Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đổi mới phương pháp dạy học phần pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng y tế hà tĩnh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.25 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN HỢI

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỌC PHẦN "PHÁP LUẬT"
NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN HỢI

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỌC PHẦN "PHÁP LUẬT"
NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ TĨNH

CHUN NGÀNH: LL&PP DH BỘ MƠN CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN MINH DUỆ


3



Nghệ An, 2011

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài “Đổi mới pháp dạy học học phần pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh”, tơi
đã nhận được sự góp ý, hướng dẫn tận tình của các thầy cơ trong khoa Giáo
dục Chính trị, khoa Đào tạo Sau đại học – Trường Đại học Vinh, Ban giám
hiệu cùng các thầy cô trong tổ bộ môn Khoa học cơ bản, Trường Cao đẳng Y
tế Hà Tĩnh. Đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo, PGS. TS. Đoàn Minh Duệ, người
trực tiếp hướng dẫn khoa học giúp tôi thực hiện thành công đề tài này. Tôi
mong muốn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ và dìu dắt của q thầy cơ trong
tương lai.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 12 năm 2011
Tác giả

Nguyễn Văn Hợi


1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-----------BGD ĐT


: Bộ Giáo dục - Đào tạo

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CT

: Chỉ thị

ĐTN

: Đoàn thanh niên

ĐD

: Điều dưỡng

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

GS

: Giáo sư

GDCD

: Giáo dục công dân


HLHTN

: Hội Liên hiệp thanh niên

NQ

: Nghị quyết

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

PPDH

: Phương pháp dạy học

SL

: Số lượng

THPT

: Trung học phổ thông

TS


: Tiến sỹ

TW

: Trung ương

UBND

: Uỷ ban nhân dân


3

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, “phát triển nâng cao nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”[12; 41]. Để đáp ứng được
yêu cầu này trước tiên phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hố; đổi mới chương trình, nội dung
phương pháp dạy học; đổi mới thể chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành… trên cơ sở đó tạo ra một
khn khổ pháp lý phù hợp, thấy rõ được vai trò to lớn của nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực trẻ tuổi, vì đây là một trong những nhân tố bảo
đảm cho công cuộc đổi mới thắng lợi, là tiền đề không thể thiếu để đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm, trộm cắp, ma tuý,
bạo lực học đường... trong độ tuổi đến trường có chiều hướng gia tăng, một
bộ phận khơng nhỏ thanh, thiếu niên có lối sống thực dụng, ý thức chấp

hành pháp luật kém, dễ bị lôi kéo vào các hoạt động sai trái. Nhiều thanh
niên vừa là tội phạm, vừa là nạn nhân, trong đó phải kể đến số học sinh,
sinh viên vi phạm pháp luật có chiều hướng và diễn biến phức tạp. Theo
phân tích của các nhà quản lý giáo dục: “trong những năm gần đây công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên có chuyển biến, nhưng
mới chủ yếu tổ chức theo các đợt cao điểm và chưa chú trọng đến các đối
tượng thanh niên, thiếu niên đặc thù. Các hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên cịn tản mạn, quy mơ nhỏ, chủ yếu lồng ghép
với các hoạt động xã hội hoặc lồng ghép với công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các đối tượng khác” [19; 32].


4

Vì vậy, để nâng cao ý thức pháp luật cho nhóm đối tượng này, bên
cạnh giáo dục các em theo chương trình khung của Bộ GD&ĐT ban hành ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp còn phải thơng qua
các tổ chức đồn thể như ĐTN, Hội LHTN… thu hút, lơi kéo các em bằng
những hình thức tun truyền thiết thực, phù hợp với đặc thù của địa
phương và các cấp học. Tổ chức các hoạt động ngoại khố; ký cam kết giữa
nhà trường và người học; thí điểm xây dựng câu lạc bộ pháp luật ở các
trường học; hỗ trợ đội thanh niên tình nguyện tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật; xây dựng tài liệu pháp luật phù hợp với lứa tuổi để các em có
điều kiện tìm hiểu.
Xuất phát từ thực tế đó, việc tăng cường công tác phổ biến giáo dục
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên Việt Nam nói chung,
học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh nói riêng là một vấn đề
cấp thiết, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và sức lan toả mới về ý thức chấp
hành pháp luật, để giảm thiểu hành vi vi phạm trong trường học cũng như
ngoài xã hội.

