Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Nâng cao hiệu quả dạy học phần kiến thức sinh học tế bào, sinh học 10 bằng hình thức hoạt động nhóm hợp tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.01 KB, 92 trang )

i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

--------š²œ--------

NGUYỄN THANH HUỲNH

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC PHẦN KIẾN
THỨC SINH HỌC TẾ BÀO, SINH HỌC 1O BẰNG
HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM HỢP TÁC

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn sinh học
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đình Nhâm

Vinh – 2015


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thanh Huỳnh


LỜI CẢM ƠN


iii
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất đến PGS.TS Nguyễn Đình Nhâm, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi
trong suốt thời gian làm đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo khoa Sinh học - Trường
Đại học Vinh, các thầy giáo tham gia giảng dạy các chuyên đề chuyên ngành Lí
luận và phương pháp dạy học môn Sinh học đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cám ơn các thầy giáo, cô giáo bộ môn Sinh học tỉnh Hà Tĩnh, Ban
Giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo bộ môn Sinh học, các em học sinh của trường
THPT Nguyễn Huệ và trường THPT Nguyễn Thị Bích Châu, Huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh đã nhiệt tình giúp đỡ, hợp tác, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và thực nghiệm sư phạm.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân đã luôn động viên, giúp đỡ để
tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả

Nguyễn Thanh Huỳnh

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1


iv
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................1
1.1.1. Trên thế giới...................................................................................................6
1.1.2. Ở Việt Nam ....................................................................................................8

1.2.1. Lý thuyết về hợp tác nhóm..........................................................................10
1.2.3.4.3. Nhóm kim tự tháp (Pyramid)................................................................18
Mô hình kim tự tháp..............................................................................................18
1.3.1. Thực trạng dạy học Sinh học ở các trường THPT....................................24
1.3.3. Đặc điểm nội dung kiến thức kiến thức phần Sinh học Tế bào - Sinh học
10............................................................................................................................. 28

1.3.4 Phân tích cấu trúc và nội dung phần Sinh học tế bào, SH 10....31
Chương 2. TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO NHÓM TRONG DẠY HỌC PHẦN
SINH HỌC TẾ BÀO - SINH HỌC 10..................................................................34
2.3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC PHẦN SINH HỌC
TẾ BÀO BẰNG HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM......................................59
Bảng 3.5. Bảng phân phối tần suất lũy tích.........................................................68

3.4.2. KẾT QUẢ ĐỊNH TÍNH................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................71


v

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13

Từ viết tắt
ĐC
GV
HS
KHTN
NXB
SGK
SH
SV
TB
THCS
THPT
TN
VSV

Viết đầy đủ
Đối chứng
Giáo viên
Học sinh
Khoa học tự nhiên
Nhà xuất bản
Sách giáo khoa
Sinh Học
Sinh vật

Tế Bào
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Thực nghiệm
Vi sinh vật

DANH MỤC HÌNH, BẢNG


vi
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

20

Tên hình, bảng, sơ đồ
Bảng 1.1. Các bước cơ bản của quy trình tổ chức giờ học theo
nhóm
Sơ đồ 1.2: Các bước của quy trình hoạt động nhóm trong dạy học
Bảng 1.3. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên
Sinh học
Bảng 1.4: Đánh giá của giáo viên về vai trò của việc tổ chức dạy
học theo nhóm
Bảng 1.5. Bảng điều tra HS về việc sử dụng PPDH tích cực trong
dạy học sinh học
Bảng 2.1. Bảng Kiến thức kiến thức phần Sinh học Tế bào có thể
dạy học theo nhóm
Hình 2.1. Các bậc cấu trúc của prôtêin.
Hình 2.2. Cấu trúc của ADN và ARN
Hình 2.3 Sơ đồ 2 pha của quang hợp
Hình 2.4 Sơ đồ chu trình Crep
Hình 2.5 Quá trình nguyên phân
Hình 2.6. Các giai đoạn của phân chia tế bào chất
Bảng 3.1. Bảng phân phối tần suất
Bảng 3.2. Bảng phân phối tần suất lũy tích
Hình 3.1. Đồ thị đường luỹ tích kết quả thực nghiệm ở trường
Nguyễn Huệ
Bảng 3.3. Bảng tổng hợp các tham số đặc trưng
Bảng 3.4. Bảng phân phối tần suất
Bảng 3.5. Bảng phân phối tần suất lũy tích
Hình 3.2. Đồ thị đường luỹ tích kết quả thực nghiệm ở trường THPT
Nguyễn Thị Bích Châu
Bảng 3.6. Bảng tổng hợp các tham số đặc trưng


