Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Vận dụng tư tưởng dân vận hồ chí minh vào công tác vận động nông dân huyện hưng nguyên, tỉnh nghệ an trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.41 KB, 114 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN HỮU HÙNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN HUYỆN HƯNG NGUYÊN, TỈNH NGHỆ AN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN HỮU HÙNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN HUYỆN HƯNG NGUYÊN, TỈNH NGHỆ AN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số : 60.31.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Nghệ An, 2015
LỜI CẢM ƠN


3

Qua thời gian học tập, nghiên cứu, được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình
của các thầy cô giáo và các nhà quản lý giáo dục; sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, sự động viên của gia đình bạn bè và đồng nghiệp; với tình cảm chân
thành, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới:
Hội đồng Khoa học chuyên ngành Chính trị học, Phòng đào tạo Sau
Đại học - Trường Đại Học Vinh và các thầy cô giáo đã giảng dạy, động viên,
giúp đỡ tôi trong trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện, Hội Nông dân huyện Hưng Nguyên và
các đơn vị có liên quan trong quá trình nghiên cứu đã tạo điều kiện thuận lợi
về thời gian và cung cấp tài liệu, số liệu cho luận văn.
Khoa Chính trị học - Trường Đại Học Vinh; bạn bè và đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ, khích lệ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả biết ơn sâu sắc PGS. TS Nguyễn Lương Bằng- Người
thầy đã trực tiếp hướng dẫn khoa học cho tác giả trong suốt quá trình nghiên
cứu để hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn, mặc dù bản thân đã có
nhiều cố gắng nhưng sẽ không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận đựơc sự
chỉ dẫn và góp ý của quí thầy cô giáo và bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn !
Thành phố Vinh, tháng năm 2015

Tác giả

Phan Hữu Hùng

MỤC LỤC


4

A
B

Mở đầu
Nội dung

1-6

Chương 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN
HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN

1.1 Sự ra đời và nội dung tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh………..............................................................................................
1.2 Sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào công tác vận động nông dân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.............................................................

7
31


Chương 2 : THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ
CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN HUYỆN HƯNG
NGUYÊN, NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ
An ảnh hưởng đến công tác vận động nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.........................................
2.2 Vận dụng tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh vào công tác vận động nông dân
thời gian qua ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An......................................
2.3 Những vấn đề đặt ra trong quá trình vận dụng tư tưởng dân vận Hồ Chí
Minh vào công tác vận động nông dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
trong quá trình cong nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

39

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH
VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN HUYỆN HƯNG NGUYÊN,
TỈNH NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

3.1

Phương hướng vận dụng tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh vào nâng cao
hiệu quả công tác vận động nông dân ở huyện Hưng Nguyên trong quá
trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.......................
3.2 Những giải pháp chủ yếu vận dụng tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh nhăm
nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân ở huyện Hưng Nguyên

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
C KẾT LUẬN ..................................................................................................
D DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................
E DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG
TIN ĐẠI CHÚNG ........................................................................................
F PHỤ LỤC CÁC BẢNG BIỂU ....................................................................
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

67

73

99
102
106

106


5

BCH

:

Ban Chấp hành.

BCHTW


:

Ban Chấp hành Trung ương.

BTV

:

Ban Thường vụ.

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

GCCN

:

Giai cấp công nhân

GS

:

Giáo sư.

HĐND


:

Hội đồng nhân dân.

KHKT

:

Khoa học kỹ thuật.

KT-XH

:

Kinh tế - Xã hội

NTM

:

Nông thôn mới

NXB

:

Nhà xuất bản.

PGS


:

Phó giáo sư.

TD -TT

:

Thể dục - Thể thao.

TS

:

Tiến sĩ.

TT-VH

:

Thể thao -Văn hoá.