Từ những yêu cầu trên đã thúc đẩy tôi chọn đề tài "Đổi mới
phương pháp dạy học học phần "pháp luật" nhằm nâng cao ý thức pháp
luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh" làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, trong những năm gần đây dưới các
góc độ khác nhau, nhiều tác giả đã cho ra mắt các cơng trình nghiên cứu
của mình, dưới các hình thức như đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ, sách, các bài trên báo, tạp chí... Điển hình là các cơng trình sau:
- Bùi Văn Hưng (2010), Nâng cao chất lượng tuyên truyền giáo dục
ý thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các


5

doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, luận văn thạc sĩ
khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh.
- Bùi Thị Kim Ngân (2009), Nâng cao hiệu quả việc phổ biến chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tại trung
tâm học tập cộng đồng các phường xã trên địa bàn thành phố Vinh - Nghệ
An, luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học Vinh.
- Đào Duy Tấn (2000), Những đặc điểm của quá trình hình thành ý
thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,.
- Hồ Việt Hiệp (2000), Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật
của nhân dân đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học.
- Nguyên Nhung, Nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên, thiếu
niên, Tạp chí Người đại biểu nhân dân, 6/2010.
- Lơgíc khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức
pháp luật ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ Triết học, tác giả Nguyễn Thị Th

Vân, năm 2001.
Nhìn chung, mỗi cơng trình đều đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc
một vấn đề cụ thể nào đó của pháp luật như: khái niệm, cấu trúc, chức
năng..., hoặc những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật
Việt Nam, những giải pháp nâng cao ý thức pháp luật.
“Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã
được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, coi đó là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp
luật. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý
thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân”
[1; 2]. Vì vậy, trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,


6

VII, VIII, IX, X và lần thứ XI luôn nhấn mạnh phải tăng cường pháp chế
XHCN, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, thực hiện mục tiêu sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Cho đến nay một số cơng trình
nghiên cứu đã cung cấp nhiều tư liệu về ý thức pháp luật, song vẫn còn
nhiều vấn đề về phương pháp tuyên truyền giáo dục, phổ biến pháp luật đặc
biệt là phương pháp dạy học pháp luật của trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp cần được nghiên cứu và làm rõ.
Từ những thành tựu đã đạt được trong các cơng trình khoa học nêu
trên, tôi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu, làm phong phú thêm về phương
pháp dạy học nói chung, tuyên truyền ý thức pháp luật cho học sinh, sinh
viên nói riêng, đặc biệt vận dụng vào đổi mới phương pháp dạy học học
phần "Pháp luật" nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà
trường.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ khoa học
3.1. Mục tiêu
Chỉ ra cơ sở khoa học của việc đổi mới phương pháp dạy học học
phần "Pháp luật", nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương pháp
dạy học
- Vận dụng phương pháp này vào giảng dạy tại Trường Cao đẳng Y
tế Hà Tĩnh
- Tìm ra giải pháp để nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh.


7

4. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Để thực hiện đề tài này, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài còn tập trung sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp phỏng vấn
5. Giả thuyết khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học môn pháp luật nói chung và nâng cao y thức pháp luật nói
riêng cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Hà Tĩnh.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung được kết
cấu thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương pháp
dạy học học phần pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Hà Tĩnh
Chương 2: Thực nghiệm đổi mới phương pháp dạy học học phần
pháp luật nhằm giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng
Y tế Hà Tĩnh
Chương 3: Quy trình đổi mới phương pháp dạy học học phần pháp
luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế
Hà Tĩnh


8

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỌC PHẦN PHÁP LUẬT NHẰM
NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ TĨNH
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên
1.1.1. Pháp luật và hệ thống pháp luật
1.1.1.1. Pháp Luật
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu
pháp luật tương ứng. Lịch sử xã hội lồi người đã có các kiểu pháp luật chủ
nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật hồn tồn khơng phải là sản phẩm thuần tuý của lý tính hay bản
tính tự nhiên phi giai cấp của con người. Trong các tác phẩm của mình, khi
bàn về nhà nước, Mác – Ăngghen phân tích: pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại
và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật

thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính
xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu
cầu chung của xã hội về văn hố, phúc lợi, mơi trường sống…
Theo V.I. Lênin, “mỗi đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính
trị” [17; 307]. Trong lịch sử, bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào
pháp luật để thể hiện và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình.
Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của
Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó.
Do đó, Nhà nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật


9

là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ
thống và tương đối ổn định.
Pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể các quy tắc
xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện
ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
Pháp luật thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ
quan thực thi, bao gồm Cơng an, Tồ án, Viện kiểm sát, Thi hành án, Quân
đội... Vậy pháp luật là gì? “Pháp luật là hệ thống quy tắc, hành vi của công
dân do nhà nước quy định, ban hành để điều chỉnh hành vi xã hội, buộc
phải tuân theo, không được trái phạm”[33; 849].
1.1.1.2. Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật nói chung được hiểu là một chỉnh thể bao gồm
những ý tưởng, vấn đề hoặc bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, được
sắp xếp theo một trình tự khách quan, logíc và khoa học. Khi nói đến một
hệ thống là phải đề cập đến cả bề rộng và chiều sâu của toàn bộ các vấn đề,

các bộ phận hợp thành cũng như mối quan hệ giữa chúng trong một chỉnh
thể. Nói cụ thể hơn, khi xem xét một hệ thống là phải xét đến nội dung bên
trong, đến cấu trúc của hệ thống đó, đồng thời cũng phải xét đến hình thức
biểu hiện bên ngồi của nó, coi đó là hai mặt của một vấn đề thống nhất, dù
có những khác biệt nhất định nhưng không thể tách rời nhau.
Về khái niệm hệ thống pháp luật trong khoa học pháp lý hiện cịn có
những quan điểm rất khác nhau.
Quan điểm truyền thống của nhiều nhà luật học cho rằng, hệ thống
pháp luật được hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật, hệ thống pháp luật
được hình thành phát triển phù hợp với cơ cấu quan hệ xã hội. Là tổng thể
các quy phạm pháp luật có tính thống nhất nội tại bền vững, đồng thời có


10

tính độc lập nhất định, được phân chia thành các chế định pháp luật và các
ngành luật.
Cần phân biệt rõ hai khái niệm hệ thống pháp luật với hệ thống văn
bản pháp luật, hay còn gọi là pháp luật thực định.
Hệ thống pháp luật thực định là hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật của một quốc gia được sắp xếp theo một trật tự theo một thang bậc
khác nhau. Việc xác định nội dung như vậy đã hoàn tồn loại trừ các yếu tố
như các ngun tắc chính trị, triết học, kỹ thuật pháp lý… ra ngoài phạm vi
của khái niệm.
Một số quan điểm khác lại cho rằng, chỉ có một hệ thống khái niệm
pháp luật, khơng thể phân biệt rõ nét được hai khái niệm hệ thống pháp luật
và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật
có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và
những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trong thực tế mà dựa trên cơ sở
đó tính hiện thực của pháp luật được bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu

lực. Các nguồn đó là các trào lưu, khuynh hướng pháp lý, kỹ thuật pháp lý,
các nguyên tắc chính trị, triết học cũng như các phương pháp hoạt động của
nhà luật học - thực nghiệm…
Như vậy, cả hai quan điểm trên đều có những điểm chưa hợp lý, bởi
vì: quan điểm thứ nhất có hai điểm hạn chế là không xác định được các
thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định,
đồng thời chưa giải thích được mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình
thức của hệ thống pháp luật; còn quan điểm thứ hai lại dung hợp vào hệ
thống pháp luật cả những yếu tố bên ngồi mang tính kỹ thuật rời rạc.
Trên cơ sở đó, cần dựa trên lý thuyết hệ thống để xem xét khái niệm
hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật cần được hiểu là một chỉnh thể bao
gồm cả cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngồi của pháp luật.
Theo cách hiểu này, hệ thống pháp luật được định nghĩa “là tổng thể các


11

quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân
định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong
các văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức
nhất định” [15; 401].
Theo định nghĩa này, hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao
gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất, là hệ thống cấu trúc bên trong
của pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
1.1.2. Ý thức pháp luật và chức năng của nó đối với sự phát triển xã
hội
1.1.2.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, được phát sinh và
hình thành với ý thức chính trị của các giai cấp trong xã hội. Cũng như bất
cứ một hình thái ý thức xã hội nào khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội

quyết định. Việc bồi dưỡng, giáo dục ý thức pháp luật cần được tiến hành
trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ này.
Theo quan điểm của C. Mác “ý thức Pháp luật là một trong những
hình thái ý thức xã hội cụ thể tồn tại trong xã hội có giai cấp và phản ánh
đời sống pháp luật xã hội” [6; 15]. Trong các tác phẩm của mình, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không những chỉ ra cho giai cấp vô
sản những yêu cầu pháp lý, để đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội mới,
mà còn xây dựng những khái niệm quan trọng nhất về pháp luật, tạo cơ sở
cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong các giáo trình tài liệu lý luận về pháp luật ở nước ta hiện nay,
nhìn chung đều quan niệm “ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết,
tư tưởng, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội, thể hiện mối quan
hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật
cần phải có; thể hiện sư đánh giá về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp


