Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tư cách người cách mệnh trong đường kách mệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.11 KB, 46 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa
được cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ. Cả cuộc đời Người đã dành trọn cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Người thật sự là người cha, người bác,
người anh của mỗi con người Việt Nam chúng ta. Về lĩnh vực văn hóa, danh hiệu Danh
nhân văn hóa thế giới là minh chứng rõ nét nhất cho tài năng và tư tưởng của Người.
Trên con đường đấu tranh cách mạng của mình, Người đã viết nhiều sách, báo,.. biến
chúng thành vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù, nhiều phen khiến chúng phải run mình
khiếp sợ. Trong cuộc đời hoạt động vì cách mạng, vì lí tưởng xã hội chủ nghĩa, Người
đã để lại một lượng lớn những quan điểm, tư tưởng về sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những tác phẩm đó thể hiện rõ một con người tài đức vẹn
toàn. Những quan điểm tư tưởng đó trở nên bất hủ, sống mãi với thời gian, trường tồn
vĩnh cửu. Những lí luận, tư tưởng của Người là một hệ thống khoa học, logic và chặt
chẽ. Đó là những tư tưởng mang tính thời đại mà cho đến hôm nay chúng vẫn con
nguyên giá trị, là con đường để toàn Đảng, toàn dân ta tiến lên xây dựng thành công xã
hội chủ nghĩa.Trong các tác phẩm mà Người đã viết, có một tác phẩm đã đánh dấu
chấm hết thời kỳ khủng hoảng đường lối cách mạng của nước ta mở ra con đường đấu
tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới. Đó là tác
phẩm “Đường Kách mệnh”. Đây là một tác phẩm có giá trị lớn mà ở đó chúng ta có thể
thấy được một phần nào đó về con đường cách mạng đúng đắn mà Hồ Chí Minh đã nêu
ra. Đã 84 năm kể từ sau khi tác phẩm ra đời, những lí luận tư tưởng mà tác phẩm
“Đường Kách Mệnh” đề cập đến vẫn luôn có ý nghĩa to lớn đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam và con đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong quá trình đổi mới và
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những phẩm chất cần có của
một người cách mệnh, là kim chỉ nam định hướng phấn đấu và hoàn thiện bản thân cho
mỗi con người cũng như đó là điều kiện nhất thiết cần phải có để tiến lên xã hội chủ
nghĩa.

1



Với những lý do trên, nhóm em chọn tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu với đề tài:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người cách mạng trong tác phẩm Đường Kách
Mệnh”. Bài tiểu luận này bao gồm 2 phần:
+, Phần I: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tư cách đạo đức người cách mệnh.
Phần này sẽ nêu khái quát về hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của tác phẩm “Đường
Kách Mệnh”. Tiếp theo sẽ nói rõ về những phầm chất, đạo đức cơ bản của một người
cách mạng cần có nếu muốn hoàn thiện bản thân, đạt đến mục tiêu Xã hội chủ nghĩa.
Cuối phần này, bài tiểu luận cũng sẽ nhấn mạnh thêm về tầm quan trọng của những
phẩm chất đạo đức đó, không những phải có chỉ ở những người cách mạng, mà phải là
ở mỗi con người. Có như vậy, xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện
cho mỗi người phát triển, hoàn thiện hơn và tạo thêm nhiều của cải vật chất hơn. Đúng
với tiến trình tồn tại và phát triển của loài người mà vũ trụ đặt ra.
+, Phần II: Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tiếp sau
phần thực trạng hiện nay của đạo đức và lối sống của sinh viên, cán bộ và Đảng viên, là
tấm gương Hồ Chí Minh và những tư tưởng đạo đức nhất thiết mà chúng ta phải noi
theo, học tập và phát triển. Cuối phần này sẽ nêu những giải pháp cho sinh viên, cán bộ
và Đảng viên trong việc thực hiện học tập và làm thao tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Hi vọng, bài tiểu luận sẽ góp một phần nhỏ vào kho tàng sách của sinh viên và
những người quan tâm tới đề tài này, và tiến xa hơn là góp phần củng cố, xây dựng và
phát huy những giá trị văn hóa đạo đức của con người XHCN, gửi trọn niềm tin tuyệt
đối vào con đường đạo đức mà Hồ Chí Minh đã soi sáng cho dân tộc ta.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, Giảng viên
Phạm Thị Mai Duyên đã giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Xin chân
thành cảm ơn cô.

