Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp việt nam hàn quốc, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
______________________

LÊ THỊ GIANG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM - HÀN QUỐC, TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

VINH - 2015


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
______________________

LÊ THỊ GIANG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM - HÀN QUỐC, TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: LL & PP DHBM Giáo dục Chính trị


Mã số: 60140111

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM THỊ BÌNH

VINH - 2015


1
LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình, tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn đối với: Phòng Sau đại học trường Đại học Vinh, Khoa giáo dục chính trị;
các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
cũng như hoàn thành luận văn thạc sỹ. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới TS Phạm Thị Bình, người đã hết sức quan tâm, tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài luận văn.
Tôi cũng xin được chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng
Đào tạo, Phòng Công tác học sinh sinh viên, Phòng Kế hoạch dịch vụ, Phòng
khảo thí đảm bảo chất lượng Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn
Quốc, đã giúp tôi thực hiện việc khảo sát và cung cấp số liệu để tôi thực hiện
luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã hết sức động viên,
khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót,
khiếm khuyết. Tôi kính mong sẽ nhận được nhiều sự góp ý, chỉ dẫn từ các thầy
cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 9 năm 2015

Tác giả

Lê Thị Giang

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


2
1.



:

Cao đẳng

2.

ĐH

:

Đại học

3.

HS, SV

:


Học sinh, sinh viên

4.

KTCN

:

Kỹ thuật công nghiệp

5.

UBND

:

Ủy ban nhân dân

6.

GDĐĐ

:

Giáo dục đạo đức

MỤC LỤC


3

Trang
TRANG BÌA LÓT

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang


4
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan
trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều
lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và
sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ,
luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. Song, do còn trẻ, thiếu
kinh nghiệm nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi
trước và toàn xã hội. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà”, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một
phần lớn là do các thanh niên”.
Đảng ta đã khẳng định rằng: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay
không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế
giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay
không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên” [17, tr.538-539], khi nhận
thức đúng về vai trò, vị trí của thanh niên trong sự phát triển của đất nước.
Trong gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã có những bước thay đổi căn
bản, toàn diện. Kinh tế, văn hóa-xã hội có những bước khởi sắc, đã và đang tạo
những điều kiện thuận lợi cho sinh viên rèn luyện, phấn đấu vươn lên để khẳng
định bản thân. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, góp phần hình
thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp thì những tác động tiêu cực từ mặt
trái của cơ chế thị trường đã và đang làm nảy sinh những tệ nạn xã hội, các thói

hư tật xấu, lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng, bất chấp những quy phạm đạo
đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc… gây ảnh hưởng không tốt đến
lối sống của tầng lớp thanh niên nói chung và sinh viên các trường Đại học, Cao
đẳng nói riêng. Hàng loạt vấn đề đặt ra cho thanh niên là thanh niên cần phải
làm gì để khẳng định được mình thực sự là chủ nhân tương lai của nước nhà?


5
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay sinh viên cần phải rèn luyện
phẩm chất đạo đức như thế nào để không phải chiụ ảnh hưởng tiêu cực của cơ
chế đó… Vì vậy, việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thế
hệ trẻ nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết đang được Đảng và toàn xã hội
quan tâm.
Đối với Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn
Quốc, là trường có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh
Nghệ An nói riêng và các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ nói chung, mục tiêu đào
tạo của Trường là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, tức là những người vừa
có tay nghề vừa có phẩm chất đạo đức tốt. Điều này đã được thực tiễn chứng
minh trong suốt 15 năm xây dựng và trưởng thành của Nhà Trường, khi lượng
sinh viên hàng năm tốt nghiệp ra trường đều tìm được việc làm, hoặc tự tạo việc
làm cho bản thân. Với mục tiêu đào tạo đó Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công
nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc không những đáp ứng được yêu cầu của thị trường
lao động trong nước mà hàng năm lượng sinh viên tốt nghiệp ở trường đi xuất
khẩu lao động ở nước ngoài chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt là các thị trường lao động
đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất đạo đức, có tay nghề, có ý thức tổ
chức kỷ luật như Hàn Quốc và Nhật Bản. Bên cạnh đó để đạt được tiêu chí đặt
ra là các ngành nghề đạt chuẩn Asean và chuẩn quốc tế, ngoài việc đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ, kỷ năng nghề, thì vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên
là một việc làm hết sức cần thiết. Điều đó đã nói lên rằng, trong xã hội hiện nay
rất nhiều ngành nghề, đang cần những người thợ với trình độ chuyên môn cao và

tay nghề giỏi để phục cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, một yêu cầu không thể không nói tới đó là
những người lao động phải có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức, có tinh thần tự
giác, sống có ước mơ, có hoài bão, không sợ khó khăn, gian khổ, say mê, học
tập, nghiên cứu và sáng tạo khoa học công nghệ…Vậy nên, việc giáo dục đạo