12

trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác trong xã hội” [16; 40].
1.1.2.2. Phân loại ý thức pháp luật
Trong xã hội, tồn tại nhiều học thuyết, tư tưởng và quan điểm khác
nhau về pháp luật. Sở dĩ như vậy vì điều kiện sinh hoạt vật chất và đời sống
tinh thần của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội khơng hồn tồn giống
nhau, dẫn đến nhận thức pháp luật có sự khác biệt nhất định. Các quan
điểm, tư tưởng, quan niệm tồn tại trong xã hội ln có sự tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì khơng thể có ý thức pháp luật
thống nhất. Ý thức pháp luật của các giai cấp đối kháng luôn mâu thuẫn với
nhau, trong đó chỉ có ý thức pháp luật thống trị được thể hiện đầy đủ trong

pháp luật; ý thức pháp luật thống trị trong xã hội là ý thức pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền.
Ý thức pháp luật mang tính chính trị sâu sắc. Nội dung của ý thức
pháp luật luôn phản ánh những nhu cầu về chính trị, thể hiện mối quan hệ
của các giai cấp đối với các quy định của pháp luật do nhà nước ban hành
có liên quan trực tiếp đến đời sống chính trị xã hội. Chẳng hạn như những
quy định về hình thức nhà nước, chế độ bầu cử và quyền bầu cử, nguyên
tắc làm việc của bộ máy nhà nước… Ý thức pháp luật cũng thể hiện những
nhu cầu về kinh tế, đạo đức, văn hố của xã hội. Ví dụ: Những quan điểm,
tư tưởng quan niệm về những phương pháp và điều kiện để thoả mãn các
nhu cầu sinh hoạt vật chất của công dân, quan hệ hôn nhân và gia đình, về
hình thức và phương pháp giáo dục thanh niên, thiếu niên… tuy nhiên
những quan điểm tư tưởng này trở thành ý thức pháp luật khi chúng đặt
trong mối quan hệ nhà nước và pháp luật.


13

Căn cứ vào tính chất, nội dung của ý thức pháp luật chúng ta có thể
chia ý thức pháp luật thành hai bộ phận: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý
pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm và học
thuyết về pháp luật. Những vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng pháp
luật, áp dụng pháp luật, về giá trị xã hội và chức năng của pháp luật, mối
liên hệ mật thiết giữa quyền và nghĩa vụ, pháp chế trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước… đều thuộc về hệ tư tưởng pháp luật.
Khác với hệ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật được hình thành
một cách tự phát dưới dạng tâm trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm đối với
pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác.
Những tâm trạng, xúc cảm, thái độ, tình cảm đối với pháp luật phần

lớn được hình thành trong giao tiếp giữa con người với con người. Sự tồn
tại của tâm lý pháp luật gắn liền với những đặc điểm vốn có của tâm lý con
người, là biểu hiện sự phản ứng của con người trước các hiện tượng pháp
lý.
Như vậy, so với tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền
vững hơn, bảo thủ hơn. Tâm lý pháp luật gắn bó chặt chẽ với những truyền
thống, tập qn, thói quen của con người. Nó được hình thành chậm chạp
và ít biến đổi. Giữa tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật tồn tại mối quan
hệ biện chứng. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân phụ thuộc
vào đặc điểm và trình độ tư tưởng pháp luật của cá nhân đó. Ngược lại sự
phát triển của tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh của tâm lý pháp luật. Tâm
lý pháp luật của cá nhân là tiền đề của những tư tưởng pháp luật mà cá
nhân đó có thể đạt tới.
Dựa vào mức độ và phạm vi nhận thức pháp luật chúng ta có thể chia
ý thức pháp luật thành hai nội dung đó là; ý thức pháp luật thông thường và
ý thức pháp luật lý luận.