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

XHH


:

Xã hội hóa

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về


6

dân vận, một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ Di sản vô giá mà
Người để lại cho Đảng và nhân dân các dân tộc ở nước ta.
Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần
trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh
của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp đông
đảo nhân dân tich cực tham gia các phong trào do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo.
Nhận thức và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác
định rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách
mạng. Bước vào thời kỳ mới, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức
lớn; trong đó thách thức lớn nhất là âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
dân tộc, tôn giáo hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam. Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đổi mới, đẩy mạnh và
tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất
nước và thế giới nhằm phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê
hương đất nước.
Gần 30 năm đổi mới vừa qua (1986-2015), công tác dân vận do Đảng tổ

chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước,
góp phần không nhỏ làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, chống lại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù
địch, tạo thế và lực cho đất nước; đồng thời góp phần phát huy và mở rộng
quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin vững chắc của
nhân dân đối với Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác dân vận vẫn
còn bộc lộ một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện một
số chính sách còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Có
nơi cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, đảng viên vẫn chưa nhận thức đúng vị trí và
tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này,
không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Một số cán bộ,


7

đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân, thậm chí lợi dụng chức quyền, làm trái đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước để tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền
dân chủ của nhân dân còn xẩy ra ở một số địa phương, đơn vị. Tình trạng này
là nguyên nhân dẫn tới bức xúc trong quần chúng nhân dân, đơn thư tập thể,
vượt cấp, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một công việc
cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu này được nhiều cơ
quan, tổ chức nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều công
trình nghiên cứu được công bố, có thể chia thành nhóm các vấn đề sau:
Nhóm thứ nhất: Nhóm vấn đề lý luận chung về dân vận bao gồm các bài
viết: Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động
nông dân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đặng Nguyên
Anh (2003), "Lại bàn về dân vận", Tạp chí Dân vận, (1), tr.10. Hà Thị Khiết

(2012), “Tiếp tục đổi mới công tác Dân vận của Đảng, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới”, tạp chí Dân vận, (10), tr.6-9.
Huỳnh Đảm (2004), "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin - Mục tiêu đổi
mới công tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.6-9.
Trần Văn Đam (2005), Dân vận và dân chủ, in trong quyển "Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Trần Bạch Đằng (2002), "Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng", Tạp chí Dân vận, (10), tr.22-24. Trịnh Xuân Giới (2005), Cán bộ dân
vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Nguyễn Thạc Hân (2005), Mối quan hệ Đảng - dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, in trong quyển "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân
vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Hùng
(2005), Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi tỏa sáng, soi
đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới, in trong quyển "Vận


8

dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận trong thời kỳ mới", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Văn Khánh (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân
và công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (10), tr.16-18. Vũ Ngọc Khánh
(2002), "Đôi điều nhớ lại về công tác dân vận", Tạp chí Dân vận, (10), tr.2526. Vũ Ngọc Lân (2003), "Công tác dân vận có phải một nghề", Tạp chí Dân
vận, (1), tr.13-14.
Nhóm thứ hai: Vận dụng lý luận dân vận vào thực tiễn gồm: Bùi Đình
Phong (2003), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.12-15. Phạm Văn
Tản (2004), "Vai trò của đội ngũ cán bộ đối với công tác dân vận", Tạp chí
Dân vận, (7), tr.15-16. Văn Tạo (2000), "Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí

Minh", Tạp chí Dân vận, (5), tr.6-7. Nguyễn Đình Thuận (2002), "Vận dụng
tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc", Tạp chí Dân vận, (9), tr.8-10. Trịnh Trí Thức
(2002), "Hội quần chúng không chính thức với công tác dân vận ở nông thôn
nước ta", Tạp chí Dân vận, (9), tr.17-18.
Nhóm thứ ba: Các bài viết, văn bản liên quan đến vận động nông dân ở
huyện Hưng nguyên bao gồm Huyện ủy Hưng Nguyên, Nghệ an (2014), Báo
cáo tổng kết công tác dân vận năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
Huyện ủy Hưng Nguyên, Nghệ An (2010), Báo cáo tổng kết công tác dân vận
nhiệm kỳ 2005-2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2010-2015. Huyện ủy
Hưng Nguyên, Nghệ An (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số
59-CT/TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; Huyện ủy Hưng Nguyên, Nghệ An
(2014), Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện phong trào thi đua sản xuất kinh
doanh giỏi giai đoạn 2010 - 2014, phương hướng nhiệm vụ 2014 - 2019.
Chưa có công trình khoa học nào viết về vấn đề "Vận dụng tư tưởng dân vận
Hồ Chí Minh vào công tác vận động nông dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh


9

Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn".
Thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu cầu tập
hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do
vậy, công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc
biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá IX), có ba
Nghị quyết về công tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của

nhân dân và huy động tối đa nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Quyết
định số 290 QĐ/TW ngày 25 tháng 2 năm 2010 của Bộ Chính trị về “công
tác Dân vận của hệ thống Chinh trị”; đặc biệt là Nghị quyết số 25 NQ/TW
ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI)
về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới”. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và
tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân là một đòi hỏi bức
thiết hiện nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề "Vận dụng tư tưởng dân
vận Hồ Chí Minh vào công tác vận động nông dân huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác Dân vận, trên cơ sở đó
đánh giá thực trạng, nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác vận động nông dân ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận.


10

- Phân tích thực trạng công tác vận động nông dân ở huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của thực trạng
trên.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và đánh giá thực trạng
công tác nông vận, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng công tác nông vận .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc quán triệt, vận
dụng tư tưởng đó trong vận động nông dân ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ
an trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu quá trình hình thành và nội dung cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong
công tác nông vận ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ an trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
- Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của
triết học Mác - Lênin.
- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý
thuyết, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn, xử lý thông tin, lịch sử
kết hợp với phương pháp lôgíc, ngoài ra còn sử dụng nhiều phương pháp khác
như thống kê, so sánh...
6. Giả thuyết khoa học
- Luận văn mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng công tác nông vận ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ an trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn


11

- Luận văn góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác dân vận. Tính cách mạng và tính khoa học của tư tưởng

này không chỉ có ý nghĩa và giá trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và
bảo vệ độc lập dân tộc, mà cả trong quá trình CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

B. NỘI DUNG
Chương 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN
VẬN HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN TRONG


12

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN

1.1. Sự ra đời và nội dung tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
1.1.1. Bối cảnh ra đời và quá trình phát triển tư tương dân vận của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận, hình thành và phát
triển có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hoá
nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.1.1.1. Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt Nam trong lịch sử
Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tinh
thần “trọng dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta trong lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Lý Thường
Kiệt có tác dụng “Dân vận” to lớn trong đấu tranh giữ nước và dựng nước.
Bản Tuyên ngôn đã động viên toàn dân chống quân Tống xâm lược. Từ
phòng tuyến Như Nguyệt đã vọng lên lời thơ “Thần diệu” thôi thúc lòng
người đứng lên giữ nước:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân NguyênMông, Trần Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn nhất của chiến thắng
là “Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức”, và ông căn dặn:
"Phải khoan thư sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Những lời tâm huyết đó đã thúc giục lòng người đứng lên giết giặc lập công.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lòng người đã động viên
toàn quân, toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "chở
thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân".


13

Như vậy, để tập hợp lực lượng, các chính quyền phong kiến đã biết phát
huy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, đứng dưới ngọn cờ cứu
nước. Trước hoạ ngoại xâm, cứu nước là để cứu dân. Kẻ ngoại xâm “nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, nên cứu
nước và giành lại nền độc lập cho đất nước là để cứu dân. Sau khi thắng lợi,
các triều đại phong kiến Việt Nam đều có ý định thực hiện "kế sâu rễ, bền gốc
là khoan thư sức dân".
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ
tư sản, thực hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng dân tộc nói
chung và trong vấn đề vận động quần chúng nói riêng.
Tuy nhiên, các nhà yêu nước nổi tiếng này chưa có phương pháp đánh
giá và công tác vận động nhân dân một cách khoa học, nên phải chịu “trăm
thất bại” mà không một thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống “yêu nước, trọng dân” của

ông cha trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, do đó đã đưa công tác dân vận lên
thành một khoa học.
1.1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận tư tưởng chủ yếu
của sự hình thành tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người coi chủ nghĩa
Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang thần kỳ", mà còn là "kim chỉ
nam" và "là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng",
đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin là đến với tri thức tiên tiến của thời đại, là tiếp thu sức mạnh và
giá trị tinh thần của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các Đảng cộng sản đều phải làm công tác
vận động nhân dân. Đó là một công tác lâu dài và phải kiên trì thực hiện.
Giai cấp công nhân phải làm công tác dân vận để giành lấy sự đồng tình,
sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng của