6
đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn
Quốc là vấn đề cấp thiết, là vấn đề được nhà Trường quan tâm và chú trọng.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn: “Nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt
Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn
tốt nghiệpThạc sĩ của mình.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức, lối sống và lý tưởng cách mạng cho
thanh niên - sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tiêu biểu là một số công
trình sau đây:
Trước hết bàn về vấn đề đạo đức nói chung có các cuốn “Nguyên lý đạo
đức mác xít” của A.F.Shishhin, trong cuốn sách này tác giả đã nhấn mạnh về vai
trò của đạo đức, coi những phẩm chất đạo đức chính là cái quan trọng nhất của
mỗi con người.
Tiếp đến đó là cuốn “Đạo đức học” (2 tập) của G.Bandzeladze, tác giả
đã nghiên cứu và làm rõ những vấn đề của khoa học đạo đức: Đạo đức là gì;
đạo đức phát sinh, phát triển như thế nào, nội dung của những phạm trù đạo
đức là gì…
Ở nước ta, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức được đặt ra rất sớm, và
đã có rât nhiều cuốn sách của nhiều tác giả nói về đạo đức và giáo dục đạo
đức như:
Năm 1974, cuốn“Đạo đức mới”do tác giả Vũ Khiêu chủ biên, trong tác

phẩm này thì những nét cơ bản về đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức đã
được làm sáng tỏ.
Cuốn “Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới”,(1982) do tác giả
Tương Lai xuất bản, đây được xem là tài liệu tham khảo bố ích về lĩnh vực
đạo đức.


7
Có nhiều các tác phẩm khác như: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa
Thế kỷ XXI của tác giả Phạm Minh Hạc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Đạo đức học của nhóm tác giả Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng (2001)
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Thứ hai, bàn về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên- sinh viên có:
+ “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên Đại học Quốc gia Hà Nội”, của tác giả Bùi Minh Hiền (2001). Tác giả đã
nêu ra thực trạng đạo đức và đề xuất một số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng
và sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng nói chung. Ngoài ra còn có các đề
tài luận án, luận văn nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, sinh
viên như:
+ “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, của PGS.TS Nguyễn Xuân
Ẩn, công tác tại Đại học Quốc Gia Hà Nội, công trình đã đề xuất các giải pháp
cụ thể nhằm xây dựng lối sống và đạo đức cho sinh viên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ “Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ của Nguyễn
Anh Tuấn, Trường Đại học Hùng Vương - Tỉnh Phú Thọ, tác giả đã nghiên cứu
những nội dung cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nghề dạy học và đề xuất những
giải pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trong nền kinh tế

thị trường ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên cho các
trường sư phạm.
+ “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức cách mạng cho
cán bộ hiện nay” của tác giả Đinh Đức Hiền, Sở Nội vụ, Ủy ban nhân dân thành
phố Đà Nẵng đăng trên tạp chí Khoa học và Công Nghệ, Đại học Đà Nẵng - số
5/2010. Trong đó, tác giả đã vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và


8
công tác cán bộ, đồng thời tác giả cũng đã đề xuất một số giải pháp: giáo dục
chính trị, đạo đức, đánh giá đúng và tạo môi trường thuận lợi nhằm phát huy tài
năng, cơ chế ràng buộc và kiểm tra, giám sát, góp phần xây dựng đội ngủ cán bộ
đủ phẩm chất và năng lực để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Các báo cáo, các tạp chí bàn về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên,
sinh viên:
+ “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện
mới”, Báo cáo khoa học của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh (1996-1997). Báo cáo đã nêu lên sự cần thiết phải giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
+ “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”, Báo cáo
khoa học chuyên đề của Trung ương Đoàn TNC Hồ Chí Minh tháng 10-2007.
+ Tạp chí triết học, Đỗ Huy (2002) “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội
và những hành vi đạo đức cá nhân”.
+ Trần Văn Miều (2007) “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”
Tạp chí Xây dựng Đảng…Những bài viết này đều đề cập đến khía cạnh chuẩn
mực đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống cần giáo dục cho thế hệ trẻ trong
giai đoạn hiện nay.
Tạp chí Giáo dục, Số 4 (2006). “Sinh viên với việc học tập đạo đức Hồ
Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền

thông, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện báo
chí và tuyên truyền, Số 5 (2009), “Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 12 (2008), “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng giảng dạy môn chính trị trong các trường cao đẳng nghề” ,
Tạp chí Giáo dục, 231, 2010, “ Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh viên


9
Việt Nam hiện nay” Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông số 3/2015,
Học viện báo chí tuyên truyền.
Về việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An có đề tài “Nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công
nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Thị Thúy năm 2012. Tuy nhiên, trong đề tài này
tác giả của nó mới chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu về giáo dục đạo đức thông
qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề này làm
công trình nghiên cứu của mình, trên phạm vi rộng hơn, đó là thông qua giảng
dạy các môn học lý luận, các môn chuyên ngành, cũng như thông qua các hoạt
động đoàn thể… để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay, đề tài đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên nhà trường, đáp ứng yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận về sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.


10
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
- Đối tượng nghiên cứu là sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt
Nam - Hàn Quốc, Tỉnh Nghệ An.
- Nghiên cứu thực trạng đạo đức của sinh viên Trường Cao đẳng nghề
KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, cũng như công tác giáo dục đạo đức của Nhà
trường trong thời gian vừa qua.
3.2. Phạm vi
- Khảo sát thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong thời gian qua.
- Nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ
An trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là đường lối chủ trương, quan điểm của

viên, định hướng giá trị cho thế hệ trẻ.
4.2. Phương pháp


11
- Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp luận của
nhủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể: phương pháp logic và lịch sử, phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp quan sát, thu thập thông tin...
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đề ra được các giải pháp khoa học có tính khả thi đề tài sẽ góp
phần nâng cao được hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài tạo cơ sở tham khảo, học tập, nghiên cứu cho
công tác giáo dục đạo đức ở Trường Cao đẳng Cao đẳng nghề Kỷ thuật công
nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc trong giai đoạn hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên Trường Cao đẳng nghề.
Chương 2: Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong
thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt
Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ trong giai đoạn hiện nay.



12


13
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Giáo dục
Giáo dục là một trong những hình thức hoạt động từ lâu đã được loài
người quan tâm. Ở Phương Tây, ngay từ thời cổ đại, Platon đã xây dựng một
nền giáo dục có hệ thống dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng triết học duy tâm.
“Viện Hàn lâm” do ông sáng lập ở Aten được xem là trường đại học tổng hợp
đầu tiên ở châu Âu, nó có ảnh hưởng sâu sắc đến nền giáo dục ở phương Tây từ
xưa cho tới tận ngày nay.
Ở phương Đông, người có đóng góp quan trọng đối với hoạt động giáo
dục đó là Khổng Tử. Hoài bão lớn nhất của ông đó là làm chính trị, nhưng thành
công mà ông đạt được lại trong hoạt động giáo dục. Tư tưởng có tính chất xuyên
suốt trong giáo dục của ông đó là “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”
không chỉ đúng trong thời đại của ông mà nó còn đúng trong thời đại “xã hội
học tập” hiện nay.
Ở Việt Nam, truyền thống học tập đó được phát huy từ ngàn đời xưa cho
đến nay, cha ông ta đã lập nên các giảng võ đường, lập Văn Miếu (1070), Quốc
Tử Giám (1076), đó những cơ sở để phát triển nền giáo dục Việt Nam. Từ đó
cho đến nay, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rất mạnh không chỉ về số
lượng, mà còn cả về chất lượng.
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập

theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu.


