gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực
thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà trường như
cộng đồng được đại diện dưới hình thức là Hội đồng giáo dục nhằm định
hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện
phương hướng phát triển đó.
b) Tác động của những chủ thể quản lí bên trong nhà trường
Quản lí nhà trường do chủ thể quản lí bên trong nhà trường bao gồm
các hoạt động sau:
- Quản lí giáo viên;
- Quản lí học sinh;
- Quản lí q trình dạy học giáo dục;

- Quản lí cơ sở vật chất trang thiết bị trường học


14

- Quản lí tài chính trường học;
- Quản lí mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng
Nói tóm lại: Quản lí nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý
nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực
lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường.
Có nhiều cấp quản lý trường học: Cấp cao nhất là Bộ Giáo dục và Đào
tạo, nới quản lý nhà trường bằng các biện pháp vĩ mơ. Có hai cấp trung gian
quản lý trường học là Sở Giáo dục và Đào tạo ở tỉnh và Phòng Giáo dục ở các
huyện. Cấp quản lý quan trọng trực tiếp cuả hoạt động giáo dục là cơ quan
quản lý trong các nhà trường.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang
có, tiến lên một trạng thái phát triển mới. Bằng phương thức xây dựng và phát
triển mạnh mẽ các nguồn lực giáo dục và hướng các nguồn lực đó vào phục
vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục. Mục đích cuối cùng của quản lý
giáo dục là tổ chức q trình có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông
minh, sáng tạo, năng động tự chủ, biết sống và phấn đấu vì mục đích của bản
thân và của xã hội.
1.2.4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
1.2.4.1. Khái niệm
- Theo T.A.Ilina: Cơng tác giáo dục học sinh ngồi giờ học thường
được gọi là cơng tác giáo dục ngoại khóa. Cơng tác này, bổ sung và làm sâu
thêm công tác giáo dục nội khóa, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy
đủ tài năng và năng lực trẻ em, thức tỉnh thiên hướng và hứng thú của học
sinh đối với một hoạt động nào đó, đó là một hình thức tổ chức giải trí của

học sinh và là cơ sở để tổ chức việc học tập về hành vi đạo đức, để xây dựng
kinh nghiệm của hành vi này [ 13].


15

- Tác giả Đặng Vũ Hoạt định nghĩa: Hoạt động GDNGLL là việc tổ
chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học - kĩ
thuật, lao động cơng ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn
nghệ, thẩm mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí… để giúp các em hình thành
và phát triển nhân cách [12].
Từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng: Hoạt động GDNGLL là những
hoạt động được tổ chức ngồi giờ học các bộ mơn văn hóa ở trên lớp, là sự tiếp
nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học tập trên lớp, là con đường gắn học
với hành, lý thuyết với thực tiễn, nhận thức với hành động…Hoạt động này
được tiến hành nối tiếp hoặc xen kẽ hoạt động dạy - học trong phạm vi nhà
trường hoặc xã hội, nó diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để
khép kín q trình giáo dục, làm cho q trình này được thực hiện ở mọi nơi,
mọi lúc. Trong quá trình tổ chức hoạt động có thể có sự tham gia, phối hợp
giữa các lực lượng giáo dục khác nhau nhưng nhà trường vẫn giữ vai trò chủ
đạo. Đồng thời hoạt động GDNGLL là điều kiện thuận lợi để học sinh phát huy
vai trị chủ thể của mình trong hoạt động, nâng cao được tính tích cực hoạt
động, qua đó rèn luyện những nét nhân cách của con người phát triển.
1.2.4.2 Mục đích của hoạt động GDNGLL
Hoạt động GDNGLL ở trường THPT nhằm vào các mục đích:
- Củng cố, khắc sâu kiến thức của các môn học, mở rộng và nâng cao
hiểu biết của học sinh về các lĩnh vực đời sống xã hội, làm phong phú thêm
vốn tri thức, kinh nghiệm họat động tập thể của học sinh;
- Rèn luyện các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi THPT như: kỹ
năng giao tiếp ứng xử có văn hóa, kỹ năng tổ chức quản lí và tham gia các

hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của họat động, kỹ năng tự kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập rèn luyện, củng cố phát triển các hành vi, thói quen
tốt trong học tập, lao động và cơng tác xã hội;