Trang
19
20
23
24
25
31
39
41
43
51
54
55
56
56
57
57
59
59
60
60


1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Để theo kịp sự phát triển của thời đại, hòa nhập với nền kinh tế thế giới, đòi

hỏi sự nghiệp giáo dục của Việt Nam phải đổi mới mạnh mẽ toàn diện và đồng bộ,
nhằm đào tạo ra những con người phát triển toàn diện.
Luật giáo dục 2005, khoản 2, điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng môn học, lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [18].
Nghị quyết số 29-NQ/TW 8 khóa XI ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhận định: “Giáo dục và Đào tọa là quốc
sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý
luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [23].
Để thực hiện được mục tiêu trên ngoài việc đổi mới mục tiêu, nội dung, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện thì việc đổi mới phương pháp dạy học
là vấn đề then chốt. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học
tích cực” nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tình thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những
tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng
thú trong học tập
Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với bài, sẽ là cách tốt nhất trang bị,
củng cố kiến thức cho các em. Đồng thời rèn luyện cho các em kĩ năng phân tích
tổng hợp, kĩ năng khái quát hoá, kĩ năng so sánh, kĩ năng hợp tác nhóm… Giúp các
em biết vận dụng các kiến thức vào đời sống sản xuất, đáp ứng yêu cầu giáo dục


2

tổng hợp, hướng nghiệp cho học sinh khi ra trường và tiếp tục theo học ở các bậc
học cao hơn.
Hoạt động nhóm là một trong những phương pháp dạy học đáp ứng được
những yêu cầu trên. Sử dụng PPDH hợp tác nhóm đã vận dụng được các kỹ thuật
dạy học tích cực có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kỹ năng hợp tác nhóm
của học sinh như kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh,…thông qua hoạt động nhóm
học sinh còn được rèn luyện những kỹ năng xã hội như kỹ năng cộng tác làm việc,
giao tiếp, giải quyết vấn đề phức hợp, những tình huống phát sinh trong thực tiễn
học tập.
Giúp học sinh có khả năng trình bày, thuyết trình trước tập thể một cách tích
cực, qua đó học sinh được bộc lộ tính cách, năng lực cá nhân, giúp học sinh rèn
luyện khả năng diễn đạt, trình bày ý tưởng của mình, có thể tự tìm tòi, mạnh dạn
đưa ra ý kiến của mình, các em có thể tham khảo ý kiến lẫn nhau, từ đó có thể học
tập lẫn nhau, hình thành một thói quen tự suy nghĩ, tự học tập, tự nghiên cứu, từ đó
giao tiếp tự tin hơn trong học tập và cuộc sống.
Góp phần hình thành năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá cho học sinh thông qua
việc so sánh đối chiếu hiệu quả làm việc với các thành viên khác trong lớp học, tạo
điều kiện để học sinh có thể chia sẻ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, qua đó tự đánh
giá, tự điều chỉnh để hoàn thiện bản thân.
Thực tế giảng dạy các môn khoa học thực nghiệm nói chung và môn Sinh học
nói riêng ở nhà trường phổ thông hiện nay, về giáo viên, phần nhiều ngại sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực trong các giờ dạy dẫn đến hạn chế sự phát triển
tư duy của học sinh, mất dần đi những hiểu biết sáng tạo vô cùng lí thú của bộ môn
khoa học thực nghiệm này.
Trong chương trình SGK Sinh học 10, kiến thức phần Sinh học Tế bào mang
tính thực tiễn có nhiều nội dung kiến thức gần gũi với học sinh gợi cho học sinh
hứng thú tìm hiểu kiến thức và áp dụng vào thực tế hằng ngày. Đây cũng chính là
điều kiện thuận lợi cho việc thiết kế các hoạt động dạy học tích cực nhằm rèn luyện
kĩ năng cho học sinh, trong đó có kĩ năng hợp tác nhóm nhằm nâng cao hiệu quả
trong dạy học