14

Ý thức pháp luật thông thường là những tri thức, những quan niệm
của con người về pháp luật được hình thành một cách trực tiếp trong hành
động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. Ý thức
pháp luật thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt của đời
sống pháp luật và thường xuyên chi phối cuộc sống của con người. Đó là
tiêu đề quan trọng cho sự hình thành các lý luận, lý thuyết về pháp luật
cũng như các hành vi của con người theo pháp luật.
Ý thức pháp luật có tính lý luận là những tư tưởng, quan điểm được
hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết pháp lý. Ý thức pháp luật
lý luận phản ánh mối quan hệ bên trong, bản chất của pháp luật. Đây là

những tiền đề quan trọng trong việc xây dựng pháp luật cũng như thực hiện
pháp luật của các cơ quan chuyên môn về luật.
Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật chúng ta có thể chia ý thức
pháp luật thành ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật nhóm và ý thức
pháp luật cá nhân.
Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiên tiến đại diện cho
xã hội, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ
bản nhất của pháp luật vì nó tiến bộ và có cơ sở khoa học nên ý thức pháp
luật xã hội được chính thức hố trong xã hội.
Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tình
cảm của một nhóm xã hội nhất định về pháp luật. Ý thức pháp luật nhóm
có phạm vi tác động hẹp hơn so với ý thức pháp luật xã hội.
Ý thức pháp luật cá nhân phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm
lý, tình cảm, thái độ của mỗi người đối với pháp luật. Trình độ ý thức pháp
luật thường thập hơn trình độ ý thức xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải
không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật để đưa ý thức pháp luật
cá nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội.


15

1.1.2.3. Chức năng cơ bản của ý thức pháp luật đối với sự phát triển
đời sống xã hội
Ý thức xuất hiện trong quá trình và do các hoạt động và được biểu
hiện trong hoạt động đó. Do vậy có thể nhận thức các chức năng của ý thức
pháp luật theo kết quả hoạt động của các chủ thể của nó.
Ý thức pháp luật có ba chức năng cơ bản: chức năng nhận thức, chức
năng đánh giá và chức năng điều chỉnh.
Để hình thành các quan niệm, quan điểm, lịng tin về các quy phạm
pháp luật hiện hành cần phải tiến hành phân tích hiện thực khách quan và

nhận thức hiện thực đó. Ý thức pháp luật thực hiện chức năng nhận thức,
tức là nhận thức các quá trình kinh tế, xã hội, các giá trị đạo đức, văn hoá
truyền thống đã được thể chế hoá, hoặc sẽ được thể chế hoá. Chức năng
nhận thức thể hiện ở tổng thể nhất định các hiểu biết pháp lý (các tư tưởng,
phạm trù, quan điểm, quan niệm…). Tổng thể các hiểu biết đó là kết quả
của hoạt động trí tuệ và được thể hiện trong khái niệm “vốn hiểu biết pháp
luật”. Sự hiểu biết bao giờ cũng làm cho con người có thái độ nhất định,
tức là được đánh giá.
Chức năng đánh giá gây ra thái độ cảm xúc nhất định của cá nhân đối
với các mặt và hiện tượng khác nhau của đời sống pháp luật trên cơ sở kinh
nghiệm và thực tiễn pháp lý. Thái độ xúc cảm được thể hiện ở việc xác
định tầm quan trọng của các kiến thức đã thu nhận được ở trong tính huống
cụ thể hoặc trong tương lai từ quan điểm của cá nhân, của nhóm, của xã
hội. Cái được coi là cái giá trị, cái trở thành khách thể của sự mong muốn
và của các mục đích hoạt động, cái được lựa chọn và đề cao trong nhiều
hiện tượng khác.
Trong nội dung của ý thức pháp luật có bốn loại thái độ đánh giá:
thái độ đối với pháp luật (các nguyên tắc, quy phạm, chế định của nó); thái
độ đối với hành vi pháp luật của những người xung quanh và đối với các