16

- Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia các hoạt động tập thể và
hoạt động xã hội, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với
cuộc sống, với quê hương, đất nước, có thái độ đúng đắn đối với các hiện
tượng tự nhiên và xã hội [7].
1.2.4.3 Vị trí, vai trị của hoạt động GDNGLL
- Theo Điều lệ trường Trung học (2007), hoạt động GDNGLL là một
trong hai thành tố cơ bản của quá trình sư phạm trong nhà trường: hoạt động
dạy học trên lớp và hoạt động GDNGLL
- Hoạt động GDNGLL có vai trị rất quan trọng, nó điều chỉnh và định
hướng cho quá trình giáo dục tồn diện, tạo ra những con người hoàn thiện về
nhân cách, được thể hiện qua hành vi, kỹ năng - kỹ xảo, cách giao tiếp ứng
xử, thái độ đối với cuộc sống… Bên cạnh đó, nó góp phần củng cố và khắc
sâu kiến thức các môn học, mở rộng và nâng cao hiểu biết cho học sinh về các
lĩnh vực đời sống xã hội, phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập,
lao động và hoạt động xã hội, bồi dưỡng cho học sinh thái độ tự giác, tích cực
khi tham gia các hoạt động. Đồng thời hoạt động GDNGLL góp phần thỏa
mãn các nhu cầu đa dạng cho học sinh, đặc biệt là nhu cầu vui chơi giao tiếp,
lôi cuốn học sinh vào các hoạt động có ích, hạn chế những tác động tiêu cực
của mơi trường ln rình rập tha hóa các em. Việc tổ chức các hoạt động
GDNGLL một cách thường xuyên góp phần tạo điều kiện cho học sinh tiếp
cận, gia nhập đời sống xã hội, giáo dục học sinh kỹ năng sống, tạo cơ hội để
học sinh vận dụng, thể nghiệm những gì tiếp thu được trong giờ học chính
khóa, nhờ đó kết quả giáo dục trở nên bền vững, trọn vẹn hơn về nhận thức,

tình cảm, kĩ năng, hành vi …
1.2.4.4. Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
+ Về nhận thức: Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp học sinh bổ
sung, khắc sâu và hoàn thiện kiến thức đã học trên lớp đồng thời giúp các em


17

có những hiểu biết mới về cuộc sống, về xã hội, tình hình thời sự, đặc biệt
những vấn đề của thời đại: môi trường, dân số, hiểm họa ma túy, các cuộc đấu
tranh vì hịa bình, cơng lý …
Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp giúp học sinh có điều kiện vận
dụng kiến thức đã học vào đời sống, biết tự điều chỉnh hành vi đạo đức, lối
sống cho phù hợp, trở thành người có kinh nghiệm và nhanh chóng trưởng
thành, chững chạc …
Ngồi giờ lên lớp giúp học sinh tiếp cận với lý tưởng cách mạng thông
qua hoạt động, có định hướng chính trị rõ ràng, hiểu biết nhất định về truyền
thống đấu tranh của dân tộc, có niềm tự hào về truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc đồng thời tăng thêm hiểu biết về văn hóa của các nước trên thế
giới thơng qua các hoạt động giao lưu, hữu nghị, thông tin …
+ Về thái độ, tình cảm: Nhiệm vụ của ngồi giờ lên lớp khơng những
hình thành ở học sinh những niềm tin, thái độ, tình cảm đúng mà cịn giúp các
em bày tỏ thái độ, tình cảm của mình qua các hoạt động và mối quan hệ khác
nhau, qua đó tình cảm của các em được củng cố khẳng định và trở nên bền
vững. Hình thành cho học sinh niềm tin vào chế độ, tương lai của đất nước, từ
đó có lịng tự hào dân tộc, nung nấu ước mơ tiếp nối truyền thống xây dựng
quê hương giàu đẹp, hình thành cho học sinh những tình cảm đạo đức trong
sáng, ý thức trách nhiệm đối với gia đình, bạn bè, thầy cơ, tình u q hương
đất nước, tình đồn kết hữu nghị với các bạn thanh - thiếu niên quốc tế, các
dân tộc trên thế giới. Giáo dục nếp sống lành mạnh, giản dị, hành vi văn minh