3
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Nâng
cao hiệu quả dạy học phần kiến thức Sinh học tế bào, Sinh học 10 bằng hình
thức hoạt động nhóm hợp tác”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề xuất các cách tổ chức hoạt động nhóm thích hợp nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học kiến thức phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Hoạt động học tập theo nhóm kiến thức phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học kiến thức phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10 các trường
THPT tỉnh Hà Tĩnh bằng hình thức hoạt động nhóm hợp tác.
4. Giới hạn và Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động nhóm hợp tác trong dạy học kiến thức phần Sinh học Tế bào, Sinh
học 10 các trường THPT tỉnh Hà Tĩnh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu biết lựa chọn và tổ chức hợp lý các kiểu hoạt động nhóm trong giảng dạy
kiến thức phần Sinh học Tế bào thì không những nâng cao nhận thức mà còn góp
phần rèn luyện kỹ năng học tập cho học sinh
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài của việc dạy học
bằng hình thức hoạt động nhóm.
Nghiên cứu nội dung, chương trình Sinh học 10, kiến thức phần Sinh học Tế
bào
Xác định hệ thống các kiến thức có thể tổ chức dạy học theo nhóm và sử dụng
quy trình dạy học theo nhóm.
Xác định phương pháp và biện pháp tổ chức giờ học theo nhóm tại lớp để

nâng cao hiệu quả nhận thức cho học sinh từ đó thiết kế các cách thức tổ chức dạy
học theo nhóm.
Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của việc tổ chức dạy học theo
nhóm.


4
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài như:
- Lý luận về dạy học Sinh học.
- Tài liệu sách báo liên quan đến hình thức dạy học theo nhóm
- Tài liệu hướng dẫn chuyên môn, sách giáo khoa, sách giáo viên...
- Các công trình nghiên cứu về cải tiến phương pháp dạy học như: luận văn,
luận án, tạp chí, bài viết và các website làm cơ sở khoa học cho nghiên cứu.
7.2. Phương pháp điều tra cơ bản
Lập phiếu điều tra để tìm hiểu về thực trạng dạy học chương trình sinh học
nói chung và chương trình sinh học lớp 10 nói riêng.
Điều tra về việc học học tập theo nhóm tại lớp của môn sinh học của học sinh.
7.3. Phương pháp tham vấn chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi với những chuyên gia có kinh nghiệm về lĩnh vực nghiên cứu
để được tư vấn, thu thập thông tin định hướng cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
7.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Mục đích thực nghiệm
Đánh giá hiệu quả của việc tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm hợp tác tại lớp.
Đánh giá tính khả thi của việc tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm hợp tác tại lớp.

Phương pháp thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm chéo.
Nghiên cứu vai trò của hình thức hoạt động nhóm trong việc tổ chức dạy học

Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài
7.5. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
- Đánh giá định lượng:
+Sử dụng 1 số công cụ toán học để xử lí các kết quả điều tra, kiểm tra
+ Giáo viên cho học sinh làm bài kiểm tra rồi tiến hành chấm điểm. Căn cứ
vào số câu trả lời đúng của học sinh để quy đổi ra thang điểm 10, kết quả có làm
tròn đến 0.5.


5
+ Số liệu thống kê được xử lý theo các tham số: Trung bình cộng ( X ), sai số
trung bình (m), hệ số biến thiên ( C v ( 0 0 ) ), độ tin cậy ( t d ).
- Đánh giá định tính
+ Không khí tiết học
+ Năng lực tư duy của học sinh.
+ Năng lực hoạt động nhóm
8. Những đóng góp mới của đề tài
Xác định hệ thống các kiến thức có thể tổ chức dạy học theo nhóm của kiến
thức phần Sinh học Tế bào, Sinh học 10.
Thiết kế các cách tổ chức dạy học theo nhóm kiến thức phần Sinh học Tế
bào, Sinh học 10 nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức của học sinh.


6
Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Trên thế giới
Dạy học hợp tác nhóm là ý tưởng đã có từ rất lâu đời, đó là một một tư tưởng
dạy học dựa trên ý tưởng tất cả cùng làm việc, chia sẻ thông tin với nhau để đạt