2


B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ TƯ CÁCH ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁCH MỆNH
1. Hoàn cảnh ra đời và tư tưởng cơ bản của tác phẩm “Đường Kách Mệnh”.
1.1 Hoàn cảnh ra đời.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa - nửa phong
kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ bản là giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể
nhân dân (chủ yếu là nông dân). Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ dưới ách kìm kẹp
của chúng. Trong khi đó trình độ nhận thức của nhân dân còn hạn chế do thực dân Pháp
tìm mọi cách để kìm hãm việc học hành trau dồi tri thức của người dân. Thời gian này
tuy có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng hầu hết đều thiếu đường lối chính trị đúng
đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng khoa học, do đó nhanh chóng thất bại. Do đó
cần thiết phải có một lí luận dễ hiểu, dễ vận dụng, mang tính toàn dân để nhanh chóng
đưa người dân theo con đường cách mạng đúng đắn.
Trước sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn đất nước chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu
nước thương dân, khâm phục ý chí không cam tâm làm nô lệ của đồng bào và tấm
gương cứu nước của các vị tiền bối cách mạng, song không đi theo con đường của họ,
Nguyễn Tất Thành đã lựa chọn con đường ra nước ngoài, “tìm đường đi cho dân tộc”.
Sau gần 10 năm bôn ba ở nước ngoài đã đưa Hồ Chí Minh từ một người yêu nước trở
thành một người cộng sản. Và “Bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa” của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư
tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác – Lênin làm hệ tư tưởng cứu
nước. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với con đường cứu nước theo quỹ đạo cách
mạng vô sản, với khát khao cháy bỏng : giành độc lập cho tổ quốc, tự do cho đồng bào,
3


Hồ Chí Minh đã xác định lộ trình và quyết định trở về Quảng Châu – Trung Quốc (1111-1924), xúc tiến công cuộc giải phóng dân tộc. Tại đây, người đã thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị, ra báo “Thanh niên”, bí mật
truyền giảng cho đội ngũ cán bộ cốt cán đầu tiên của Việt Nam những nội dung cơ bản

của chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị cho sự ra đời một chính đảng vô sản kiểu mới ở
Việt Nam. Những bài giảng của người tại lớp huấn luyện chính trị này đã được Bộ
tuyên truyền của hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á – Đông tập hợp lại và xuất bản
thành sách “Đường Kách Mệnh” để làm tài liệu học tập trong nội bộ hội Việt Nam. Tuy
nhiên cuốn sách không phải chỉ lưu hành nội bộ mà thực sự đã được xác định để phát
hành rộng rãi đến quần chúng nhân dân, thậm chí cả những người không biết chữ,
không biết đọc, biết viết bởi nội dung của nó hết sức dễ hiểu, dễ làm theo, phù hợp với
trình độ nhận thức còn hạn chế của nhân dân lúc bấy giờ. Cuốn sách thực sự là kim chỉ
nam vạch rõ đường lối cho những người yêu nước hướng theo cách mạng.
1.2. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm.
Đường Kách Mệnh là một sự kết tinh của quá trình học tập và nghiên cứu chủ nghĩa
Mác – Lênin của Người. Nguyễn Ái Quốc đã vượt lên bắt kịp những tư tưởng lớn của
thời đại, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và trình bày lý giải những tư
tưởng ấy một cách thật giản dị dễ hiểu, ngắn gọn trong một cuốn sách nhỏ.
Trong tác phẩm Người đã trả lời rất rõ ba câu hỏi lớn là : Viết cho ai? Viết như thế
nào? Và viết để làm gì? Người viết “sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ
lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên, đoàn kết mà làm cách mệnh.” Vậy là
cuốn sách không chỉ làm tài liệu học tập nghiên cứu cho học viên các lớp huấn luyện về
lý luận cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) mà rộng hơn Nguyễn Ái Quốc đã viết
để đồng bào xem. Cuốn sách không phải chỉ lưu hành nội bộ mà thực sự đã được xác
định để phát hành rộng rãi đến quần chúng nhân dân. Mặc dù cách thức phát hành lúc
bấy giờ rất bí mật thậm chí có đồng chí phải đổi cả sinh mạng của mình.
Sau khi đã xác định viết để làm gì, viết cho ai thì cách viết như thế nào cũng được
Nguyễn Ái Quốc đề cập rõ ràng: “sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu dễ nhớ… nói
4


việc gì thì nói rất giản tiện, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả…
hơn hai triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa, phải kêu to làm chóng để cứu lấy
giống nòi thì giờ đâu rảnh mà vẽ vời trao chuốt”.

Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường đúng đắn : cách mệnh là việc chung của
dân chúng chứ không phải của riêng ai, muốn tập hợp quần chúng để làm cách mạng thì
phải làm quần chúng hiểu vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm cách mệnh và cách
mệnh thì phải làm như thế nào. Người nói : “thà chết tự do còn hơn sống nô lệ, quyết
chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc” là tinh thần của tác phẩm. “không có gì
quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ
kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con đường cụ thể để dành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của
nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách áp bức bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc.
Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con
đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô
sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích của
giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phải
giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc
tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân
tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động, sáng tạo. Tác giả đưa dẫn chứng các
cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng việt nam phải dành
thắng lợi triệt để : “muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm
gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.” Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa mã khắc tư và lênin. Cách mạng phải độc lập và sáng tạo, tự lực, tự
cường, không ỷ lại ngồi chờ, phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết dành
5


thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng
góp cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản,

xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách đạo đức người cách mệnh.
2.1.Tư cách người cách mệnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Đảng ta không từ trên trời sa xuống, Đảng cũng
ở trong xã hội”. Do đó chất lượng đội ngũ những người làm cách mạng là nhân tố quyết
định đến sự thành bại của cách mạng. Việc rèn luyện tư cách, phẩm chất người cách
mệnh phải được thực hiện phù hợp với yêu cầu đặt ra của cách mạng cũng như trong
công cuộc xây dựng CNXH sau này. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927) Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Muốn làm cách mạng thành công, người cách mạng trước hết phải có
tư cách cách mạng. Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”,
trong đó chủ yếu là các tư cách đạo đức.
Tư cách của người cách mệnh là sự thống nhất biện chứng 3 mối quan hệ cơ bản nhất
của con người: quan hệ với mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc.
Người đã chỉ rõ những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người cộng sản thông qua
hệ thống thái độ và hành vi rất cụ thể: “Tự mình phải: Cần kiệm; Hòa mà không tư; Cả
quyết sửa lỗi mình; Cẩn thận mà không nhút nhát; Hay hỏi; Nhẫn nại (chịu khó); Hay
nghiên cứu, xem xét; Vị công vong tư; Không hiếu danh; không kiêu ngạo; Nói thì phải
làm; Giữ chủ nghĩa cho vững; Hy sinh; Ít lòng tham muốn về vật chất; Bí mật. Đối
người phải: Với từng người thì khoan thứ; Với đoàn thể thì nghiêm; Có lòng bày vẽ cho
người; Trực mà không táo bạo; Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh
kỹ càng; Quyết đoán; Dũng cảm; Phục tùng đoàn thể”. Mỗi người phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng bởi chỉ có thế thì mới có thái độ và hành vi xử thế đúng đối
với tổ chức, đồng nghiệp và quần chúng mà họ phải lãnh đạo; mới đủ khả năng hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
6


2.1.1. Tự mình phải:
“Tự mình phải” là yếu tố thuộc nội lực có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến sự tiến bộ

của mỗi người. Mỗi người cách mạng cần rèn luyện để hoàn thiện bản thân, đó là cơ sở
cho sự tiến bộ của tổ chức, của xã hội.
- Cần Kiệm:
Cần, Kiệm là phẩm chất cần có của mọi người lao động trong đời sống, trong công
tác. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là phẩm chất gắn liền với hoạt động thực tiễn,
được thể hiện cụ thể hàng ngày của mỗi con người không thể che đậy được; gắn chặt
giữa nói và làm, giữa suy nghĩ và hành động. Thể hiện cụ thể:
+Cần: tức là lao động cần cù siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của chúng ta”.
Người chỉ ra cách thực hiện Cần sao cho có kết quả. Đó là làm việc phải có kế
hoạch, dù công việc gì, to hay nhỏ, lớn hay bé, đều phải sắp xếp khoa học và tính toán
cẩn thận. Phân công công việc theo năng lực của từng người, như vậy sẽ không bị mất
thời gian và hiệu quả công việc cao. Cần phải đi đối với Chuyên. Nếu không chuyên thì
cũng vô ích. Cần không phải là xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khoẻ, tinh thần và lực
lượng để làm việc lâu dài. Một người lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công
việc của rất nhiều người khác. Cần là nâng cao năng suất lao động. Khi nói với công
nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì Bác nhắc: "Phải nâng
cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, nghỉ sớm,
không ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội không có kỷ luật,
đánh giặc nhất định thua; nhà máy không có kỷ luật lao động, không phải là nhà máy
tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác đưa ra hay ở đâu đưa đến, mà chính là các cô, các
chú bàn bạc, thông qua, tự giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo không được”.