trong giao tiếp, tinh thần thái độ học tập đúng đắn, ý thức chấp hành kỷ luật;
xây dựng cho các em lối sống phù hợp với đạo đức, pháp luật, truyền thống
tốt đẹp của địa phương và đất nước, bồi dưỡng cho học sinh tính tích cực,
năng động sẵn sàng tham gia hoạt động xã hội, hoạt động tập thể, vì lợi ích
chung, vì sự tiến bộ của bản thân, thấm nhuần lẽ sống cao đẹp: “Mọi người vì


18

mỗi người - mỗi người vì mọi người”. Thơng qua hoạt động tập thể học sinh
được rèn luyện trực tiếp trong cuộc sống xã hội, vững vàng hơn trong ý thức
xây dựng tập thể, trong kỹ năng tự quản, kỹ năng giao tiếp, tự giáo dục, tự rèn
luyện, cũng như quen dần với những công việc tổ chức và quản lí tập thể,
quản lí xã hội.
+ Về rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, hành vi, thói quen: Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cần thiết trong cuộc
sống như: kỹ năng giao tiếp; kỹ năng ứng xử có văn hóa; kỹ năng tự quản: tổ
chức điều khiển và thực hiện một hoạt động tập thể có hiệu quả, kỹ năng nhận
xét, kỹ năng đánh giá kết quả hoạt động; kỹ năng sinh hoạt ngoài trời; Rèn
luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, hình thành và phát triển những năng lực
thiên hướng của bản thân, những thói quen tốt trong học tập lao động và các
hoạt động khác. Bên cạnh đó, ngồi giờ lên lớp còn giúp các em rèn luyện kỹ
năng giáo dục và tự giáo dục, kỹ năng hòa nhập để thực hiện các nhiệm vụ
được giao.
Ba nhiệm vụ trên đây của hoạt động GDNGLL có mối quan hệ thống
nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hổ trợ, thúc đẩy lẫn nhau [12].
1.2.4.5. Nguyên tắc hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
+ Nguyên tắc về tính mục đích và tính kế hoạch: Hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp phải được lựa chọn từ yêu cầu kế hoạch năm học trên cơ sở
thực hiện mục tiêu giáo dục của ngành trong từng giai đoạn, vì thế cần phải

mang hai mục đích song song: phục vụ xã hội, xây dựng tập thể và tự giáo
dục. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần hình thành nhân cách học
sinh. Vì vậy, thầy cô giáo trong nhà trường và các lực lượng giáo dục khác
phải nhận thức đầy đủ về vị trí, nhiệm vụ của hoạt động GDNGLL, tích cực
chỉ đạo và hỗ trợ cho hoạt động này đạt được mục đích giáo dục mong muốn.
Ngồi u cầu có tính mục đích giáo dục rõ ràng, muốn có hiệu quả thiết