14

mình; và phải nhận thức rằng, mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có
những hình thức, nội dung công tác dân vận khác nhau.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh giai cấp ở Pháp năm 1848, C. Mác và Ph.
Ăngghen viết trong lời nói đầu tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848
đến 1850” rằng: Đã qua rồi, thời kỳ những cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc
cách mạng do những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu những quần chúng không
tự giác tiến hành. ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế dộ
xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo
ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ
máu và hy sinh tính mạng [10, tr.775].
Như vậy, theo C.Mác và Ph. Ăngghen, muốn thắng lợi, các cuộc cách

mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm
đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành, mà phải do các chính đảng
có lý luận tiên phong của các giai cấp lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết
phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám
xả thân đấu tranh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng, sức mạnh của quần chúng nhân dân
là vô địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy nhiên, quần chúng
nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của
tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [9, tr.615].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định
rằng:
1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu
không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người
lãnh đạo;
2) Càng có đông đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu
tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp


15

thiết phải có một tổ chức như thế và tổ chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu
không thì bọn mị dân sẽ dễ lôi cuốn được những tầng lớp lạc hậu trong quần
chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những người lấy hoạt động
cách mạng làm nghề nghiệp của mình [42, tr.158-159].
Vì vậy, V.I.Lênin nhấn mạnh "hãy cho chúng tôi một tổ chức những
người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" [42, tr.162].
Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đoàn kết, phải có tổ chức.

Vì thế trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” [9, tr.646].
Vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời đại của mình thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, Lênin kêu gọi mở rộng khối
đại đoàn kết của giai cấp công nhân với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới.
Về phương hướng công tác dân vận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ cần
phải dùng phương pháp nêu gương và giúp đỡ; trong công tác dân vận thì
những tấm gương, những mô hình thực tiễn cụ thể có tác dụng cổ vũ, động
viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất to lớn; đối với quần chúng nhân dân
không được dùng mệnh lệnh áp đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo đối
với họ.
V.I.Lênin rất coi trọng công tác thuyết phục, giáo dục và nêu gương đối
với quần chúng nhân dân. Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu cho các đảng cộng
sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương
lĩnh và sách lược của mình” [44, tr.208].
Nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ giành được chính quyền,
xây dựng chủ nghĩa xã hội là quản lý, nhưng “Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng
muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng
trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn” [44,
tr.210].
Đồng thời, V.I.Lênin phê phán những đảng viên, cán bộ, những tổ chức
đảng không gương mẫu, không dũng cảm hoặc “rất ít dùng những điển hình,


16

những tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong mọi lĩnh vực của đời sống, để
giáo dục quần chúng” [45, tr.109]. Người yêu cầu lấy kinh nghiệm, lấy ví dụ
thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc
đang làm và coi đó là một biện pháp có hiệu quả.

Để vận động quần chúng, V.I.Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ,
công khai làm cho mỗi người dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước.
Đây là phương pháp vận động quần chúng có tác dụng nâng cao tính chủ
động, tính tích cực sáng tạo, cách mạng của quần chúng. V.I.Lênin viết: “Một
nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần
chúng biết rõ tất cả mọi cái quần chúng có thể phán đoán được về mọi cái, và
đi vào hành động một cách có ý thức” [43, tr.23].
V.I.Lênin rất trân trọng ý kiến của quần chúng; xem tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân là những nguồn thông tin cực kỳ quý báu để hình
thành chính sách. Vì vậy, Người đề nghị tìm mọi cách để duy trì, phát triển và
mở rộng hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng, vì thông qua những hội
nghị như thế, Đảng có thể “nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ,
giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất, trong số họ
đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước..” [46, tr.39].
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học, là cơ sở
phương pháp luận giúp Hồ Chí Minh tổng kết, tiếp thu có chọn lọc các học
thuyết tư tưởng của nhân loại, đường lối của cách mạng thế giới. Với ý nghĩa
đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở, là nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất để
Người nâng cao truyền thống yêu nước của dân tộc theo phương hướng “Giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản”, hình thành và hoàn chỉnh
tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam nói chung, về tư tưởng dân vận
nói riêng để vận động, giáo dục, tổ chức nhân dân hành động dưới ngọn cờ
của đảng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
* Cơ sở thực tiễn