7


+ Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại

thành cái to; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Bác cho rằng cần tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền của của dân, của nước, của
bản thân từ cái nhỏ, đến cái lớn. Bởi vì, của cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời
gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại. Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì,
nghề gì cũng phải chăm chỉ, làm nhanh, không nên lần nữa. Không nên ngồi lê, nói
chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác. Theo Bác tiết kiệm không phải là “bủn
xỉn”, “tiết kiệm là quốc sách”. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên
tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu
công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà
không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm.
Để thực hành tiết kiệm phải kiên quyết với những việc làm xa xỉ, như kéo dài thời
gian lao động không cần thiết, làm hao phí vật liệu trong sản xuất, luôn tìm cách ăn
ngon, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn khó khăn, thiếu thốn, v.v... Phải biết cách tổ
chức thì tiết kiệm mới có hiệu quả. Trong “Đường Kách Mệnh”, Người có viết thực
hành tiết kiệm bằng cách: Khi tổ chức Công hội có tiền thừa, thì nên làm những việc
như lập trường học cho công nhân, con cháu công nhân, lập nơi xem sách báo, nhà
thương, nhà ngủ, nhà hát...
“Cần” với “Kiệm” đi đối với nhau như hai chân của một người. “Cần” mà không
“kiệm” “thì làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ
vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Kiệm mà không cần, thì
không tăng thêm, không phát triển được. Người viết “10 người muốn ăn cơm, mỗi
người riêng một nồi, nấu riêng một bếp, nấu rồi ăn riêng, ăn rồi ai nấy dọn dẹp riêng
của người nấy, thế thì mất hết bao nhiêu củi, nước, công phu và thì giờ”. Như vậy mỗi
người cần biết "Cần", "Kiệm" để làm giàu cho đất nước.

8


- Hòa mà không tư:

Hòa mà không tư có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì
một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích
riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Vốn
là người rất am hiểu về Nho giáo, nên khi nêu “hòa mà không tư”, có lẽ Người muốn
nói đến mệnh đề Nho giáo "thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi
người mà không a dua" song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức
mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là
nghĩa lớn đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là
mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì mục đích có đồng thì chí mới đồng,
chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng. Chỉ có hướng sự đoàn kết
vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng
chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ. Trong lịch sử nước ta đã từng
có những tấm gương gác hận thù riêng vì đại nghĩa, vì lợi ích sống còn của dân tộc, vì
nền độc lập của Tổ quốc. Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng quên
mình vì đại nghĩa "Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của
Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân". Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thuyết phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn
kết một lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Để đại đoàn kết với
mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho
mọi người. Bác Hồ quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự,
người phục vụ gần gũi đến quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi
tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc,
có nhà ở, được học hành. Ngoài sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến
đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của mọi tầng lớp. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu
cho chúng ta tấm gương đoàn kết rộng rãi bởi một lẽ rất giản đơn: Người muốn huy
động tiềm năng của cả dân tộc vào sự nghiệp chung, Người luôn mong muốn thêm bạn
9



bớt thù. Người tin ở tính hướng thiện của mọi người, trong bất cứ con người nào và
Người cũng tìm thấy những nhân tố tốt đẹp đó.
- Cả quyết sửa lỗi mình:
Mục đích của việc cả quyết sửa lỗi thì theo Bác Hồ là cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; mỗi cán bộ, đảng
viên hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt,
được như thế trong Ðảng sẽ không có bệnh và Ðảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng. Trong tác
phẩm có đoạn viết cụ thể là trang 401 sau cuộc cách mệnh năm 1905 thất bại Đảng đã
nghiên cứu lại, phê bình lại, sai lầm ở đâu, vì sao mà thất bại? Biết rõ ràng những chỗ
khuyết điểm mà sửa sang lại. Việc biết nhận ra lỗi và sửa lỗi có liên quan đến vấn đề
đoàn kết trong Ðảng. Do vậy, mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng
cường sức mạnh đoàn kết, như Bác nói: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê
bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình
để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà
để đi đến đoàn kết hơn nữa”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan ở
mỗi người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Người nói: “Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên”. Hồ Chí Minh
nhắc lại câu của Khổng Tử: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải
làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được... Muốn cải tạo xã hội thì lòng
mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng
mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”.
- Cẩn thận mà không nhút nhát:
Làm việc gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận, nhưng cẩn thận ở đây không có nghĩa là
quá nhút nhát, không dám đương đầu với khó khăn gian khổ đồng thời phải xem xét
hoàn cảnh thực tế rồi mới hành động khi có thời cơ thuận lợi thì phải mạnh dạn, dũng
cảm, quyết đoán, có như vậy thì mới đem lại kết quả.