19

thực, hoạt động này phải đảm bảo tính kế hoạch. Vì vậy, phải cụ thể hóa mục
tiêu chung thành mục tiêu bộ phận, định ra mức độ yêu cầu đối với từng loại
hình hoạt động và những mẫu thiết kế tương ứng, đề ra những biện pháp phù
hợp, vạch rõ dự án tiến hành cơng việc.
+ Ngun tắc tính tự nguyện, tự giác: Nếu hoạt động trên lớp là bắt
buộc thì hoạt động GDNGLL là tự nguyện, tự giác. Học sinh tự chọn tham gia
các hoạt động theo khả năng, hứng thú và điều kiện sức khỏe của mình, chỉ có
như vậy mới tạo ra được động cơ hoạt động, phát huy thiên hướng của người
học sinh. Muốn thế nhà trường phải tổ chức nhiều mơn, nhiều nhóm, nhiều
câu lạc bộ khác nhau, thường xuyên tổ chức nhiều hình thức hoạt đông
GDNGLL hấp dẫn để thu hút các em, đồng thời phải bảo đảm tính tập thể vì
hoạt đơng GDNGLL được tiến hành tập thể, vì lợi ích tập thể, lợi ích xã hội
mà phục vụ. Trong hoạt động này, mỗi học sinh là thành viên của một đoàn
thể hay tập thể, hoạt động với tính cách đại diện cho một lực lượng hoặc một
tổ chức xã hội nhất định.
+ Nguyên tắc tính đến các đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm của học sinh:
Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung và hình thức hoạt đơng GDNGLL phải vừa
sức với từng lứa tuổi, từng khối lớp, nhà trường, giáo viên phải xác định các
loại hình hoạt động và các hình thức công việc sao cho chúng phù hợp với
khả năng lứa tuổi và hứng thú cá nhân của học sinh, có sức hấp dẫn, thỏa mãn

nhu cầu, kích thích tưởng tượng, có tác dụng ni dưỡng lý tưởng ước mơ,
tránh căng thẳng nghèo nàn, đơn điệu. Phải gây được hứng thú, mang lại niềm
vui cho học sinh. Cần luôn đổi mới về tính chất, nội dung và hình thức.
+ Ngun tắc kết hợp giữa sự lãnh đạo sư phạm với tính độc lập, tự
quản của học sinh: Nguyên tắc này địi hỏi phát huy tính tích cực độc lập,
sáng tạo của học sinh. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THPT
với lực lượng nịng cốt là Đồn TNCS Hồ Chí Minh cần phải được tạo điều


20

kiện để phát huy tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng tự quản. Trong
mọi hoạt động, học sinh phải giữ vai trò chủ thể, tự điều khiển, tự giải quyết
các tình huống nảy sinh. Giáo viên là người giữ vai trị cố vấn, phải tin tưởng
và tơn trọng học sinh, tạo được mối quan hệ hợp tác, cộng đồng trách nhiệm
giữa thầy và trò.
+ Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả: Khi tiến hành bất cứ hoạt động
nào cũng phải tính đến hiệu quả, trong đó hiệu quả giáo dục phải được đưa
lên hàng đầu. Nếu tổ chức hoạt đơng GDNGLL có sự kết hợp hiệu quả giáo
dục với các hiệu quả khác như kinh tế, chính trị, xã hội … thì phải lấy hiệu
quả giáo dục để điều chỉnh các hiệu quả khác.
1.2.4.6. Nội dung chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Căn cứ nội dung hoạt động GDNGLL được đề cập tại Điều lệ trường
Trung học (2007) đồng thời đối chiếu với các hoạt động thực tiễn của các
trường THPT hiện nay, hoạt động GDNGLL có bốn nhóm nội dung cơ bản
sau: hoạt động lao động - hướng nghiệp; hoạt động vui chơi, tham quan, du
lịch; hoạt động văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao; hoạt động xã hội chính trị.
+ Hoạt động lao động - hướng nghiệp: Học sinh vệ sinh trường lớp,
trang trí lớp, chăm sóc cây trồng, bảo vệ tài sản công… thể hiện qua các
phong trào “Trường xanh, lớp đẹp”, “Không gian xanh”; Mỗi học sinh làm