14
Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể
thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà
người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo
dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu
thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
Về

mặt từ

nguyên,

"education"

trong tiếng

Anh có

gốc La-

tinh education ("nuôi dưỡng, nuôi dạy") gồm educo ("tôi giáo dục, tôi đào tạo"),
liên quan đến từ đồng âm educo ("tôi tiến tới, tôi lấy ra; tôi đứng
dậy"). Trong tiếng Việt, "giáo" có nghĩa là dạy, "dục" có nghĩa là nuôi (không
dùng một mình); "giáo dục" là "dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí-dục, đức-dục, thể-dục."
Giáo dục còn được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể

(quá trình sư phạm, quá trình giáo dục tư tưởng), là quá trình hình thành niềm
tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi,
thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động,
tư tưởng chính trị, thẩm mĩ, vệ sinh…
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách,
được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm xã hội loài người.
Theo Từ điển Tiếng Việt, của viện ngôn ngữ học, có ghi: “Giáo dục hiểu
theo nghĩa động từ đó là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần
có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Hiểu dưới góc độ
danh từ, đó là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của một
nước”. [48, tr.379]
Ngoài ra, giáo dục còn là quá trình khơi gợi các tiềm năng sẵn có trong
mỗi con người, góp phần nâng cao các năng lực và phẩm chất cá nhân của cả


15
thầy và trò theo hướng hoàn thiện hơn, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển
trong xã hội loài người đương đại.
Kế thừa truyền thống giáo dục của cha ông ta để lại, Đảng ta, mà đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giáo dục, đến sự nghiệp “trồng
người”. Tại buổi nói chuyện chính trị với giáo viên cấp hai và cấp ba toàn miền
Bắc (13/9/1958), Người nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”, đây là tư tưởng có tính chất xuyên suốt trong cuộc đời của Người.
Do đó, khái niệm "Giáo dục" theo tác giả được hiểu như sau: Giáo dục là
quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và biến đổi nhận
thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo hướng tích
cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách cả thầy và trò bằng những tác động

có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội
loài người đương đại.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa giáo
dục thụ động, chịu sự tác động của xã hội mà giáo dục cũng có tác động tích cực
trở lại xã hội thông qua thực hiện những chức năng xã hội đó là:
Chức năng của giáo dục là tái sản xuất nhân cách và chức năng tái sản
xuất xã hội. Hai chức năng này có mối quan hệ với nhau tác động hỗ trợ lẫn
nhau. Trong xã hội chúng ta, hai chức năng trên được cụ thể hóa thành ba chức
năng sau:
Thứ nhất là chức năng kinh tế - sản xuất: giáo dục tái sản xuất sức lao
động xã hội, tạo ra sức lao động ở một trình độ mới, cao hơn, khéo léo hơn,
hiệu quả hơn để thay thế sức lao động cũ đã bị mất đi. Vì vậy, giáo dục tạo ra
một năng suất lao động xã hội cao hơn, có tác dụng đẩy mạnh sản xuất và
phát triển kinh tế. Theo Mác, “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ
tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực
tiễn” [9, tr.475]


16
Thứ hai là chức năng chính trị - xã hội: chế độ chúng ta đang sống
là: “Tất cả của dân, do dân và vì dân”, do đó giáo dục tạo điều kiện cho thế hệ
trẻ và nhân dân nói chung nâng cao dân trí để tham gia quản lý xã hội, đất nước
với tư cách là chủ nhân của xã hội, của đất nước, ý thức rõ ràng được quyền lợi
và nghĩa vụ của công dân.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: mục
tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay là: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất
lượng dạy và học… phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học
sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây
dựng đất nước giàu mạnh gắn với lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng
đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối

sống của thế hệ trẻ Việt Nam [19, tr.207]
Giáo dục góp phần tích cực trong việc xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện
cho các thành viên của xã hội tìm kiếm việc làm, để thay đổi nghề nghiệp cho
phù hợp, để dễ dàng thích ứng với môi trường lao động mới mẻ. Nhờ vậy, giáo
dục đã góp phần giải quyết những vấn đề xã hội.
Ngoài ra, giáo dục còn góp phần tạo điều kiện cho các giai cấp, các tầng
lớp xã hội nâng cao trình độ học vấn nên dễ dàng gần gũi nhau, thông cảm với
nhau để tìm được tiếng nói chung.
Thứ ba, đó là chức năng tư tưởng - văn hóa: giáo dục có tác dụng to lớn
trong việc xây dựng một hệ thống tư tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một
lối sống phổ biến trong toàn xã hội, trình độ văn hóa cho toàn xã hội thông qua
việc phổ thông ngày càng được nâng cao dần. Qua đó để tạo ra nguồn nhân lực
đông đảo với chất lượng cao, đồng thời có điều kiện phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
Như vậy có nghĩa là, giáo dục vừa có vai trò thúc đẩy sự phát triển và tiến
bộ xã hội, vừa chịu sự quy định của trình độ phát triển chung của nền kinh tế xã hội trong một giai giai đoạn lịch sử xã hội nhất định.