được mục đích cuối cùng.
Người Do Thái cho rằng muốn học một điều gì cũng cần phải hợp tác với
nhau, để lĩnh hội được nội dung kinh Talmud mỗi người học phải có 3 thứ: một bản
kinh Talmud, một thầy dạy và một bạn học. Ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất, Marco
Fabio Quintilian cho rằng người học sẽ có rất lợi nếu biết nói những điều mình hiểu
cho người khác cùng hiểu. Đến thế kỷ thứ XVII, Jan Amot Komenxki (1592 - 1670)
tin rằng học sinh sẽ học tốt từ việc dạy cho bạn bè và học từ bạn bè của mình...Các
nhà giáo dục tiên tiến đều đã nói đến lợi tích của hợp tác nhóm, HS sẽ học với nhau,
giúp đỡ lẫn nhau, từ đó tạo ra một môi trường học tập thuận lợi [13].
Ý tưởng hợp tác nhóm được nhanh chóng đưa từ Anh sang Mỹ và đã nhận
được sự hưởng ứng, phát triển rộng rãi bởi những nhà giáo dục tiên phong như John
Dewey, Roger Parker, Morton Deutch...[6], họ đã đề cao khía cạnh xã hội của việc
học tập và cũng nâng cao vai trò của nhà giáo trong việc giáo dục học sinh một cách
dân chủ. Bối cảnh nền giáo dục nước Mỹ thế kỷ XVIII có sự cạnh tranh không lành
mạnh có hiện tượng kỳ thị, phân biệt chủng tộc trong giáo dục. Năm 1806 ở New
York (Mỹ) thành lập trường Lancaster bắt đầu vận dụng tư tưởng giáo dục hợp tác.
Tư tưởng này nhanh chóng phát triển rộng khắp nước Mỹ [28]. Đầu thế kỷ XIX, các
trường công ở Mỹ đề cao việc hợp tác nhóm nhằm đảm bảo cho những học sinh có
nguồn gốc khác nhau cùng học trong một trường để trở thành “người dân Mỹ”.
“Ngôi nhà lớp học” là nơi giáo viên dạy những học sinh có nguồn gốc khác nhau
cùng hợp tác trong học tập [28].
Trong thời gian từ năm 1930 đến 1940, nhà tâm lí học xã hội Kurt Lewin đã
nghiên cứu hành vi của các nhà lãnh đạo và thành viên trong các nhóm dân chủ.
Ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cách cư xử trong nhóm và xây dựng lý
thuyết cơ sở về hợp tác nhóm. Sau đó, Morton Deutsch đã phát triển lí luận về hợp


7
tác và cạnh tranh trên cơ sở “Những lí luận nền tảng” của Lewin [6]. Năm 1940,
Morton Deutsch đưa ra lí thuyết về các tình huống hợp tác và cạnh tranh [24]. Cuối

những năm 60 của thế kỷ XX, xã hội Mỹ phát động phong trào phản đối phân biệt
chủng tộc trên quy mô lớn [28]. Từ đó, nhiều nhà giáo dục cũng bắt đầu tìm kiếm
những con đường giáo dục để cải thiện quan hệ chủng tộc trong môi trường lớp học.
Trong những năm 70 của thế kỷ XX nhiều nhà nghiên cứu đã thành lập
nhóm “nghiên cứu hành động” để thiết kế các phương pháp sư phạm trên cơ sở các
mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân trong lớp học [28]. Tại hội nghị quốc tế đầu
tiên về hợp tác nhóm tại Israel vào năm 1979, David Johnson; Elliot Aronson;
Richard Schmuck và Larry Sherman đã đưa ra giải pháp “Hợp tác học tập” hay còn
gọi là hợp tác nhóm [6]. Họ đã trình bày bản chất, đặc điểm, cấu trúc, nguyên tắc
của hợp tác nhóm, học tập cá nhân, học tranh đua và đã chỉ ra ưu, nhược điểm của
từng cấu trúc của hợp tác nhóm. Đặc biệt, chỉ rõ muốn học tập tốt học sinh phải có
kĩ năng hợp tác nhóm đồng thời chứng minh rằng hợp tác nhóm góp phần tích cực
vào sự hội nhập giữa học sinh da đen và da trắng. Lí thuyết hợp tác nhóm của Kurt
Lewin được coi là cơ sở đưa đến hàng loạt những nghiên cứu và các cuộc tranh luận
sau đó [17]. Gần nhất là tại hội nghị quốc tế IASCE họp ngày 21 - 25/4 năm 2004
tại Singapore trong đó hợp tác nhóm đã được đưa ra để thảo luận và xác định kĩ
năng hợp tác nhóm phải được xem là định hướng trong dạy học (Brody et al, 2004)
[24]. Có thể nói Kurt Lewin đã tạo nên dấu ấn mới trong lịch sử phát triển tư
tưởng dạy học nhóm khi nghiên cứu các hành vi hợp tác và kết luận của ông với các
thế hệ học trò, cũng chính là đặc điểm cơ bản của dạy hoc theo hướng phát triển
KNHTN. Đặc biệt, kết quả các nghiên cứu trên đã gắn liền tên tuổi các nhà nghiên
cứu với các kỹ thuật hợp tác nhóm nổi tiếng dựa trên cơ sở lý luận và thực nghiệm ứng
dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới như: Kỹ thuật Puzzle Jigsaw (Aronson et al,
1978; Aronson, 2000), kỹ thuật Nhóm điều tra (Sharan & Sharan, 1992), kỹ thuật TGT
(Trò chơi giải đấu), kỹ thuật CIRC (Đọc hợp tác tích hợp và các thành phần [13].
Nhiều kỹ thuật cũng được sử dụng trong giáo dục đại học và giáo dục ở các
cấp bậc học phổ thông. Astin đã rút ra kết luận rằng: Sự tương tác giữa người học
với nhau và giữa người dạy với người học là những cơ sở rõ ràng nhất để có thể dự
đoán được những thay đổi tích cực về quan điểm nhận thức trong dạy học theo