17

Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của nước ta đã tạo nên mối quan
hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong chống chọi với thiên nhiên cũng

như trong chống giặc ngoại xâm của cộng đồng người Việt.
Lịch sử đã chứng minh truyền thống đoàn kết, ý chí độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường của dân tộc ta đã được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước.
Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc; đã nhận thức được lịch sử Việt Nam thời phong kiến,
tuy chỉ là những việc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng đã ghi lại những tấm
gương tâm huyết dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Khi đất nước bị giặc xâm lăng, “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả
nước góp sức” và “Khoan thử sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng
sách giữ nước”. Hội nghị Diên Hồng đời Nhà Trần là một điển hình của
truyền thống đoàn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng, thu phục
tướng sĩ, nhân tài, phát huy sức mạnh của cả dân tộc để đánh đuổi kẻ thù.
Truyền thống này được Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy lên một tầm cao
mới, trong thời đại mới.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu
cuộc vũ trang xâm lược và áp bức của chúng đối với dân tộc ta. Chúng đã thi
hành nhiều chính sách nguy hiểm và bằng mọi thủ đoạn độc ác, đê hèn để bóc
lột nhân dân ta, đặc biệt là chính sách “chia để trị”.
Với chính sách đó kẻ thù hòng phân biệt, tách rời giữa đồng bào miền
xuôi với đồng bào miền ngược, giữa đồng bào không theo đạo với đồng bào
theo đạo … Nguy hiểm hơn, chúng đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc,
Trung, Nam; mỗi miền có một chế độ cai trị khác nhau nhằm tập trung phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc, một truyền thống có từ lâu đời của chúng ta.
Thực tế đó đặt ra cho cách mạng nước ta phải thực hiện chiến lược đoàn
kết để tập hợp mọi lực lượng yêu nước có thể đoàn kết được, không phân biệt
đảng phái, giai cấp, giàu nghèo thành một mặt trận thống nhất, tạo thành sức


18


mạnh của toàn dân tộc. Có vậy, mới giành được thắng lợi, đưa cách mạng tiến
lên.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước Việt
Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ. Từ phong trào Cần Vương, Yên Thế cuối thế kỷ
XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân đầu thế kỷ XX, các thế hệ người
Việt Nam yêu nước nối tiếp nhau đứng dậy chống ngoại xâm, nhưng đều thất
bại.
Hồ Chí Minh nhận thấy được những hạn chế của các nhà yêu nước trong
chủ trương tập hợp lực lượng và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan
của lịch sử dân tộc trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất
phát để Hồ Chí Minh quyết tâm ra nước ngoài tìm chân lý cách mạng, rồi trở về
nước cùng với nhân dân cứu nước.
* Thực tiễn thế giới
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khảo sát nhiều nước
tư bản chủ nghĩa và nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc ở hầu khắp các châu lục.
Cuộc khảo nghiệm đó đã giúp Người nhận ra một sự thật là: Giới cần lao ở
các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại; song cuộc đấu tranh của
họ chưa đi đến thắng lợi, bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại,
chưa biết đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
“chính quốc”, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức. Hồ Chí Minh nghiên cứu
một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và
những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đem lại cho
phong trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành chính quyền cách mạng.
Đối với phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ
Chí Minh đặc biệt chú ý đến phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ
là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp
các lực lượng yêu nước, tiến bộ để tiến hành cách mạng, như kinh nghiệm tập
hợp lực lượng của Tôn Dật Tiên trong Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung

Quốc và của lãnh tụ đấu tranh đòi độc lập Mahatma Ganđi ở ấn Độ.


