Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên trường cao đẳng y tế trà vinh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.09 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ BÉ OANH

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TRÀ
VINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

ĐỒNG THÁP 6 – 2015

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ BÉ OANH

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TRÀ
VINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Đồng Tháp, 2015


2


XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN

.......................................................
.......................................................
.......................................................
.......................................................
.......................................................
.......................................................
.......................................................
.......................................................

3


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ thời đại nào, con người bao giờ cũng là chủ thể đích thực sáng
tạo ra lịch sử, là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Trong đường lối cách
mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định: con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đảng chủ trương lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Quan điểm này đã đặt ra cho quá trình phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
nhiều nhiệm vụ to lớn mới mẻ, đặc biệt là việc chăm lo giáo dục thế hệ trẻ
Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định
chủ trương: “Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa
lành mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh
doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người

Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức và lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân
tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ”
[ 21, 31].
Đây là một trong những định hướng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay.
Hiện cả nước có hơn 230 trường đại học và cao đẳng, với tổng số gần
hai triệu sinh viên. Việc quan tâm giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên có vị trí hết sức quan trọng đối với quá trình xây dựng, phát triển
đội ngủ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ nói chung và
thanh niên, sinh viên nói riêng là góp phần thực hiện quan điểm của Đảng,
đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo: Nghị quyết TW 2 khóa VII nhấn mạnh
“Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy
thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng thiếu hoài bão

4


lập,
thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”.[ 16 tr 237]
Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, thanh niên, sinh viên đang
đứng trước những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng phải sẵn sàng đối mặt với
những thách thức, khó khăn. Việc tiếp thu những thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến trên thế giới và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đã giúp
thanh niên, sinh viên có nhận thức, tư duy phát triển, thị hiếu thẩm mỹ nâng
lên.
Tuy nhiên, với thành tựu phát triển là mặt trái của cơ chế thị trường tác
động không nhỏ tới môi trường sống của toàn xã hội, đặc biệt là đạo đức của
thanh niên, sinh viên.
Trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh là trường Cao đẳng chuyên đào tạo về

Y, Dược là trường đặc thù riêng, nằm ở trung tâm thành phố Trà Vinh. Với tỉ
lệ sinh viên nữ chiếm 75%. Sinh viên Cao đẳng Y tế hiện nay vẫn giữ được
truyền thống văn hóa dân tộc, phẩm chất tốt đẹp của cha ông ta như “tôn sư
trọng đạo”, hiếu học, kính thầy, yêu bạn, lối sống giản dị, chăm chỉ.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên chỉ quan tâm đến
bản thân và nhu cầu trước mắt, sống thực dụng, kém ý chí vươn lên, học đòi
lối sống xa hoa, hưởng thụ, thiếu trung thực trong học tập, tha hóa nhân cách,
sa vào tệ nạn xã hội.
Theo số liệu báo cáo hàng năm của Phòng Công tác chính trị - Sinh
viên từ năm 2007 đến nay đã xử lý kỷ luật 642 sinh viên vi phạm nội quy, quy
chế nhà trường, trong đó kỷ luật khiển trách 166 sinh viên, cảnh cáo toàn
trường 97 sinh viên; đình chỉ học tập vì vi phạm nội quy 6 sinh viên. Số sinh
viên bị đình chỉ học tập vì điểm kém từ năm 2009 đến nay là 85 sinh viên.
Từ năm 2003 đến nay tại Ký túc xá của trường đã xảy ra hai vụ đánh
nhau gây thương tích nghiêm trọng giữa các sinh viên của trường chỉ vì
những xích mích rất nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày, 02 vụ sinh viên tổ chức
đánh bài ăn tiền trong ký túc xá, 02 vụ đánh nhau tại cơ sở thực tập. Đó là
những biểu hiện suy thoái về lối sống đạo đức truyền thống của sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh trong những năm gần đây. Thực tế này đòi
hỏi cần phải tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên,
sinh viên, cuốn hút sinh viên tham gia xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh,