16

khách thể hoạt động (tình hình tội phạm, các tội phạm, những người phạm
tội hoặc những người vi phạm pháp luật); thái độ đối với các cơ quan bảo
vệ pháp luật (toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, tổ chức luật sư và các
hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó); thái độ đối với hành vi pháp luật
của mình.
Do được thực hiện trong thực thể thái độ đánh giá với sự tham gia
của ý chí đóng vai trò động lực năng lượng, cho nên xuất hiện một cấu

thành mới là cấu thành lý trí, tình cảm, ý chí, hoặc là phương hướng pháp
lý. Phương hướng pháp lý được hiểu là xu hướng hoặc tố chất của cá nhân
bằng cách tiếp nhận và đánh giá các thông tin, các quá trình, hiện tượng…
và chuẩn bị hoạt động trong mối quan hệ của chúng phù hợp với sự đánh
giá đó. Trong tổng thể các hướng được tổ chức thành hệ thống các định
hướng đánh giá, được dựa trên hệ thống các quan điểm. Các phương hướng
thống trị xác định tính định hướng của cá nhân, lập trường cuộc sống của
cá nhân và đặc trưng cho mặt nội dung của các định hướng đánh giá.
Tương ứng, định hướng pháp luật là tổng thể tất cả các phương hướng pháp
luật của cá nhân hoặc của cộng đồng trực tiếp hình thành nên kế hoạch bên
trong, chương trình hoạt động trong các tình huống có ý nghĩa về mặt pháp
lý.
Chức năng điều chỉnh ý thức pháp luật được thực hiện bằng các
phương hướng pháp luật và các định hướng pháp luật – đánh giá tổng hợp
ở mình tất cả các nguồn khác của tính tích cực pháp luật. Kết quả của việc
thực hiện chức năng đó là sự phản ứng hành vi ở dạng hành vi hợp pháp
hoặc trái pháp luật. điều đó cho phép xác định ở dạng khái quát vai trò của
ý thức pháp luật với tư cách cơ chế bên trong, mang tính cá nhân của sự
điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trong các tình huống có ý
nghĩa về mặt pháp lý.


17

Bảng 1.1: Cấu trúc chức năng của ý thức pháp luật
Các chức năng

Các yếu tố

Các kết quả


Các chỉ số

cơ bản của ý

tâm lý

hoạt động

thực nghiệm

Chức năng

Yếu tố lý trí,

Vốn hiểu biết

Hiểu biết pháp

nhận thức

tư duy

pháp luật

lý và kỹ năng sử

thức pháp luật

dụng chúng

Chức năng

Yếu tố cảm xúc

Thái độ đánh giá

Các ý kiến

đánh giá

– lý trí

đối với pháp luật

đánh giá

Chức năng

Yếu tố lý trí -

Các định hướng

Lập trường,

điều chỉnh

cảm xúc – lý trí

và phương hướng


quyết định,

pháp luật

hành vi

Trong các sách báo pháp lý thường đưa ra ba quy tắc hoạt động của ý
thức pháp luật.
Quy tắc thứ nhất: Hãy tuân thủ một cách tự nguyện các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành và hãy đấu tranh một cách trung thực vì các văn
bản quy phạm pháp luật mới, tốt hơn”. Con người được kêu gọi tự giải
phóng bên trong ở các giới hạn của pháp luật, chứ không phải tự giới hạn
bên ngồi khỏi các giới hạn đó, điều đó thường có ở trong giai đoạn tiến
hành các cuộc cách mạng.
Quy tắc thứ hai: “Hãy giải phóng mình từ bên trong bằng cách tự
nguyện bắt buộc chính mình và tìm kiếm tự do chỉ thông qua pháp luật –
cái cần thiết về mặt hiện thực và có lợi đối với cá nhân và xã hội, đặc biệt
nếu như đó là đạo luật pháp lý, tức là đạo luật ghi nhận về mặt quy phạm sự
công bằng”.
Quy tắc thứ ba liên quan với tính chất sáng tạo của ý thức pháp luật
được biểu hiện cả khi các đạo luật pháp lý có chất lượng mới có hiệu quả


18

được xây dựng, lẫn khi các đạo luật đó được đối với các quan hệ sống của
con người trong sự phù hợp với ý nghĩa chân chính của chúng và với lương
tâm pháp lý.
Trong cơ sở của mọi hoạt động của con người đều có một tổng số tối
thiểu sự hiểu biết về mặt khách thể và các điều kiện khách quan của hoạt