một số công việc nhà vừa sức để giúp đỡ bố mẹ như: tự giặt ủi quần áo, dọn
dẹp nhà cửa, sửa chữa những vật dụng đơn giản; Phối hợp với Huyện Đoàn,
thực hiện phong trào “Chủ nhật xanh”, mỗi tháng một lần, tổng vệ sinh toàn
trường hay vệ sinh khu vực quanh trường, quanh nơi ở nhằm góp phần hưởng
ứng cuộc vận động: “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; Để
khơng khí thêm sinh động, vào các dịp lễ, Tết nhà trường hoặc cụm liên
trường tổ chức hội chợ triển lãm, bán, trao đổi những sản phẩm do học sinh


21

làm ra qua bộ môn công nghệ như: túi xách, đồ trang sức, giỏ hoa, áo len,
móc khóa, bánh, mứt;...Tổ chức các cuộc thi sáng tạo “vật lý - địa lý” ..Thực
hiện công tác hướng nghiệp, đề án “Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp Trung
học cơ sở, Trung học phổ thông”, các trường mời báo cáo viên, phối hợp với
các trường Trung học nghề, Trung cấp chuyên nghiệp tư vấn, báo cáo hướng
nghiệp, giới thiệu nghề truyền thống ở địa phương, giới thiệu những ngành
nghề có nhu cầu tuyển dụng cao trong hiện tại và tương lai, tư vấn cho học
sinh chọn nghề phù hợp với khả năng của các em và nhu cầu của xã hội, tổ
chức ngày hội: “Thanh niên với nghề nghiệp” cho học sinh; tham quan
hướng nghiệp ở các nhà máy, cơ sở sản xuất, xí nghiệp…
+ Hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch: Giúp học sinh tái tạo năng lực
thần kinh và cơ bắp sau những giờ học tập căng thẳng, thay đổi tâm trạng, giải
tỏa buồn phiền, mệt mỏi để học sinh có thể tiếp tục học tốt hơn, tạo cơ hội để
học sinh tham gia vào các mối quan hệ bạn bè, tìm hiểu những điều mới lạ
xung quanh, giúp các em hiểu biết hơn về những giá trị văn hóa tự nhiên xã
hội, góp phần hình thành những kỹ năng sống cho học sinh. Hoạt động được
thực hiện qua nhiều hình thức: Tham quan cắm trại ở khu sinh thái lịng Hồ
Cửa Đặt, đề thờ Cầm Bá Thước, khu tích lịch Lam Kinh, nhà máy Thuỷ điện
Cửa Đặt, nhà máy đường Lam Sơn. Tham gia các họat động sinh hoạt tập thể

ngồi trời, các trị chơi vận động như: Đi cò khêu, kéo co, ném còn, nhảy bao
bố hay các trò chơi tĩnh như: trò chơi âm nhạc, trò chơi ngơn ngữ …
+ Hoạt động văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao: là món ăn tinh
thần khơng thể thiếu, hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy học, góp phần giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh sau giờ
học căng thẳng. Hoạt động này được thực hiện dưới nhiều hình thức: Hội thi
“EAROBIC”, “Nhà khoa học nhỏ tuổi” của Đoàn - Đội; “Hội vui học tập”,
“Đố em”, Viết thư UPU, Thuyết trình văn học, kể chuyện theo sách, thi học