5


phòng chống hiệu quả các tệ nạn xã hội định hướng để sinh viên phấn đấu rèn
luyện theo chuẩn mực của người thầy thuốc tương lai như Bác Hồ đã dạy
“Lương y như từ mẫu”.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề “Giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh

trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị
học. Với mục đích nghiên cứu một cách tổng thể và đề xuất những giải pháp
có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh trong bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Toàn cầu hoá được xem là xu thế khách quan mà mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc, dù muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là
nước đang phát triển, quá trình toàn cầu hoá tạo cho chúng ta những thời cơ
thuận lợi có thể đi tắt đón đầu để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách
thức. Thách thức đó bao gồm cả nguy cơ suy thoái, đặc biệt là suy thoái về
giá trị đạo đức truyền thống, chệch hướng đạo đức truyền thống, lối sống con
người Việt Nam hiện nay. Vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều học giả trên nhiều lĩnh vực, có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như:
- Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho con người Việt Nam.
Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội”, gồm một số nội dung quan trọng như: Sự tác động
của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; kế thừa và phát triển nếp sống đạo đức và các giá trị truyền
thống dân tộc và cách mạng… tác giả đề ra phương hướng, quan điểm và giải
pháp xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới.

6


Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002) “Giá trị
truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” công trình đã đề cập
đến một số nội dung quan trọng: “Các giá trị truyền thống trước sự thẩm định
và thách thức của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hoá”; “Một số suy nghĩ về

giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay”; “Giá
trị truyền thống Việt Nam nội dung và vị thế của nó trong giá trị nhân loại”...
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999) “Sự thay đổi cuả thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý ở nước ta hiện nay”, tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản như: Đạo
đức mới trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó xây dựng đạo
đức mới, đưa ra phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức
mới.
Vũ Minh Giang, Phan Huy Lê (1994) “Các giá trị truyền thống của
con người Việt Nam hiện nay” công trình đã đề cập đến một số nội dung:
“Một số suy nghĩ về quá trình hình thành và biến đổi của truyền thống yêu
nước Việt Nam”; “Con người Việt Nam hiện tại trong mối quan hệ với các
giá trị và phản giá trị của truyền thống”, v.v...
Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên) (2006)“Chuẩn mực đạo đức con người
Việt Nam hiện nay”, tác giả đã khái quát một cách hệ thống chuẩn mực đạo
đức truyền thống của con người Việt Nam và dưới sự biến đổi của nền kinh tế
thị trường tác động đến chuẩn mực đạo đức, tác giả đưa ra những chuẩn mực
chủ yếu của con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Một số bài báo, Tạp chí của nhiều tác giả đã bàn đến các nội dung giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên như: Đặng Hữu Toàn (2001),
Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo chuẩn giá trị chân thiện mỹ

7


trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học
số 4; Nguyễn Văn Huyên (2003), Lối sống người Việt Nam dưới tác động của
toàn cầu hoá, Tạp chí Triết học số 12; Võ Văn Thắng (2005), Một số mâu

thuẫn nảy sinh trong xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết
học số 8; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), Toàn cầu hoá và nguy cơ suy
thoái đạo đức, lối lối con người Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học số 2;
Cao Thu Hằng (2003), Giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống trong điều
kiện hiện nay, Tạp chí Triết học số 11; Nguyễn Lương Bằng (2012), Tiêu chí
đánh giá, xếp loại đạo đức học sinh phổ thông- một số vấn đề đặt ra trong
bối cảnh hiện nay, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 8 2012; Truyền thống đạo
đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên hiện nay, Tạp
chí Giáo dục, Số 4 (2006), Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình
đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay (2001), Luận án Tiến sĩ Triết học. Các
tác giả Đoàn Minh Duệ, Nguyễn Lương Bằng, Đinh Thế Định, Nguyễn Thái
Sơn (2004), đã nghiên cứu đạo đức thanh thiếu niên ở nghệ An và đã xuất bản
sách “Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh
thiếu niên tỉnh Nghệ An”, Sách nghiên cứu, Nxb Nghệ An, 2004, … và một
số tài liệu “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban tư
tưởng Văn hóa Trung ương soạn thảo.
Mỗi công trình, đề tài là một góc nhìn riêng của tác giả, là tiếng nói
hiện thực của từng nhà nghiên cứu góp phần xây dựng bức tranh thêm hài hòa
về hành vi, lối sống con người và đất nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
thế giới. Đây là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác giả trong quá trình
hoàn thành luận văn Thạc sĩ của mình, chưa có đề tài nào nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
- Từ lý luận và thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh

8


viên tại trường Cao đẳng Y tế tỉnh Trà Vinh, luận văn đề xuất quan điểm và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho

sinh viên trong trường Cao đẳng Y tế giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục các giá trị đạo đức
cho sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện
nay.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế tỉnh Trà
Vinh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số nội dung cơ bản của giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam; nâng cao hiệu quả giáo dục và phát
huy giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trong lối sống sinh viên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Triết học duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội; Các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phát huy và kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức mới trong lối sống sinh viên.
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu chung nhất của luận văn là các
nguyên tắc, phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng. Trong đó chú
trọng phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp, đánh giá làm sáng