động đó. Điều đó cũng được thể hiện trong hoạt động của con người ở lĩnh
vực pháp luật. Tuy nhiên, vốn hiểu biết pháp luật của con người khơng kết
thúc bằng những hiểu biết pháp lý hình thức của họ. Có thể có các hiểu biết
nhưng có thể khơng có khả năng, kỹ năng sử dụng chúng. Do vậy cần phải
cân nhắc mức độ chiếm lĩnh thực tế các hiểu biết đó, kỹ năng áp dụng pháp
luật, hoạt động phù hợp với các quy định của pháp luật.
Các nghiên cứu thực nghiệm về ý thức pháp luật của các nhóm và
tầng lớp dân cư khác nhau đã chỉ ra rằng, các thái độ đánh giá đối với pháp
luật nói chung, đối với các quy phạm và chế định cụ thể của nó, đối với
thực tiễn áp dụng, tuân thủ và vi phạm chúng, đối với hành vi pháp luật của
mình là cấu thành trung tâm của ý thức pháp luật, là cấu thành nhạy cảm
nhất đối với mọi sự chuyển động đóng vai trị quyết định trong việc lựa
chọn phương án, hành vi phù hợp với quy định pháp luật hoặc vi phạm
pháp chế.
1.1.2.4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với pháp luật
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng pháp lý khác nhau
thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý của xã hội, nhưng có quan hệ biện
chứng với nhau. Quan hệ biện chứng đó được thể hiện ở những điểm sau:
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật.
Pháp luật là sự biểu hiện của ý thức pháp luật, bất cứ một hệ thống
pháp luật nào cũng được xây dựng thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp


19

thống trị đã được ý thức đầy đủ. Những thay đổi khách quan trong đời sống
xã hội trước hết được phản ánh trong ý thức pháp luật, rồi sau đó mới thể
hiện thành các quy phạm pháp luật tương ứng. Do đó ý thức pháp luật là
điều kiện quan trọng để hình thành, phát triển và hồn thiện hệ thống pháp

luật.
Ý thức pháp luật cũng như toàn bộ hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp
với những điều kiện của xã hội, củng cố nền pháp chế, phát huy hiệu lực
của nhà nước và pháp luật trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Khơng có ý thức pháp luật phù hợp với bản chất và những điều kiện cụ
thể trong từng giai đoạn phát triển của xã hội thì cũng không thể xây dựng
được hệ thống pháp luật đồng bộ và phù hợp.
Ý thức pháp luật là nhân tố thúc đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật
trong đời sống xã hội.
Pháp luật được ban hành nhằm để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
triển theo những định hướng nhất định. Nhưng mục đích điều chỉnh của
pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể của con người và
các tổ chức xã hội, trong đó việc xử sự tự giác của công dân theo yêu cầu
của pháp luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp
luật phát huy được hiệu lực.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ của
họ đối với các quy định của pháp luật. Cho nên ý thức pháp luật càng được
nâng cao thì tinh thần tơn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu
cầu của pháp luật càng được bảo đảm.
Ý thức pháp luật là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy
phạm pháp luật.


20

Ý thức pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng
pháp luật. Để áp dụng đúng đắn một quy phạm địi hỏi phải có sự hiểu biết
chính xác nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải giải thích và làm
sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm ấy. Muốn thực hiện được điều

đó địi hỏi phải nắm vững những tình tiết thực tế của từng trường hợp, thấu
hiểu thực chất của từng tình huống sinh động ấy và khi cần phải áp dụng
một quy phạm pháp luật thì phải đánh giá đúng đắn sự diễn biến của hành
vi được đề cập tới. Tất cả những điều kiện đó chỉ có thể thực hiện được
trong điều kiện ý thức pháp luật của những người áp dụng pháp luật đã phát
triển đầy đủ.
Việc rèn luyện ý thức pháp luật đối với những cán bộ làm công tác
xét xử càn cần thiết và rất quan trọng bởi vì những quyết định của cơ quan
xét xử là quyết định cuối cùng. Vì vậy, thẩm phán là người có khả năng
đánh giá chính xác tất cả những tình tiết của vụ án và giải quyết vụ án trên
cơ sở của pháp luật. Việc hình thành lập trường của thẩm phán tuỳ thuộc
trực tiếp và trước hết vào ý thức pháp luật và sự hiểu biết của họ về pháp
luật.
Ý thức pháp luật không mâu thuẫn với pháp luật và luôn là điều kiện
cần thiết để áp dụng đúng đắn pháp luật. Bất luận trong trường hợp nào
người áp dụng pháp luật khơng được tuỳ tiện giải thích pháp luật, khơng
thể cho nó nhiều ý nghĩa hơn cái ý nghĩa mà nó có. Ý thức pháp luật tạo ra
khả năng áp dụng pháp luật đối với mỗi trường hợp cụ thể nhất định một
cách khách quan và đúng đắn có sự kết hợp với những đặc điểm riêng biệt
của mỗi trường hợp, song không bao giờ được coi là duyên cớ để lảng
tránh pháp luật, làm sai pháp luật.
Vai trò của ý thức pháp luật còn được thể hiện rõ trong trường hợp
khi những quy phạm pháp luật hiện hành đã lạc hậu, không đáp ứng một
cách đầy đủ những đòi hỏi trong giai đoạn hiện tại. Tuy nhiên, ý thức pháp