19

1.1.1.3. Quá trình phát triển tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Tư tưởng dân vận của Người được hình thành, phát triển và hoàn thiện
gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Người; gắn liền với quá trình
phát triển, thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu nước và hình
thành tư tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống yêu nước và lòng
nhân ái từ gia đình và quê hương. Tại quê hương, Hồ Chí Minh được khai tâm
bằng chữ Hán, hấp thụ tinh thần yêu nước bất khuất của phong trào chống
Pháp, cách đối nhân xử thế, nhân nghĩa thuỷ chung, khí khái của các nhà nho
yêu nước. Tại Huế (1895 - 1901 và 1906 - 1909), Hồ Chí Minh học được kiến
thức về tự nhiên, xã hội, bước đầu tiếp xúc với văn minh phương Tây.
Thời kỳ này, Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến cảnh đàn áp dã man của
thực dân Pháp đối với những người yêu nước Việt Nam; cảnh sống cơ cực,
đói rách của nhân dân lao động; cuộc sống xa hoa của bọn thực dân Pháp và
quan lại tay sai. Hồ Chí Minh tham gia phong trào biểu tình chống thuế của
nhân dân Trung Kỳ, thấy được thất bại của phong trào Đông Du (1906 - 1908) do
Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo và phong trào “Đông kinh Nghĩa thục” (1907).
Tìm hiểu nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ,
Hồ chí Minh nhận xét như sau: chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp của
Phan Bội Châu, “Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước,
rước beo cửa sau”
Chủ trương của Phan Chu Trinh dựa vào Pháp để “Duy Tân” đất nước
“chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”; còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế

của Hoàng Hoa Thám “Còn nặng cốt cách phong kiến”.
Khi bị đuổi học khỏi trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành vào dạy học
ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) (9/1910-2/1911). Trong thời gian này Nguyễn
Tất Thành đã phổ biến cho học sinh những thơ ca yêu nước, như bài “Ca hớt
tóc”:


20

Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh độc lập ở chùa Duy Tân,
Đêm ngày khấn vái chuyên cần,
Cầu cho ích nước lợi dân mới là,
Quyết tu sao phỉ chí dân nhà,
Tu sao độ được nước ta phú cường,
Lòng thành thắp một tuần nhang,
Nam mô phật tổ hồng bàng chừng tri.
Ngày 5/6/1911 anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm
đường cứu nước, cứu dân. Khi rời bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành có một
tâm nguyện rằng: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước
khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Trong thời gian làm việc trên tàu buôn của Pháp, Người gia nhập Hội
viên Công hội, Hội những người thuỷ thủ Việt Nam ở nước ngoài. Năm 1917,
Hồ Chí Minh trở lại Pháp - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá lớn ở
Châu Âu lúc bấy giờ, sau đó tham gia Đảng Xã hội Pháp (1918). Năm 1919,
Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị Vecxây
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gồm 8 điểm đòi tự do dân chủ đơn sơ,
đòi có tiếng nói riêng của người bản xứ trong Quốc hội Pháp, đòi thay thế chế
độ sắc lệnh bằng các đạo luật.... Mặc dù không được Hội nghị Vecxây xem
xét, song bản yêu sách đã có tiếng vang lớn. Từ thực tế này, Hồ Chí Minh đi

đến kết luận về Kế hoạch 14 điểm của Tổng thống Mỹ Uyn-Xơn rêu rao về
quyền tự quyết dân tộc: “Chủ nghĩa Uyn - Xơn chỉ là trò bịp lớn”, và “muốn
được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực
lượng của bản thân mình”.
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh qua nhiều nước ở châu á, châu Phi,
châu Mỹ và châu Âu, chú ý xem xét tình hình các nước, suy nghĩ về thực tế
đang diễn ra ở các nước đó và nhận định rằng: trên thế giới này chỉ có hai
giống người: bị bóc lột và bóc lột mà thôi. Người kết luận giai cấp công nhân
và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn; chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.