9


tỏ cơ sở thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nhằm đưa ra các giải

pháp giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Cao đẳng Y tế.
6. Đóng góp của đề tài
- Luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và nâng cao
hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế tỉnh Trà Vinh trong giai
đoạn hiện nay.
- Luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các tổ chức chính trị xã hội
trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên, sinh viên.
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người
quan tâm đến công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh.
Chương 2: Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên tại trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh.
Chương 3: Những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng
Y tế Trà Vinh.

10


B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó

con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
mình và sự tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa người với người.
Đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức mạnh siêu nhiên nào
đó điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của đạo đức con người trong xã hội cũng
không phải là biểu hiện của năng lực tiên thiên ở con người. Quan điểm duy
vật lịch sử về đạo đức đã khẳng định rằng, với tư cách một hình thái ý thức xã
hội, đạo đức có nguồn gốc từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ
cơ sở kinh tế - xã hội. Nghĩa là đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã
hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội nảy sinh và quyết
định; rằng quan hệ đạo đức là biểu hiện của quan hệ vật chất xã hội và biến
đổi theo đời sống vật chất xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội, trên
cơ sở phát triển của sản xuất vật chất mà đạo đức được hoàn thiện dần dần.
Đạo đức phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội thông qua đấu tranh, lọc bỏ, kế thừa để tiến bộ không ngừng.
Tuy là sản phẩm của kinh tế, đạo đức cũng có tác động mạnh mẽ trở lại, có
khả năng tạo ra những biến động to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Nhờ có đạo đức và thông qua đạo đức, những chuẩn mực xã hội mới
phát huy hết chức năng điều chỉnh hành vi, chế định hoạt động giao tiếp và
hành vi ứng xử của con người nhằm đảm bảo sự thống nhất cần thiết giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng.

11


Có thể nói, đạo đức là nội dung cốt yếu của tính cách con người, nó có
vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, các giai cấp, các
tập đoàn xã hội bao giờ cũng sử dụng đạo đức như là một công cụ, một động
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, đạo đức luôn thay đổi tùy
theo sự thay đổi của tồn tại xã hội, thay đổi từ thời đại này sang thời đại khác,
từ dân tộc này đến dân tộc khác. Nếu không thấy quy luật này, không nhìn giá

trị đạo đức truyền thống từ một quan điểm biện chứng và lịch sử thì nhất định
mắc vào những sai lầm của chủ nghĩa bảo thủ; không nhận thức được sự biến
đổi ấy của các giá trị đạo đức truyền thống, khư khư giữ những giá trị lỗi thời,
thì nhất định sẽ lạc lõng trong xã hội mới.
- Khái niệm truyền thống
Theo từ điển Hán - Việt: "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia"
Trong cuốn từ điển của Trung Quốc xuất bản năm 1989 định nghĩa: "Truyền
thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn
tại ở các lĩnh vực, chế độ, tư tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có tác
dụng khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con người. Truyền thống là
biểu hiện tính kế thừa của lịch sử" [9, tr. 10]. Dưới góc độ chính trị - xã hội,
Từ điển Chính trị vắn tắt định nghĩa: truyền thống - di sản về xã hội và văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được duy trì trong suốt thời
gian dài. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thống.
Truyền thống là một khái niệm, dùng để chỉ những hiện tượng như tính
cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, tâm lý, lối ứng
xử... được hình thành trên cơ sở những điều kiện tự nhiên - địa lý, kinh tế - xã
hội cũng như hoạt động của con người trong quá trình lịch sử và được lưu
truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong một cộng đồng người nhất định.

12


Trong "Đại từ điển tiếng Việt" định nghĩa "truyền thống nề nếp, thói
quen tốt đẹp được lưu giữ từ đời này qua đời khác" [23, tr. 1734]. Cách định
nghĩa này mới chỉ nêu lên những mặt tốt đẹp của truyền thống mà chưa nêu
được mặt hạn chế của truyền thống, trong quá trình phát triển xã hội.
Con người làm ra lịch sử của chính mình nhưng không phải làm theo ý
muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong
những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại.

Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc
những người đang sống [5, tr. 145].
Vận dụng những định nghĩa trên vào lĩnh vực chuyên môn của mình
các nhà khoa học đã khai thác nội hàm và ngoại diên của các khái niệm truyền
thống ở những góc độ khác nhau.
Khi nghiên cứu "về truyền thống dân tộc", Trần Quốc Vượng viết:
Truyền thống như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của
một tập thể (một cộng đồng) được hình thành trong lịch sử, trong một môi
trường tự nhiên và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, có thể được định chế
hóa bằng luật hay bằng lệ, và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
để đảm bảo tính đồng nhất của một cộng đồng [33, tr. 28-29].
Khi bàn về văn hóa Việt Nam, Vũ Khiêu định nghĩa: "Truyền thống là
những thói quen lâu đời đã được hình thành trong nếp sống, nếp suy nghĩ và
hành động của một dân tộc, một gia đình, một dòng họ, một làng xã, một tập
đoàn lịch sử" [30, tr. 536].
Khi phân tích tính biện chứng của truyền thống, Hà Văn Tấn cho rằng:
Người ta thường giới hạn truyền thống dân tộc vào những mặt như tính
cách, phẩm chất, tâm lý, khả năng và phong cách hoạt động của cộng đồng

13


dân tộc, hay đúng hơn của số đông thành viên của cộng đồng dân tộc đã hình
thành trong lịch sử. Có thể kể thêm vào truyền thống cái mà người ta gọi
không đạt lắm là ứng xử.
Qua nhiều khái niệm truyền thống và cách tiếp cận khai thác nội hàm
và ngoại diên của khái niệm truyền thống ở các góc độ khoa học khác nhau
của các nhà nghiên cứu, đều có những nhân tố hợp lý của nó; họ đều đứng
trên thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin để xem xét, tránh được những sai lầm của chủ nghĩa hư vô, chủ

nghĩa bảo thủ. Qua các kết quả nghiên cứu đó, chúng ta có thể rút ra được
những đặc trưng cơ bản của truyền thống:
- Truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền, tuy
nhiên những đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi
những cơ sở, điều kiện hình thành nền truyền thống đó thay đổi sớm muộn
những nội dung của truyền thống cũng dần dần biến đổi theo cho phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh mới hoặc những truyền thống mới được hình thành, phát
triển. Cho nên truyền thống sẽ có tính hai mặt đối lập nhau đó là truyền thống
tốt và truyền thống xấu. Truyền thống tốt có tác dụng hình thành nên những
phẩm chất tốt ở con người và hành động của con người góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển, và ngược lại truyền thống xấu sẽ kém hơn sự phát triển của xã
hội. Hai mặt này của truyền thống luôn luôn tồn tại, muân thuẫn biện chứng
với nhau trong quá trình lịch sử.
- Truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người
trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập quán,
thói quen trong tư duy, lối ứng xử, tâm lý...

14


- Truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người
(thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, dũng họ, gia đình, làng xóm...), là bản sắc của
các cộng đồng người.
- Truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi
trường tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản
xuất và kết cấu kinh tế xã hội, tác động thường xuyên của lịch sử, tác động
của môi trường văn hóa khu vực và trên thế giới.
- Truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau, nó
ăn sâu vào tâm lý, vào phong tục tập quán, nếp nghĩ... của con người.
"Mỗi nước, trong lịch sử phát triển của mình đều hình thành nên một hệ

thống công nghệ truyền thống để duy trì và phát triển đồng thời cũng hình
thành một môi trường văn hóa - xã hội tương ứng" [6, tr. 155].
Chẳng hạn, trong các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam
thì đại đa số nhân dân Việt Nam và các nhà khoa học đều thừa nhận chủ nghĩa
yêu nước là giá trị hàng đầu tạo nên sức mạnh Việt Nam trong mọi giai đoạn lịch
sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới đã nhận xét:
"Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [19, tr. 297].
Từ khi xã hội phân chia giai cấp biểu hiện của truyền thống ngày càng
đa dạng hơn. Chẳng hạn, các nước trên thế giới đều có truyền thống yêu nước
nhưng do tác động của môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, lịch
sử mà truyền thống đó in dấu ấn lên các giai cấp, dân tộc ở mức độ sâu sắc
khác nhau và phát triển theo những xu hướng khác nhau. Ở Việt Nam, chủ
nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần cao đẹp nhất, là tư tưởng, tình cảm cao quý
thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam, giữ vị trí hàng đầu trong bậc thang