10



- Hay hỏi:
Người cách mệnh luôn phải tự mình đặt ra những câu hỏi cần phải làm gì và làm như
thế nào, bên cạnh đó cần phải học hỏi, tiếp thu ý kiến của người khác không dấu dốt.
Thể hiện tinh thần cầu thị, cầu tiến bộ của người cách mạng. Phải nỗ lực học tập mọi
lúc mọi nơi, học thầy học bạn, để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng giao cho, không dấu diếm khuyết điểm, không dấu dốt.
- Nhẫn nại:
Cách mạng là sự nghiệp lớn lao và luôn diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn vì vậy đòi
hỏi người cách mệnh phải kiên trì bền bỉ chịu đựng những khó khăn trong công việc,
đây là một đức tính rất quan trọng và cần thiết để giành được thắng lợi cuối cùng.
- Hay nghiên cứu xem xét:
Khi làm cách mạng đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế
giới. Qua đó Hồ Chí Minh thấy rằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga là đã thành công và
thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật
không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông
các nước và dân bị áp bức ở các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ
nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh
thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải
hy sinh, phải thống nhất.
- Vị công vong tư:
Là luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân vì lợi ích của tập thể có thể
hi sinh lợi ích của bản thân. Đây là một trong những đức tính tạo nên phẩm chất cao
quý của người cách mệnh.

11


- Không hiếu danh, không kiêu ngạo:
Yêu cầu người cách mạng phải hết sức khiêm tốn, phải phục tùng sự phân công của

tổ chức, không hiếu dân, hiếu vị, không lên mặt dạy đời; không coi thường cấp dưới,
không nịn nọt cấp trên, không chạy theo danh lợi cá nhân mà phải đặt lợi ích chung của
tập thể, mục tiêu vì sự nghiệp cách mạng lên trên, không vì lợi ích cá nhân mà ảnh
hưởng đến lợi ích của tập thể. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất
bại cũng không sợ sệt, dụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững
tinh thần người cách mệnh “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lo hoàn thành nhiệm vụ
tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa. Khi đã là người có chức quyền thì không tỏ ra kiêu ngạo, coi mình là trên hết mà
coi thường quần chúng. Trang 434 trong tác phẩm khi nói về cách tổ chức công hội Bác
viết “người cách mệnh chớ có bỉ thử mình khéo hơn, lương cao hơn mà khinh người
vụng và ăn tiền ít. Chớ cậy mình là nhiều tuổi mà muốn làm đàn anh,…”
- Nói thì phải làm:
Người cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải có tinh thần phụ trách, thành
tâm phụ trách. Khi đã có quyết định chính xác thì phải quyết tâm thực hiện, dù khó
khăn đến mấy cũng phải tìm mọi cách để cho quyết định được thực hiện. Bác thường
nói: “Quyết tâm không phải ở hội trường, ở lời nói, mà phải quyết tâm trong công tác,
trong hoạt động... Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm
khắc phục khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính
phủ... bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được”. Khẳng
định một trong ba nguyên tắc đạo đức của Người: Nói thì phải làm; xây đi cùng với
chống và tu dưỡng đạo đức suốt thời. Ở đây chúng tôi xin đi sâu vào nguyên tắc đầu
tiên của đạo đức trong tư tuởng Hồ Chí Minh là "Nói thì phải làm". "Nói thì phải làm",
chỉ với bốn từ đơn giản tưởng chừng như rất dễ thực hiện ấy, nhưng suốt cả cuộc đời
mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng phấn đấu làm gương cho sự thống nhất
giữa tư tưởng, lời nói với hành động và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam quanh vinh và Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
12


khác trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,

giành độc lập tự do cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và với bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả lời
các nhà báo nước ngoài năm 1946 "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động, lời
nói đi đối với việc làm, là điều không dễ, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng, bền bỉ và
một quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé, khó hay dễ, phức
tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công
được. Kết quả công việc là thước đo của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên và
những người làm công tác lãnh đạo thì lời nói với việc làm lại càng quan trọng và cần
thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn,
được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra công việc
tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến
lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm
thì sẽ chỉ mang lại những kết quả phản tác dụng. Nếu chính mình tham ô mà bảo người
khác liêm khiết thì không được. Nếu rói rằng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,
mà bản thân mình lại lười biếng, không hoàn thành những công việc được giao, không
tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều
thiếu thốn , luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân... thì những lời nói đó
sẽ không có tác dụng giáo dục.
Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống mình vì mọi
người, mọi người vì mình, phương châm và nguyên tắc sống "Nói thì phải làm" cần
phải được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Làm đựơc như vậy là
chúng ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác Hồ luôn mong muốn và căn dặn.
13