21

Từ đó đã làm nảy nở ở Người tình cảm và ý thức giai cấp cũng như tình đoàn
kết quốc tế. Người cũng đã tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới,
khảo sát cuộc sống, tình cảnh của nhân dân bị áp bức và ảnh hưởng về con
đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một cuộc cách mạng đã thành
công đến nơi, vì “Cách mạng rồi quyền giao cho dân chúng số nhiều”. Bằng
những hoạt động tích cực ấy, Hồ Chí Minh đã đi trước một đoạn đường khá
thành công của công tác dân vận.
Năm 1920, đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước,
tìm thấy lực lượng cách mạng hùng hậu cho thắng lợi của cách mạng thuộc
địa. Tháng 12/1920, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội
Pháp họp tại thành phố Tua, Hồ Chí Minh bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc
tế III. Tiếp đó, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về
chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ đây, khát
vọng giải phóng dân tộc của Người được soi sáng bởi một hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thời kỳ từ năm 1921 đến năm 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về
con đường cách mạng Việt Nam và tư tưởng dân vận
Thời kỳ này Hồ Chí Minh vừa tiếp tục hoạt động cách mạng, vừa đi sâu
nghiên cứu tư tưởng Mác- Lênin, từng bước xây dựng tư tưởng, chiến lược,
sách lược, phương pháp và lực lượng cách mạng cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam. Năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số chiến sỹ cách mạng
ở nhiều nước lập ra tổ chức “Hội Liên hiệp thuộc địa” và xuất bản báo Le
Paria. Tháng 12/1921, theo kiến nghị của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Pháp
thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa. Hồ Chí Minh được cử làm trưởng Tiểu
ban nghiên cứu Đông Dương.
Năm 1923, trong bức thư "Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp”
trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc.


22

Điều đó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta.
Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập” [26, tr.192].
Những lời của Người trong bức thư ngắn gọn nêu trên cho thấy tư tưởng,
quan điểm của Người với những nội dung hết sức rõ ràng cụ thể về cuộc vận
động quần chúng làm cách mạng, từ giáo dục, tuyên truyền, tổ chức, tập hợp
lực lượng và thực hành tranh đấu, ở đây có hai điểm:
Phải gắn bó mật thiết với quần chúng, sống và tranh đấu cùng quần
chúng, đoàn kết quần chúng.
Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh ở thời kỳ này định hướng cho cách
mạng thuộc địa. Sự định hướng đó thể hiện ở chỗ: “Giải phóng dân tộc bằng
con đường cách mạng vô sản”. Đánh giá sức mạnh của nhân dân thuộc địa,

Người viết:
Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn [26,
tr.36].
Trong những năm 1925-1927, Hồ Chí Minh hoạt động Quảng Châu
(Trung Quốc). ở đây, Người vận động, tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên
cách mạng, ra báo Thanh niên và viết tác phẩm “Đường Kách mệnh”, mở các
lớp huấn luyện chính trị đào tạo cán bộ rồi đưa họ về nước hoạt động.
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” là ngọn cờ chỉ đạo; là bước chuẩn bị rất cơ
bản về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Từ 6/1 đến 7/2/1930, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Hợp nhất các tổ chức
cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và các đoàn thể cách
mạng Việt Nam như Thanh niên Cộng sản Đoàn, Hội Phụ nữ, Công hội, Hội


23

Cứu tế đỏ, Hội Nông dân và Hội Phản đế đồng minh. Hội nghị Hợp nhất đã
thông qua “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”,
“Chương trình tóm tắt của Đảng” và “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam”. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh khởi thảo là
bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Văn kiện này đã thể hiện sự nhận
thức sâu sắc và đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng ta về nhiều vấn đề cơ
bản nhất của cách mạng; trong đó có vấn đề dân vận.
Từ năm 1930 đến năm 1945: tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh phát
huy tác dụng tích cực đối với cách mạng Việt Nam

Trong những năm 1930 - 1940, do điều kiện khách quan, Hồ Chí Minh
tiếp tục hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Lúc này, toà án thực dân, phong
kiến ở Việt Nam kết án tử hình vắng mặt Hồ Chí Minh. Tháng 6/1931 đế
quốc Anh bắt giam trái phép Hồ Chí Minh tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Chúng bịa ra nhiều lý do để trao Người cho thực dân Pháp. Nhờ sự giúp đỡ
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của những nhân sĩ dân chủ và
tiến bộ, nhất là của luật sư Lô - Dơ - By và kinh nghiệm hoạt động bí mật của
mình, Hồ Chí Minh đã thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù.
Mùa hè năm 1933, Hồ Chí Minh sang Liên Xô. ở đây Người vào học tại
trường Đại học Lênin và sau đó làm nghiên cứu sinh ở Ban sử của Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Người tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và
kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới. Trong thời gian này, Người tiếp
tục bảo vệ và phát triển những tư tưởng, quan điểm đúng đắn của mình về
cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả khuynh và biệt phái trong
phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản được tổ chức ở
Mátxcơva, Hồ Chí Minh tham gia đoàn đại biểu Đảng ta với tư cách là đại
biểu tư vấn. Căn cứ vào tình hình quốc tế lúc này, Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản
đã thay đổi sự chỉ đạo chiến lược và chủ trương mở rộng mặt trận thống nhất
nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, đấu tranh chống phát xít, bảo