15


giá trị của dân tộc, là năng lực nội sinh của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Điều đó được đa số nhân dân thừa nhận,
đây là cái chung của dân tộc. Tuy nhiên, trong một cộng đồng quốc gia dân
tộc, thường có nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Các thành phần dân tộc
đó sống trong các vùng địa lý, văn hóa khác nhau có những nét đặc trưng
riêng, nên họ mang cả truyền thống chung của dân tộc nhưng đồng thời họ
cũng có truyền thống riêng. Cái chung và cái riêng đó thống nhất với nhau, bổ
sung cho nhau làm cho truyền thống của mỗi dân tộc ngày càng đa dạng và
phong phú. Truyền thống không tồn tại riêng biệt, mà tồn tại trong mỗi cá
nhân, nó tác động, chi phối tính cách, phẩm chất, suy nghĩ, tập quán, hành

động của cá nhân.
Còn giai cấp phản động lạc hậu thường tiếp nhận những truyền thống
xấu, lạc hậu, kìm hãm sự tiến bộ của xã hội mà Bác Hồ coi đó là "kẻ địch to".
Bác viết: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải
cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài" [21, tr. 439].
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn luôn
phải đương đầu với nhiều đế quốc hùng mạnh. Nhiều cuộc kháng chiến diễn
ra lâu dài, ác liệt trong tương quan lực lượng hết sức chênh lệch, yêu cầu phải
huy động sức mạnh vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân. Dân tộc
Việt Nam hình thành sớm, quá trình phát triển dẫn đến thống nhất quốc gia lại
diễn ra trong những giai đoạn lịch sử phức tạp, qua nhiều bước thăng trầm,
hình thành nên nhiều truyền thống quý báu, in dấu ấn sâu sắc vào tâm tư tình
cảm của mỗi người dân như truyền thống yêu nước, ý chí quật cường bất
khuất, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, truyền thống tôn thờ tổ tiên,
truyền thống thượng võ, mưu trí, thông minh, sáng tạo. Để kế tục sự nghiệp
vẻ vang của cha ông, để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững thoát khỏi họa

16


ngoại xâm, con người phải luôn luôn có một bản lĩnh vững vàng, phải am
hiểu truyền thống lịch sử, phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ văn
hóa, tự hào về những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc mình, phát huy
thêm trong giai đoạn lịch sử mới. Chính hoàn cảnh lịch sử chế ước, chi phối,
quy định tính kế thừa, tác động đến quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
của truyền thống, nhưng truyền thống có tính độc lập tương đối nghĩa là truyền
thống có quy luật vận động riêng trong quá trình biến đổi mặc dù truyền
thống ra đời do sự tác động của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, kinh tế xã hội và hoàn cảnh lịch sử. Lịch sử thường diễn ra với tốc độ nhanh, trong khi
đó truyền thống thường chưa kịp thời phát huy được sức mạnh của mình hoặc

chưa kịp thời bổ sung được những đặc điểm mới. Truyền thống thường gắn với
lợi ích của những giai cấp, những nhóm người trong xã hội nên những truyền
thống tốt thường được giai cấp tiến bộ lưu giữ, phát huy, còn những truyền
thống xấu bị các lực lượng phản động khuếch trương, truyền bá, cản trở sự
phát triển của lịch sử.
Các giá trị truyền thống sáng tạo ra những giá trị mới, đó là con đường
đặc trưng cơ bản nhất để con người tồn tại và phát triển. Bản chất con người
là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, truyền thống là một trong những yếu tố
cấu thành quan hệ xã hội và nó góp phần vào việc hình thành bản chất con
người ở các khía cạnh sau:
- Truyền thống là nền tảng vững chắc để hình thành các giá trị mới ở
con người.
- Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là cơ sở tinh thần để ngăn
chặn, hạn chế những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa người và người.

17


- Giữ sự phát triển đúng hướng, đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
giao lưu văn hóa với thế giới bên ngoài, không bị nước khác đồng hóa, giữ
vững và phát huy được bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Tạo ra và tăng cường năng lực nội sinh, sức đề kháng của mỗi người,
mỗi gia đình, cộng đồng dân cư, là điểm tựa và là yếu tố nội lực của cá tính
sáng tạo của mỗi cá nhân.
- Hạt nhân hợp lý của truyền thống dân tộc có thể thúc đẩy tiến trình
hiện đại hóa. Trong truyền thống văn hóa dân tộc vừa có nội dung phản ánh
thời đại, cũng có nội dung phản ánh tính dân tộc và tính nhân loại, cái sau tiêu
biểu cho phương hướng phát triển của dân tộc đó và toàn nhân loại. Truyền
thống là ngọn nguồn, là động lực, kích thích sức sống của dân tộc, hình thành