22

sinh giỏi…của các môn học, của thư viện; Hội thi cắm hoa, báo tường, vẽ
tranh, văn nghệ nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn 20/11, 19/5, 22/12 ; Thể
dục giữa giờ, “Hội khỏe Phù đổng”, “Giải Vô địch Thể dục - Thể thao học
sinh”, phong trào: “Mỗi học sinh chơi một mơn thể dục”. Ngồi ra các em có
thể tham gia các câu lạc bộ: Cầu lơng, bóng bàn, bóng rổ, thể dục nhịp điệu,
cờ tướng, cờ vua…
+ Hoạt động xã hội - chính trị: Bao gồm các hoạt động phục vụ nhiệm
vụ chính trị - xã hội của địa phương, giáo dục pháp luật, giáo dục an toàn giao
thơng, giáo dục mơi trường, giáo dục phịng chống AIDS, ma túy và các tệ
nạn xã hội, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực… Với một số
hoạt động cụ thể: Hội thi: “Học sinh với bảo vệ môi trường”, “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Các phong trào: “Tiếp bước cha
anh”, chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng, thăm viếng gia đình thương binh, liệt
sĩ; bảo vệ, chăm sóc di tích lịch sử, văn hóa; Gửi thư tặng quà thăm bộ đội
vùng biên giới, hải đảo; Các lễ hội, hội trại: “Giỗ tổ vua Hùng”, “Mừng Đảng
- Mừng Xuân”. Những hội thi, những phong trào, các lễ hội trên giúp học sinh
thuộc sử nước nhà, sử địa phương, truyền thống địa phương, truyền thống nhà
trường…Qua đó, bồi dưỡng lịng tự hào về những thành quả và truyền thống

hào hùng của dân tộc, khơi dậy lòng biết ơn những người đi trước, kêu gọi nỗ
lực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ để trở thành những người
công dân tốt. Bên cạnh các hoạt động trên, các bộ phim tư liệu, thời sự, di tích
lịch sử, danh lam thắng cảnh… đã khơi dậy ở các em lòng tự hào về non sông,
đất nước; sự chia sẻ đồng cảm với những mất mát của đồng bào, lòng yêu
thương con người, thái độ đấu tranh với những cái xấu, cái bất công hay
những buổi giao lưu với học sinh trường khuyết tật, các bạn học sinh là nạn
nhân chất độc màu da cam đã giúp các em hiểu hơn về những mất mát của
của các bạn đồng thời ý thức hơn về những may mắn mình đang có để nỗ lực


23

học tập rèn luyện hơn nữa; Các phong trào thi đua: “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”, “Học sinh THPT Thường Xuân chung tay xây
dựng ngôi trường mến u”, “Vẻ đẹp Địan viên”, “Nói lời hay làm việc tốt”,
“Giúp bạn vượt khó”…đã góp phần xây dựng mơi trường an toàn thân thiện,
ngăn ngừa những tác động tiêu cực ngồi xã hội, tạo điều kiện hình thành
những phẩm chất đạo đức và năng lực cho học sinh, thực hiện mục tiêu giáo
dục tồn diện. Các hội thi tìm hiểu luật giao thơng, luật phịng chống ma túy,
các buổi tọa đàm, thuyết trình về các đề tài: “Bảo vệ mơi trường”, “Quyền trẻ
em” khơng chỉ giúp các em thích ứng với nếp sống và các định chế của xã hội
mà còn tạo điều kiện và cơ hội cho các em đóng góp sức lực, trí tuệ của mình
vào sự phát triển của xã hội, phát triển tính tích cực của cá nhân. Các lễ hội,
hội trại có quy mơ cấp trường, liên trường như: “Vì màu xanh trái đất”, “Nối
vịng tay lớn” là dịp các em giao lưu, trình bày những suy nghĩ của mình về
các vấn đề xã hội như: ma túy, HIV, AIDS, môi trường, quyền trẻ em bằng
nhiều loại hình nghệ thuật như: ca, múa, kịch, tấu hài…Một trong những tiêu
chí “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là việc rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh. Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích

cực cho phép cá nhân có thể đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của
cuộc sống hàng ngày. Trong điều kiện của đơn vị, các trường đã thực hiện
một số hoạt động: Hội thi kỹ năng sơ cấp cứu tai nạn; Giáo dục về giới tính,
sức khỏe sinh sản; tìm hiểu và phòng chống các bệnh như: cận thị, cong vẹo
cột sống, thủy đậu, Rubella, sốt xuất huyết, cúm, quai bị, phong, lao; Hướng
dẫn học sinh một số điều cần thiết khi xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, bão lụt;
Hướng dẫn học sinh kỹ năng, lắng nghe, kỹ năng ghi nhớ, kỹ năng đọc hay kỹ
năng tự giới thiệu, nói chuyện trước đám đông, kỹ năng gọi và nghe điện
thoại…