24

vệ tự do, dân chủ,hoà bình. Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản đã khắc phục được
một bước quan trọng xu hướng tả khuynh trong phong trào cộng sản và phong
trào quốc tế, tạo điều kiện để cách mạng nhiều nước có bước tiến mới.
Như vậy, thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh những quan điểm của Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải tổ chức mặt trận

dân tộc thống nhất rộng rãi, tập trung mũi nhọn chống đế quốc là đúng đắn và
sáng tạo.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Người chủ trì Hội nghị Trung ương VIII, cụ thể hoá đường lối do
Người vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc cao hơn hết. Trong bài "Kính cáo đồng bào", Người chỉ rõ:
"Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy" [27,
tr.198].
Người chủ trương thành lập Việt Minh, vận động toàn dân thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, tiến tới giành chính quyền, giải
phóng dân tộc. Nhờnhững chủ trương đúng đắn, sáng tạo đó của Người,
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là thắng lợi đầu tiên
của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận của Người và tư
tưởng đó có sức sống mãnh liệt trong thực tiễn đấu tranh vì độc lập tự do của
dân tộc.
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969: phát triển toàn diện tư tưởng dân
vận Hồ Chí Minh
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ra đời từ hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công vì có những bước đi thích hợp và vì Việt Minh có những chính
sách phù hợp với lợi ích của nhân dân, được nhân dân cả nước nhiệt tình
ủng hộ, tham gia. Nhưng ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách hiểm nghèo. ở miền
Bắc, 20 vạn quân Tưởng và sau chúng là bè lũ Việt gian phản động chống phá


25

cách mạng quyết liệt, mưu toan bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. ở

miền Nam, 6 vạn quân Anh giúp Pháp quay trở lại nổ súng xâm lược nước ta
lần thứ hai. Trong khi đó tình hình kinh tế - tài chính của Nhà nước mới cực
kỳ khó khăn, kho bạc trống rỗng; hơn nữa, nạn đói do hậu quả của chính sách
vơ vét của Pháp và Nhật trước đó vẫn diễn ra gay gắt.
Đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm đó, Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh bình tĩnh, khôn khéo đề ra nhiều biện pháp linh hoạt, phát huy
được sức mạnh của cả dân tộc để giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa
cấp thiết của cách mạng; nhờ đó từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng và chuẩn bị lực lượng kháng
chiến.
Thực dân Pháp vốn dã tâm cướp bằng được nước ta, chúng từng bước
đơn phương xoá bỏ những điều khoản đã ký kết với Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Trước tình hình đó,
Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, quyết tâm chống thực
dân Pháp đến cùng. Người viết: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [28, tr.480].
Trong lời kêu gọi lịch sử này, Hồ Chí Minh vạch ra đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của đất nước; do đó đã vận
động, tập hợp, đoàn kết và huy động cả dân tộc Việt Nam vào cuộc trường
chinh vĩ đại, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc và từng bước xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân.
Năm 1947, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Qua tác
phẩm này, Người ý thức cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân sự cần thiết phải
có phương pháp và cách thức làm việc, cách thức giải quyết các vấn đề trong
điều kiện kháng chiến. Hơn thế nữa, tác phẩm còn nêu lên những phẩm chất
cần có của người cách mạng để tập hợp sức mạnh của quần chúng, đưa sự
nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công.
Năm 1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm: “Dân vận”. Ở tác phẩm này,
Người đã nêu lên những quan điểm và phương pháp chỉ đạo công tác dân vận



×