21

luật không cho phép vi phạm pháp luật, trái lại ý thức pháp luật tạo ra khả
năng giải quyết đúng đắn vụ việc bằng cách áp dụng, kết hợp những quy

phạm pháp luật khác nằm trong nền tảng của lĩnh vực pháp luật hiện hành.
Ý thức pháp luật cũng tạo khả năng giải quyết đúng đắn những trường hợp
mà lý do nào đó pháp luật hiện hành khơng trực tiếp đề cập đến.
Pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển nâng cao ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật và pháp luật đều dựa trên những nguyên tắc đạo
đức. Trong mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau, ý thức pháp luật thúc
đẩy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của pháp luật, củng cố pháp
chế; mặt khác pháp luật là cơ sở để nhận thức, phổ biến, giáo dục nâng cao
ý thức pháp luật của nhân dân, tình cảm và thái độ tơn trọng của họ đối với
các quy phạm pháp luật. Việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, kiên quyết
ngăn chặn vi phạm pháp chế trong một mức độ nhất định, làm cho các quan
điểm, quan niệm về pháp luật được hình thành và phát triển một cách đúng
đắn và rõ nét hơn. Việc giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật
sẽ là điều kiện quan trọng để góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.
1.2. Khái niệm phương pháp và phương pháp dạy học
1.2.1. Khái niệm phương pháp
Phương pháp là một lĩnh vực hết sức quan trọng, có tính chất quyết
định đối với mỗi hoạt động của con người (hoạt động nhận thức, hoạt động
thực tiễn). Đúng như A.N Krưlơp đã nói: “Đối với con tàu khoa học,
phương pháp vừa là la bàn, lại vừa là bánh lái, nó chỉ phương hướng và
cách thức hoạt động” [8; 74].
Phương pháp khơng phải là cái có sẵn, bất biến mà phụ thuộc vào
đối tượng và nhiệm vụ đặt ra, phương pháp là lĩnh vực gắn với hoạt động
có ý thức của con người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực


22

tiễn của con người. Phương pháp chỉ có hiệu quả khi đảm bảo được mối

liên hệ có tính quy luật “Mục đích – Đối tượng – Phương pháp” trong mọi
hoạt động.
Trong từ điển Triết học: “Phương pháp theo nghĩa chung nhất là
cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất
định” [28; 458].
Theo Từ điển Bách khoa Hà Nội: “Phương pháp là hệ thống các
nguyên tắc vận dụng những nguyên lý, lý luận phản ánh hiện thực khách
quan, nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của
con người” [29; 515].
Từ điển Tiếng Việt: “phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu
quả cao” [33; 880].
Như vậy, phương pháp là con đường nghiên cứu, con đường nhận
thức lý luận, học thuyết, là hình thức tìm hiểu bản chất về lý thuyết (lý
luận) và hiện thực khách quan (thực tiễn), xuất phát từ những quy luật vận
động của khách thể được nghiên cứu. Phương pháp tuân theo hệ thống các
nguyên tắc điều khiển hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo hiện thực
tiễn của con người.
Trong những lĩnh vực, ngành khác nhau thì có những phương pháp
hoặc hệ thống những phương pháp khác nhau, khơng có một phương pháp
nào chung cho tất cả, các lĩnh vực, các ngành.
1.2.2. Phương pháp dạy học
Hoạt động dạy – học là hoạt động cực kỳ phức tạp, nó địi hỏi sự
phối hợp, tương tác nhuần nhuyễn, nhịp nhàng giữa hoạt động dạy của
người dạy và hoạt động học của người học, do đó phương pháp dạy học
cũng rất phức tạp, phong phú và đa dạng. Khơng có một phương pháp dạy
học chung nào cho mọi người, mọi đối tượng, mọi điều kiện mà chỉ có


×