nên tinh thần dân tộc, tạo nên một tình cảm lưu luyến, một lòng thành kính và
sự trân trọng lịch sử dân tộc. Vì vậy nó là đòn bẩy của xã hội trong quá trình
hiện đại hóa.
Do truyền thống có vai trò quan trọng trong việc hình thành bản chất
con người, nên đa số quốc gia đều có ý thức bảo vệ, nuôi dưỡng và phát huy
truyền thống của dân tộc mình trong quá trình phát triển.
Muốn truyền tải truyền thống dân tộc cho con người tức là "biến truyền
thống thành phẩm chất của con người mới, thành nhân tố của mọi sáng tạo
văn hóa, thì phải kết hợp ba yếu tố: trí tuệ, xúc cảm và hành động" [8, tr. 35].
Truyền thống dân tộc trong mỗi con người không phải tự nhiên mà có. Muốn
hình thành và phát huy được truyền thống dân tộc trong mỗi con người phải
bằng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục, tạo ra điều kiện môi trường xã
hội để con người được tắm mình trong truyền thống. Truyền thống chỉ được
phát huy khi con người hiểu được những giá trị truyền thống của dân tộc mình

18


dựa trên cơ sở khoa học. Muốn giáo dục truyền thống dân tộc phải giáo dục
lịch sử, nguồn gốc dân tộc, truyền thống dân tộc, xây dựng niềm tự hào về
dân tộc.
1.1.2. Khái niệm giá trị đạo đức truyền thống.
Trong quá trình hội nhập phát triển kinh tế quốc tế, các giá trị đạo đức,
những tập quán và truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia luôn đóng một vai
trò to lớn. Thông qua tập quán và truyền thống dân tộc mà rất nhiều quan
niệm, quy tắc, giá trị đạo đức cũ được giữ lại, được kế thừa và phát huy trong
bối cảnh xã hội mới ngay cả khi những điều kiện xã hội đã sản sinh ra chúng
không còn nữa. Trong đó, truyền thống nói chung và đạo đức truyền thống
nói riêng là sự phức hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán, thói
quen, lối sống… của chính dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử lâu

dài, đã trở nên ổn định, mang đặc trưng riêng của dân tộc và được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thống chính là sự nối tiếp hôm qua và hôm nay, là sợi dây nối
từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Truyền thống là một bộ phận thiết yếu
trong cuộc sống của chúng ta, nó bảo tồn cuộc sống của chúng ta. Truyền
thống của mỗi dân tộc không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do con
người tự lựa chọn cho mình mà nó được hình thành, được quy định bởi chính
những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội mà dân tộc đó trải qua. Tuy nhiên, do
tồn tại xã hội luôn vận động và biến đổi nên những truyền thống được hình
thành trên cơ sở đó cũng không thể nhất thành bất biến, nhưng truyền thống là
cái mà trong quá trình vận động, biến đổi vẫn giữ lại những yếu tố nhân lõi
bên trong của nó. Như vậy, không có nghĩa là giá trị truyền thống là cái bất
biến vĩnh hằng. Thước đo của giá trị truyền thống không nằm ở đâu khác
ngoài thực tiễn, mà thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi, bởi vậy có
những truyền thống hôm qua còn giá trị nhưng hôm nay không còn giá trị nữa

19


hoặc có những tuyền thống bên cạnh mặt giá trị lại có cả mặt phản giá trị. Bởi
vì trong truyền thống không phải chỉ gồm toàn những cái tốt, cái hay mà lẫn
cái xấu, điều tiêu cực, lạc hậu.
Trong sự phát triển của lịch sử mỗi dân tộc cần phải giữ lại cho mình
những truyền thống tốt đẹp, những giá trị đã làm nên bản sắc văn hoá, làm
nên cốt cách tinh thần, bản lĩnh và nét đẹp nhân cách, trở thành động lực phát
triển của dân tộc, đồng thời cũng loại bỏ những truyền thống trở nên lạc hậu,
lỗi thời làm cản trở bước tiến của dân tộc. Đồng thời, mỗi dân tộc phải tự tạo
ra cho mình những truyền thống mới thực sự phù hợp và mang lại giá trị trong
hiện tại; phải không ngừng tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại
trong quá trình giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế để làm giàu thêm cho

truyền thống của dân tộc mình.
Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính bức
thiết của việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống nói chung và giá trị
đạo đức truyền thống nói riêng của dân tộc trong bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng
cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế
giới, làm giàu thêm nền văn hoá Việt Nam; đấu tranh chống mọi xâm nhập
của các loại văn hoá độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất
gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chất đạo lý, coi thường các giá
trị nhân văn [10, tr.111]. Do đó, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải xác lập trong hệ chuẩn
mực đạo đức của nó, sự phát triển các giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu
các tinh hoa đạo đức hiện đại, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích cộng đồng,