24

Việc chia thành bốn nhóm nội dung như trên chỉ có tính chất tương đối
để các nhà quản lý định hướng hoạt động ở trường mình một cách khái quát.
Về thực chất, giữa các nội dung có các mối quan hệ biện chứng, đan kết và hỗ
trợ lẫn nhau. Trong thực tế, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng trường
mà nhà quản lý có thể tiếp cận nội dung hoạt động theo những cách khác nhau
để vận dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả.
1.2.5. Quản lý hoạt động GDNGLL
Quản lý hoạt động GDNGLL là hệ thống những tác động có hướng đích,
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm làm cho hoạt
động GDNGLL thực hiện được mục tiêu đặt ra.
Nội dung của quản lý hoạt động GDNGLL. Có thể bàn đến các nội dung
quản lý hoạt động này theo các cách tiếp cận khác nhau:
a) Theo chức năng quản lý: Quản lý hoạt động GDNGLL chính là thực
hiện 4 chức năng cơ bản: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động
GDNGLL.
b) Quản lý theo nội dung hoạt động GDNGLL:
- Hoạt động chính trị xã hội.

- Hoạt động phục vụ học tập, tìm hiểu khoa học.
- Hoạt động cơng ích xã hội.
- Hoạt động văn hố nghệ thuật.
- Hoạt động thể thao quốc phòng, tham quan du lịch.
Hay
- Hoạt động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao.
- Các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá.
- Các hoạt động giáo dục môi trường.
- Các hoạt động lao động cơng ích.
- Các hoạt động xã hội từ thiện.


25

Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các tiếp cận theo chức năng quản
lý hoạt động GDNGLL.
1.2.6. Các biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL
a. Khái niệm biện pháp.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của nhà xuất bản Giáo dục năm
1996, biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành.
b. Biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL
Biện pháp quản lý hoạt động GDNGLL là cách làm, cách giải quyết
các vấn đề khó khăn, trở ngại để nâng cao chất lượng hoạt động GDNGLL.
1.3. Quản lý hoạt động GDNGLL ở trường THPT
1.3.1. Mục đích quản lý hoạt động GDNGLL
Làm cho hoạt động GDNGLL đi vào nề nếp, thực hiện đúng kế hoạch
đề ra với chất lượng và hiệu quả cao, đạt được mục đích của hoạt động này.
1.3.2. Nội dung quản lý hoạt động GDNGLL
a) Lập kế hoạch hoạt động GDNGLL.
Quản lý hoạt động dạy học và các hoạt động giáo dục khác phải được

thực hiện trên cơ sở kế hoạch. Kế hoạch hoạt động GDNGLL được xây dựng
trên cơ sở kế hoạch năm học chung của nhà trường, trong quan hệ tương hỗ
với các kế hoạch hoạt động khác như: kế hoạch dạy học, kế hoạch giáo dục
đạo đức học sinh, kế hoạch lao động - hướng nghiệp, kế hoạch cơ sở vật chất,
Chương trình hoạt động năm của Đoàn…
Kế hoạch hoạt động GDNGLL được xây dựng trên cơ sở chương trình
các mơn học, các chủ trương cơng tác trọng tâm và nhiệm vụ chính trị - xã hội
tại địa phương, các chủ đề, chủ điểm sinh họat. Bên cạnh đó, phải căn cứ vào
khả năng của đội ngũ sư phạm và các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường cũng như điều kiện và khả năng tham gia của học sinh. Lập kế hoạch
cần tham khảo kết quả thực hiện các nhiệm vụ năm học trước, những yếu tố


×