- Giữ chủ nghĩa cho vững:
Là phẩm chất hàng đầu, là yêu cầu cốt yếu nhất của người cách mạng. Đó là phải
giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, suốt đời trung thành, kiên định với lý tưởng cách
mạng. Có như vậy mới xây dựng được niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của
cách mạng, không dao động trước khó khắn gian khổ, thậm chí hi sinh cả tính mạng
mình.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". Người khẳng định dứt
khoát: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin". Trong tình hình hiện nay càng
phải khẳng định niềm tin đó. Nếu chúng ta để mất niềm tin sẽ mất tất cả.
Trong sự nghiệp cách mạng các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, xuyên tạc
chủ nghĩa Mác – Lênin, với những thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ, gây rối, tìm mọi cơ hội để
gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Vì vậy, đòi hỏi người cách mạng phải luôn giữ vững
lập trường tư tưởng chính trị, kiên định với con đường đã chọn – cách mạng vô sản.
- Hy sinh:
Lý tưởng cộng sản vô cùng trong sáng, tươi đẹp. Nhưng để đi đến tương lai tươi sáng
đó là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ vượt qua bao khó khăn thử thách. Vì
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không bao giờ chịu từ bỏ quyền lợi của mình
mà luôn tìm mọi cách, thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo để thực hiện mưu đồ của chúng.
Nên mỗi người khi bước vào hoạt động cách mạng phải xác định tinh thần sẳn sàng hi
sinh cho lý tưởng công sản, kể cả hi sinh cả tính mạng mình.
- Ít lòng tham muốn về vật chất:
Là không tham danh vị, không tham tiền. Có gan chống lại những ham muốn vinh
hoa, phú quý không chính đáng. Ngay từ năm 1927, khi còn đang hoạt động cách mạng
ở nước ngoài, mở các lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho công
14



cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, Bác đã nhắc tới điều này trong tác phẩm
Ðường Kách mệnh. Bác rất ghét những kẻ luôn tìm cách đút túi mình tài sản của dân,
bởi tham ô là thói rất xấu, rất có hại, không những phí phạm của cải của xã hội, mà còn
làm vẩn đục chế độ, mất cán bộ. Tham ô là tội ác.
- Bí mật:
Trong cách mạng phải đề ra đường lối , xây dựng tổ chức, trong tổ chức có sự đoàn
kết thống nhất cao. Giữa tổ chức và cá nhân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau
nên người cách mệnh trong quá trình hoạt động, phải luôn tuyệt đối giữ bí mật về tài
liệu công tác tổ chức.

2.1.2. Đối với người phải:
- Với từng người phải khoan thứ:
Nêu cao tình cảm cách mạng cao cả của những người cùng chí hướng, luôn khoan
dung, độ lượng. Khi đồng chí mắc khuyết điểm phải góp ý chân thành với ý thức xây
dựng tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng chí sửa chửa khuyết điểm, không dấu diếm
khuyết điểm, nhưng cũng không ghen ghét, đố kị hoặc có ấn tượng xấu với người mắc
khuyết điểm.
- Với đoàn thể thì nghiêm:
Nêu cao ý thức tập thể,luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết, trước hết cách mạng
không loại trừ tự do cá nhân, nhưng yêu cầu mỗi người cách mạng phải biết đặt lợi ích
cá nhân trong lợi ích tập thể. Khi được tổ chức cách mạng giao nhiệm vụ thì phải tuyệt
đối phục tùng, dù phải vượt qua gian khổ hoặc phải hy sinh tính mạng.
- Có lòng bày vẻ cho người:
Thể hiện lòng vị tha, những gì mình biết người khác chưa hiểu phải luôn tìm cách
giúp đỡ , bày vẽ để cùng tiến bộ và hoàn thành nhiệm vụ chung. Có lòng bày vẽ cho
người hoàn toàn khác với thói ích kỷ, tự cao tự đại.
15


- Trực mà không táo bạo:

Phẩm chất thẳng thắn, trung thực, quyết đoán nhưng không vội vàng hấp tấp khi giải
quyết công việc nhất là khi góp ý cho người khác phải nghiên cứu, phải xem xét hoàn
cảnh cụ thể, toàn diện, đúng mức. Tránh chủ quan, phiến diện, nóng vội dễ dẫn đến thất
bại.
- Hay xem xét người:
Thể hiện tinh thần tập thể cao, đồng thời phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ, sống
chan hòa, thân ái với đồng chí đồng đội luôn học hỏi lẫn nhau những điều hay, điều tốt,
góp ý chân thành những thiếu sót, khuyết điểm cùng nhau sửa chữa, cùng tiến bộ.