20


coi cộng đồng các lợi ích cơ bản là điều kiện phát triển các giá trị đạo đức cá
nhân.
Trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2011 – 2020, Đảng
ta khẳng định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát
huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá để văn hoá thực sự là
nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn
hóa lành mạnh; coi trọng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý, văn hoá trong kinh
doanh và văn hoá trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người

Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc,
trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ...” [15,
tr. 126]. “...Đồng thời coi "Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại. Lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" [ 26, tr. 8]. Đấu tranh chống các
biểu hiện phi văn hóa, suy thoái đạo đức, lối sống, tác động tiêu cực của các
sản phẩm văn hóa thông tin đồi trụy, kích động bạo lực. Đẩy mạnh phòng,
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội” [15, tr. 127].
Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải
vượt qua biết bao thử thách, hy sinh xương máu của biết bao thế hệ cha ông,
đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người Việt Nam và dân tộc
Việt Nam đã tạo lập cho mình một loại truyền thống trên phương diện tư duy,
tâm lý, lối sống, cách ứng xử… chi phối hành vi và cuộc sống của con người
trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng và
với thiên nhiên. Đặc biệt là sự hình thành, phát triển các giá trị đạo đức truyền
thống mang bản sắc Việt Nam: lòng yêu nước, lòng nhân ái, sự khoan dung,
sống có tình có nghĩa, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết, anh dũng, kiên cường

21


bất khuất, lao động cần cù, sáng tạo,... Đây không phải là những yếu tố siêu
nhiên, phi thường khác với mọi dân tộc khác, các giá trị đó đã ăn sâu vào trong
máu thịt qua các thế hệ và chính nó là sức mạnh Việt Nam suốt nhiều thế kỷ.
Đồng thời, những giá trị này được kết hợp hài hoà trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, tạo nên những sắc thái độc đáo, lâu bền, tạo nên sức mạnh,
tinh thần của một dân tộc trường tồn trong lịch sử với những chiến công hiển
hách.
Những giá trị đạo đức truyền thống này vừa mang tính ổn định và lưu
truyền, vừa không ngừng phát triển và biến đổi, luôn luôn có sự kế thừa, loại
bỏ và bổ sung. Trong từng thời điểm nhất định, các truyền thống đạo đức đó

vừa có những mặt tích cực, ưu việt phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, vừa cũng có mặt đã trở thành lỗi thời, tiêu cực cần xoá bỏ hay biến đổi.
Nhưng chính những giá trị đạo đức ấy trong con người Việt Nam là kết tinh
và tiêu biểu cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc và những phẩm chất đó, là cơ sở
vững chắc trong quá trình giữ nước, đảm bảo cho xã hội ta ngày càng tiến bộ
theo xu thế phát triển chung của nhân loại.
Tất cả những yếu tố văn hoá đó đã có sức sống mạnh mẽ ở Việt Nam.
Nhưng điều đặc biệt là chúng đã được dân tộc hoá, kết hợp hài hoà và biện
chứng với văn hoá bản địa, tạo nên một văn hoá mới, một giá trị truyền thống
mới của Việt Nam. Sự hội nhập, tiếp thu, chuyển hoá cùng nhiều loại giá trị
truyền thống của các dân tộc khác chính là con đường làm phong phú đạo đức
truyền thống dân tộc, làm tăng thêm tiềm năng và sức mạnh của dân tộc, của
đất nước. Phát triển và kết hợp một cách biện chứng các yếu tố truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế, lấy truyền thống làm nền tảng cho hiện đại,
lấy hiện đại để nâng cao truyền thống, tiếp thu chất trí tuệ của văn minh thời
đại làm hiện đại hoá truyền thống.
Hồ Chí Minh đã có câu nói “Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là