17
Cũng chính bởi việc thực hiện những chức năng của giáo dục ngày càng
có hiệu quả nên vị trí của giáo dục ngày càng được ý thức sâu sắc hơn, đó là:
Giáo dục trong thời đại ngày nay được coi là chìa khoá vàng để con người
bước vào cánh cửa tương lai.
Chạy đua phát triển giáo dục với những chuẩn mực quốc tế về chất lượng
là tạo cơ sở cho sự tăng tốc trong chạy đua về kinh tế.
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo được coi là quốc sách
hàng đầu.
1.1.2. Đạo đức
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với

nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai.
Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Những giá trị đạo đức phản ánh tính nhân văn cao cả, thể hiện truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, được hình thành và phát triển cùng với tiến
trình của lịch sử. Đến nay nó được xem là những chuẩn mực của con người Việt
Nam như: Đoàn kết nhân nghĩa, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, khoan dung, độ
lượng…
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp
cổ đại.
Danh từ “Đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - Lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường được
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc chữ Hy Lạp là ethicos nghĩa là lề
thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng khi ta nói đến đạo đức tức là`nói đến
những lề thói, tập tục và biểu hiện của mối quan hệ nhất định giữa người với
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.


18
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về “đạo” và “đức” của họ.
“Đạo” hiểu theo nghĩa đen là chỉ con đường đi, chỉ về hướng nhất định,
hay chỉ quy luật biến hóa của tự nhiên, theo nghĩa bóng là hướng dẫn hành vi
con người phải noi theo như: “đạo làm người”. “Đạo” về sau chỉ cái lý phải theo
như “đạo lí”.
“Đức” là một khái niệm trong triết học cổ Trung Quốc. Theo nghĩa
thông thường, “đức” chỉ tính hạnh tốt đẹp của con người, phần thẳng thắn
của con người.
Đạo đức xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo

đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về tính thiện, ác, tốt, xấu,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh
hành vi, ứng xử của cá nhân đối với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân. Hành vi
đạo đức là sự biểu hiện ứng xử mà con người nhận thức và lựa chọn. Quan hệ
đạo đức là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, xét
về mặt đạo đức.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, kết quả của quá trình phát triển của xã
hội loài người. Đạo đức thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định của cơ sở
hạ tầng. Đạo đức gồm có đạo đức xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ
nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản.
C.Mác cho rằng: “Đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người
trong sự phát triển của nó theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái
thiện” [8, tr.276].
Ngày nay, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản
ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức, nhằm điều chỉnh cách đánh giá, hành vi
ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội, phù hợp với lợi ích của con
người với xã hội. Trên cơ sở sự ra đời và phát triển của đời sống đạo đức xã hội
là do nhu cầu cuộc sống của con người, của xã hội đặt ra, ở một mức độ khái


19
quát nhất chúng ta có thể hiểu:“Đạo đức là một hình thái ý thức - xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ và quan hệ với xã hội. Chúng được
thực hiện bởi niền tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư
luận xã hội” [47, tr.218].
* Nguồn gốc của đạo đức
Đạo đức ra đời cùng với sự xuất hiện của con người và xã hội loài người,
vì đó là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội. Trước C. Mác và
Ph.Ăngghen, các nhà Triết học đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn

đề xã hội với các quan điểm cơ bản sau:
- Theo quan điểm của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo cho rằng đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và mang bản chất tôn giáo.
Những tôn giáo này cho rằng, mọi điều tốt đẹp đều là do trời, chúa, thần thánh
đem đến cho loài người. Tuy nhiên các quan điểm tôn giáo đã đồng nhất đạo
đức với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều xuất phát từ đời sống hiện thực
hàng ngày và do con người đúc rút lại, còn tôn giáo là thế giới niềm tin do con
người tưởng tượng ra.
- Theo quan điểm chủ chủ nghĩa Mác-Lênin, nguồn gốc để hình thành và
phát triển các giá trị đạo đức xã hội chính là nền kinh tế của xã hội đó. Mỗi một
hình thái ý thức - xã hội đều có một hình thái đạo đức tương ứng. Quá trình phát
triển đạo đức là quá trình phủ định biện chứng, đấu tranh giữa các mặt đối lập
trên cơ sở kế thừa cái cũ để xây dựng nền đạo đức mới tốt đẹp và hoàn thiện
hơn. Vì vậy, bản thân mỗi người phải ý thức được việc làm của mình trong mối
quan hệ giữa người với người, cá nhân với xã hội để phát huy hiệu quả những
giá trị đạo đức
* Chức năng của đạo đức
Đạo đức với tư cách là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực để điều
chỉnh hành vi của con người, nhân loại bao giờ cũng phải cần đến đạo đức. Từ


20
thời cổ đại đến thời hiện đại, từ phương Đông cho đến phương Tây, không lúc
nào thiếu sự hiện diện của đạo đức. Khi khoa học - kỹ thuật ngày càng phát
triển, xã hội ngày càng tiến bộ, đời sống con người ngày càng được nâng lên thì
xã hội lại càng phải cần đến đạo đức vì:
Thứ nhất, đạo đức là một phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi của
con người, và sự điều chỉnh này là hoàn toàn tự nguyện, tự giác, sự điều chỉnh
ấy đi từ tối thiểu đến tối đa trong mọi hành vi của con người. Trong lịch sử xã
hội có rất nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người như: pháp luật, chính

trị, tôn giáo… nhưng không có phương thức nào điều chỉnh hành vi một cách
rộng lớn như đạo đức.
Thứ hai, đạo đức góp phần vào việc hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm
sự phát triển của xã hội. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hộinó đã tác động không những tồn tại xã hội mà nó còn tác động đến đời sống
kinh tế. Từ đó góp phần vào việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Nếu sự tác động của đạo đức cùng chiều với tồn tại xã hội, thì lúc đó nó sẽ
thúc đẩy cho tồn tại xã hội phát triển. Lúc đó tính tích cực của nhân cách của
con người được phát huy, quan hệ giữa con người với con người trở nên thân
ái và thân thiện hơn, xã hội sẽ phát triển hài hòa hơn. Còn ngượi lại, sự tác
động đó nó ngược chiều với sự phát triển và tiến bộ xã hội thì lúc đó kìm hãm
sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đạo đức sẽ góp phần nhân đạo hóa con người nói riêng và xã hội
loài người nói chung. Nếu trong một xã hội, con người biết sống vì nhau, biết
sống vì người khác, con người biết yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau… thì
xã hội sẽ tốt đẹp hơn.
Theo C.Mác: “Bản chất và cơ sở của tính người là ở chỗ con người đối xử
với người khác như đối xử với bản thân mình. Đây là quá trình các cá nhân
tạo .ra nhau cả về mặt vật chất lẫn tinh thần” [9, tr.59]


21
Đặc biệt, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người đã đưa
ra những chỉ dẫn quan trọng mang ý nghĩa khái quát cao về giá trị đạo đức của
con người: “Con người cần có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính đủ bốn đức
tính ấy là người, thiếu một đức tính thì không thành người được” [32, tr.568].
Đồng thời, Người luôn coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách
mạng. Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn sông mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây sẽ héo,
người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được dân”. [34, tr.27]

Nhấn mạnh đạo đức của người cách mạng không có nghĩa là chúng ta
xem nhẹ tài năng phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng luôn song hành
cùng nhau trong mỗi cá nhân. Về vấn đề này, Người đã diễn dãi một cách hết
sức giản dị nhưng mà vô cùng sâu sắc trong luận điểm: “Có tài phải có đức, có
tài không có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho Nhà nước, có đức không có tài như
ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được ai”. [32, tr.58]
1.1.3. Giáo dục đạo đức
Giáo dục được hiểu là sự tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của con người, để họ dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra, thì giáo dục đạo đức có thể hiểu là quá trình tác động một cách
tích cực, có hệ thống đến nhận thức, thái độ và hành vi của con người nhằm hình
thành và phát triển tính tự giác, ý thức trách nhiệm đối với người học.
Bản chất của giáo dục đạo đức là một quá trình tổ chức, hướng dẫn, kích
thích hoạt động tích cực của người được giáo dục để họ lĩnh hội được nội dung
của giá trị đạo đức, hình thành nên hệ thống thái độ và hành vi của cá nhân, phù
hợp với chuẩn mực đạo đức và mong đợi của xã hội.
Giáo dục đạo đức là làm cho người được giáo dục nhận thức được kiến
thức văn hóa ứng xử, kỹ năng ứng xứ và hành vi ứng xử… Nhận thức được các
phẩm chất nhân cách thể hiện tính nhân văn: lòng biết ơn, sự vị tha, ý thức trách