2.1.3. Làm việc phải:
- Xem xét hoàn cảnh kĩ càng:
Trước khi thực hiện công việc phải nghiên cứu, phải đánh giá điều kiện khách quan
chủ quan, thuận lợi, khó khăn, khả năng tổ chức thực hiện để có quyết định đúng đắn:
tránh vội vàng, chủ quan phiến diện sẽ dẫn đến thất bại.
Trước sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, tác giả quyết định ra đi tìm đường cứu
nước, Người nhận ra để được tự do cần phải lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống giặc để
làm được điều đó phải làm cách mệnh. Vậy cách mệnh trước hết là phải làm cho dân
giác ngộ, phải giảng giải lí luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, dân vì không hiểu tình thế
trong thế giới, không biết so sánh, không có mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên
làm lại không làm. Cách mệnh phải hiểu phong triều, phải bầy sách lược cho dân. Do
đó để làm cách mệnh thành công phải xem xét hoàn cảnh trong và ngoài nước để từ đó
tập trung lực lượng đánh giặc. Khi vừa lấy được Pari, chính quyền còn non trẻ, các thế
lực phản cách mạng tìm mọi âm mưu thủ đoạn để chống phá, trong hoàn cảnh đó công
xã không xem xét kĩ càng, đúng đắn, tổ chức không khéo léo đưa ra những quyết đoán
sai lầm, dẫn đến việc công xã Pari tan rã.
- Quyết đoán:
16


Thể hiện tác phong, phương pháp giải quyết công việc một cách dứt khoát. Khi đã

nhận nhiệm vụ cách mạng giao cho thì phải kiên quyết tìm mọi cách thực hiện; không
rụt rè, bàn lùi, thoái chí sẽ dẫn đến thất bại, việc tốt, việc hay, việc có lợi cho cách
mạng thì dù nhỏ cũng kiên quyết làm; việc xấu việc sai, dù có đem lại lợi ích cho bản
thân thì cũng kiên quyết tránh.
Làm cách mạng rất khó khăn và nguy hiểm, vì vậy người cách mạng phải suy xét
hoàn cảnh và đưa ra quyết định phù hợp đối với cách mạng, phải quyết đoán không do
dự làm lỡ mất thời cơ. Tại trang 403 khi nói về quyết đoán thì tác giả viết: Cuối tháng
10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muộn cử sự. Nhưng ông Lê-nin bảo “Khoan đã!
Chờ ít bữa nũa cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự”. Đến ngày 5-11,
chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho công, nông.
Ông Lênin nói với đảng viên rằng: mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật
lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét chính phủ
lắm. Mùng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy chính phủ biết rằng dân oán và đã phòng bị
nghiêm nhặt rồi. Quả nhiên ngày mồng 7 Đảng cộng sản hạ lệnh cách mệnh, thì thợ
thuyền ào đến vây Chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp
thì lính ùa theo thợ thuyền mà trở lại đánh Chính phủ.
- Dũng cảm:
Đức tính cao quý của người cách mạng, thắng không kiêu, bại không nản, tìm mọi
cách để thực hiện mọi cách để thực hiện nhiệm vụ được giao, dù phải vượt qua vô vàn
khó khăn, gian khổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng cũng quyết tâm hoàn thành. Trong
cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh vì
vậy nếu như không có lòng dũng cảm thì không thể làm cách mạng thành công. Trong
tác phẩm Hồ Chí Minh (Trang 393) có nhắc đến nhân dân Pháp trong cách mệnh Pháp;
Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp
nổi loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính cách mệnh gọi là “Lính không quần”, gầy
bụng đói. Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đấy. Thế thì biết một người
cách mệnh có gan hơn một người vô chí.
17