22


lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, lại có tinh thần yêu nước nồng nàng.
Chúng ta cần phát huy truyền thống và tinh thần ấy” [21, tr.349]. Giáo sư
Trần Văn Giàu nhấn mạnh bảy nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa” [20 tr.108]. Theo giáo sư Vũ Khiêu, giá trị đạo đức của dân tộc Việt
Nam bao gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và
sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người” [30 tr
533].
Trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức truyền

thống thường được đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật. Chẳng
hạn, Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng đã khẳng định: Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của dân
tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý
thương người như thể thương thân, đức tính cần cù.
Như vậy, từ quan điểm của các nhà nghiên cứu cũng như của Đảng ta,
có thể khẳng định, dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức mang tính
truyền thống vô cùng phong phú, trong đó, các giá trị điển hình là: tinh thần
yêu nước, lòng thương người sâu sắc, tính khoan dung, tinh thần đoàn kết,
tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm.
Những giá trị đạo đức truyền thống là hành trang không thể thiếu của
tất cả mọi người, mọi thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ để tiến vào
tương lai, để thể hiện bản lĩnh con người Việt Nam trong xu hướng toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế, để xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, tức là
mỗi thanh niên phải có: “Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; có ý thức tập

23


thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn
minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy
ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái; lao động chăm chỉ
với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích bản
thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết,
trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”. [11, tr.58 - 59]
Đây là một trong những giá trị cốt lỗi làm nên bản sắc dân tộc Việt
Nam, làm nên những con người Việt Nam chân chính luôn hoàn thiện bản

thân cả về thể lực và trí lực, không đánh mất, hoà tan mình khi hoà nhập với
thế giới.
1.2. Những quan điểm chung về các giá trị đạo đức truyền thống.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống
C. Mác đã khẳng định rằng, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của
cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con
người, là mặt cơ bản của lối sống. Lối sống chính là phương thức, là dạng
hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. C.
Mác đã viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định
ý thức của họ” [4, tr.15]. Đây chính là chìa khoá để nhận thức bản chất của
mọi hiện tượng xã hội, trong đó có đạo đức.
Đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy
định bởi tồn tại xã hội. Nó là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát
triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ph. Ăngghen đã
khẳng định rằng: “Về thực chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn
mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua chỉ là sản phẩm của các chế độ kinh

24


tế, các thời đại kinh tế và cùng với tính quy định của yếu tố thời đại, đạo đức
còn bị chi phối bởi những yếu tố mang tính dân tộc” [3 tr 117]. Tức là trong
mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hoá riêng được tạo bởi nét đặc trưng của
lịch sử hình thành đất nước và bởi tính độc đáo của các quan niệm, các chuẩn
mực, các ứng xử đạo đức.
Tuy nhiên, Chủ nghĩa Mác không đánh giá đạo đức theo những phong
tục tập quán khác nhau của các dân tộc, mà đánh giá đạo đức con người ở chỗ

những hành vi nào đó có phù hợp hay không phù hợp với sự tiến bộ của lịch
sử và hạnh phúc của nhân dân. Vì thế, có rất nhiều thứ đạo đức khác nhau
giữa các thời đại, các giai cấp, các dân tộc. Muốn hiểu đúng đắn một giá trị
đạo đức nào đó, chúng ta phải luôn luôn gắn bó với cơ sở ra đời của nó, và
phải đứng trên phương diện của dân tộc đó mà đánh giá… Nếu không nhận
thức được sự biện chứng ấy của giá trị đạo đức nói chung và giá trị đạo đức
truyền thống nói riêng mà khư khư giữ những giá trị lỗi thời, thì nhất định sẽ
lạc lõng trong xã hội mới. Vì vậy Lênin đã xác định giá trị của đạo đức ở chỗ
nó phục vụ cho tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc của con người. Đạo đức giúp cho
xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.
Như vậy, khi bàn về đạo đức nói chung, đạo đức truyền thống nói riêng
Mác, Ăngghen, Lênin đã luôn luôn sử dụng những khái niệm củ, như thiện,
ác, vinh dự, lương tâm, chủ nghĩa vị tha và chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa khổ
hạnh và chủ nghĩa hưởng lạc… nhưng đi sâu vào những khái niệm này, chúng
ta thấy Mác, Ăngghen, Lênin trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá lại toàn bộ những tư tưởng đạo đức từ xưa
đến nay, đặt nền móng cho một đạo đức khoa học nhất và nêu lên những nét
cơ bản của đạo đức Cộng sản chủ nghĩa. Lênin đã khẳng định rằng “Sự phát
triển hợp quy luật” của đạo đức cộng sản là ở chỗ, nó là quá trình kế thừa và
phát triển, vừa kế thừa vừa phát triển toàn bộ các giá trị đạo đức của nhân

25


×