22
nhiệm, giàu lòng nhân ái, biết quan tâm, chia sẻ, biết giúp đỡ mọi người… đó là
những giá trị đạo đức cao quý trong các mối quan hệ của con người. Từ đó giúp
con người có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được
những giá trị chân chính, đồng thời có thái độ không tán thành, không chấp nhận
những gì đi ngược lại hay phản lại các giá trị đạo đức, dám đấu tranh để bảo vệ
những giá trị chân chính, đích thực của xã hôi.
Giáo dục đạo đức về bản chất là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực
đạo đức từ những đòi hỏi từ bên ngoài xã hội đối với cá nhân thành những đòi

hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng
giáo dục.
Giáo dục đạo đức trong trường nghề, là một bộ phận của quá trình giáo
dục tổng thể có quan hệ biện chứng với các bộ phận khác như giáo dục trí tuệ,
thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục nghề nghiệp…, giúp
sinh viên hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Giáo dục đạo đức cho
sinh viên là giáo dục lòng trung thành với Đảng, hiếu với dân, yêu tổ quốc, yêu
quê hương đất nước, có lòng vị tha, có lòng nhân ái, cần cù, liêm khiết chính trị,
đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Bỡi lẽ, khi con người có đạo đức sẽ dẫn đến hành động thực tiễn, thể
hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm lĩnh những tri thức về đạo đức, thể
hiện sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, có ý thức, tình
cảm, trách nhiệm với bản thân, với gia đình và toàn xã hội, đồng thời lên án
những thái độ, những hành vi đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức của
dân tộc. Giáo dục đạo đức là một quá trình, phải thực hiện nó bắt đầu từ nhận
thức, thái độ và hành vi.
1.2. Nội dung, hình thức của giáo dục đạo đức cho sinh viên trường
Cao đẳng nghề trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng nghề


23
Giáo dục đạo đức là yêu cầu khách quan của sự nghiệp "trồng người", nó
giúp đào tạo ra thế hệ vừa "hồng" vừa "chuyên" nhằm phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đạo đức
cho sinh viên trường Cao đẳng nghề bao gồm những nội dung sau:
Trước hết, cần phải giáo dục cho sinh viên nói chung, sinh viên trường
cao đẳng nghề nói riêng về các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Trong
giáo dục đạo đức cho sinh viên việc giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc
là rất quan trọng. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc

Việt Nam đã được lưu giữ, truyền lại cho các thế hệ và không ngừng được phát
huy qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước rất hào hùng, oanh liệt. Giá trị
và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc ta tựu trung lại có những nội
dung cơ bản:
- Sống hoà thuận, đoàn kết, thương yêu đồng bào, đồng loại “thương
người như thể thương thân”, nhất là với những người gặp hoạn nạn, khốn khổ.
Tình cảm mặn nồng đó thể hiện ở vô vàn hành vi ứng xử trong quan hệ cộng
đồng của người Việt Nam.
- Căm thù giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
- Sống thuỷ chung, biết ơn, tôn kính, noi gương những anh hùng, nghĩa sĩ
có công đức với dân, với nước. Người Việt Nam luôn hướng về tương lai nhưng
không bao giờ lãng quên quá khứ, quên tổ tông, vong ơn, bội nghĩa. Từ ngàn đời
nay nhân dân ta luôn ghi nhớ những câu răn dạy như: “uống nước nhớ nguồn”,
“ăn quả nhớ người trồng cây”. Giá trị chuẩn mực đó được mở rộng ở tinh thần
đoàn kết quốc tế vô sản, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản
đều là anh em”.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn chúng ta phải biết phát huy những
truyền thống quí báu trên trong đối nhân xử thế. Người từng nói: “nhân dân
ta từ lâu đã sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà


×