- Phục tùng đoàn thể:
Người cách mạng tham gia hoạt động trong một tổ chức đoàn thể nhất định, nên đòi
hỏi phải có ý thức tập thể, tính kỷ luật cao. Khi được tổ chức, toàn thể phân công công
tác thì phải tuyệt đối chấp hành; phải đặt lợi ích của đoàn thể lên trên hết, sẵn sàng hy
sinh quyền lợi của cá nhân vì lợi ích của đoản thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây
dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ
luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt,
nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về
phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân
dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu
mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong
Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. "Nhờ đoàn kết chặt
chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái
đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù
ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm
tròn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình".
Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng, của
tập thể trước lợi ích của cá nhân. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Trong một số
trường hợp cá nhân phải biết hi sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của tập thể.
Tóm lại, “Tư cách người cách mệnh” là phác họa cơ bản và đầu tiên về đạo đức để
người cách mạng có đủ uy tín tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Đó là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tinh thần cách mạng tiên tiến, triệt để của giai cấp công nhân và truyền

18



thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

Tư cách người cách mệnh đã phác họa một cách cơ bản chân dung đạo đức của
một người cán bộ, đảng viên mang trọng trách cách mệnh trong mình. Nhưng tục ngữ
có câu “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, chỉ có những
người cán bộ và đảng viên là chưa đủ gánh vác trọng trách làm cách mạng mà toàn dân
ta, mỗi con người phải là một chiến sĩ kiên trung trên mặt trận này. Có thể không cần
mang nhiều những phẩm chất của con người cách mệnh nhưng mỗi chiến sĩ phải thấm
nhuần đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh - đó là tinh túy, là cốt lõi của tư cách người
cách mệnh.

2.2.1. Trung với nước hiếu với dân.
Có thể khẳng định rằng đây là phẩm chất quan trọng nhất đối với cong người
cách mạng, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "Trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản
ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó thực sự là
một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức do Hồ Chí Minh khởi xướng.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa
là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc
19


đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất

nước hòa bình, đang tiến lên chủ nghĩa như hiện này thì phẩm chất này càng cần phát
huy hơn bao giờ hết. Nó là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cá nhân, là tiền đề tạo
nên sức mạnh đấu tranh chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch và xây dựng
đất nước.
2.2.2. Yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh
đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp
nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người
lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không
trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của
Người.
Tình yêu thương con người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và
nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con
người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".
Trong “Di chúc”, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con
người.
20


2.2.3. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Như ở trên đã nói:

Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại
thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham
lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham
người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi
điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc".
“Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
21


2.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề
"Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động
cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là
tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới

vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn
nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo
của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương
đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau.
Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt,
việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức
tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự
trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh
22


chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ
trong ra.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo
đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu
dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc

xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với
dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp
bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho
mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo
đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động
phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức
cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm
23


chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải
đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang
làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá
nhân", đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế
độ. Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại hình
là tham ô, lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy
hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”,
“giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô,
lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi "Việt gian, mật thám". Người cho rằng: "Việc
tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu
với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót".

Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống
đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các nguyên
nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn
tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm
vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.
Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc
Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .

CHƯƠNG II: HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH

24


1. Thực trạng đạo đức, lối sống trong sinh viên, cán bộ và Đảng viên hiện nay
Hơn 40 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di chúc" căn dặn
toàn Đảng, toàn dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng, những việc cần phải làm vì sự
nghiệp cách mạng. Những lời dặn của Người trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau, cũng như tu dưỡng đạo đức suốt đời của một người cách mệnh
vẫn giữ nguyên giá trị lớn, có ý nghĩa sâu sắc. Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó không
chỉ là lực lượng trực tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội
ngũ kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển sự nghiệp
của những thế hệ đi trước. Trong “Di chúc”, Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân phải
luôn ghi nhớ rằng, “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết”. Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa học của một lãnh tụ cách
mạng, phản ánh tầm nhìn xa trông rộng của một nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó

đã trở thành một chân lý của cách mạng.
Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu xa, bất công và phi
nhân tính thành một xã hội mới, tốt đẹp và công bằng cho tất cả mọi người là một quá
trình đầy cam go, thử thách. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, khi đề cập đến
tính chất phức tạp của những nhiệm vụ cách mạng, chẳng hạn như vấn đề chính quyền,
V.I.Lênin từng nói rằng, đấu tranh giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính
quyền cách mạng còn khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, có độc lập, tự
do mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì; nhân
dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm... Chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy những quyền con người hết sức tự nhiên và
chân chính ấy. Nhưng, chủ nghĩa xã hội không phải muốn là tức khắc có ngay, mà chỉ
có thể là kết quả của cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con người. Đó là cuộc chiến đấu của
toàn Đảng, toàn dân. Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là một quá
trình lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do vậy, đòi hỏi sự
hy sinh, cống hiến quên mình của nhiều thế hệ cách mạng. Thực vậy, trong tiến trình
25


×