8
hướng hợp tác nhóm bắt đầu phát triển mạnh từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX rộng
khắp trên thế giới. Ở Liên xô (cũ), tư tưởng chủ đạo của hợp tác nhóm làm cho HS
thích học, nhận thấy niềm vui trong học tập và tạo không khí học tập thoải mái. Đại
diện cho trường phái này là Amonashvily S. A.; Shatalov V. F.; Shchetimin M. P;
Ivanov I. P[28]. Ở Trung Quốc có các đại diện như: Sheng Qun Li và Zheng Shu
Zhen; Ngô Văn Bội; Vương Thản... cho rằng dạy học hợp tác giúp phát triển kĩ
năng hợp tác nhóm, tạo ra sự bình đẳng, hài hoà trong sự phát triển của HS [28].
Như vậy, từ các nghiên cứu ở khu vực khác nhau trên thế giới cho thấy về
tên gọi có đôi chút khác nhau nhưng nội hàm học tập hợp tác đều lấy quan hệ hợp
tác nhóm giữa HS với HS làm trung tâm để phát triển các mối quan hệ hợp tác giữa
con người với con người; vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện, vừa là môi trường của
dạy học có hiệu quả.
1.1.2. Ở Việt Nam
Hình thức hợp tác nhóm đã có từ lâu. Ông cha ta đã có câu:“ Học thầy không
tày học bạn”. Đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám, trong nhà trường có phong trào
học tập dân chủ, học tập nhóm, phong trào đó tồn tại và phát triển trong suốt những
thập kỷ vừa qua dưới những hình thức khác nhau. Học tập hợp tác nhóm diễn ra
dưới nhiều hình thức khác nhau như: Nhóm tự quản, nhóm đôi bạn cùng tiến, nhóm
ngoại khóa, nhóm sinh hoạt câu lạc bộ...Vào những năm 70 của thế kỉ XX, phong
trào học tập nhóm đã phát triển mạnh và có những kết quả tốt. Tuy nhiên, thời gian
đó hợp tác nhóm là phong trào tự phát, chưa có cơ sở khoa học vững chắc nên dần
dần lắng xuống.
Những năm gần đây, với xu thế đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt
động của học sinh, cùng với trào lưu hội nhập quốc tế, các nhà nghiên cứu đã nhận
thấy cần phải tổ chức cho học sinh học tập hợp tác theo nhóm. Phương pháp hợp tác
theo nhóm ngày càng được sử dụng nhiều trong các bậc học: Đại học, Cao đẳng
cũng như trung học phổ thông, trung học cơ sở, hoặc ở cấp tiểu học đang vận dụng
dạy chương trình VNEN cũng là một hình thức dạy học theo phương pháp hợp tác

nhóm. Phương pháp này đang dần tỏ ra có ưu thế vượt trội trong việc đáp ứng một
số kỹ năng cơ bản của người lao động hiện nay.


9
PPDH hợp tác không phải là một phương pháp mới, nó đã có và phát triển
mạnh mẽ trong 30 năm gần đây ở các nước phát triển. Các luận án, luận văn, các bài
viết nghiên cứu về lĩnh vực này ở nước ngoài rất nhiều và đa dạng, thậm chí còn có
một số website đào tạo GV trực tuyến về vấn đề học hợp tác hay giới thiệu các cấu
trúc hoạt động học tập hợp tác như: www.intime.uni.edu/; www.kaganonline.com;
www.co – operation.org …
Ở Việt Nam, về lĩnh vực hợp tác nhóm còn ít được nghiên cứu tuy nhiên đã
có một số tác giả nghiên cứu vấn đề này, bàn về vấn đề dạy học theo nhóm có một
số tác giả sau:
Trần Thị Thu Mai, (2000). “Về phương pháp học tập nhóm”
Nguyễn Thị Hồng Nam, (2002). “Tổ chức hoạt động hợp tác trong học tập
theo hình thức thảo luận nhóm”.
Lê Thị Thanh (2005): “Sử dụng phương pháp hợp tác theo nhóm để giảng
dạy một số bài trong chương Cơ sở vật chất di truyền”
Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Thị Hải (2006): “Sử dụng phương pháp hợp
tác theo nhóm để giảng dạy một số bài trong chương Sinh sản của Vi sinh vật,
Quần xã sinh vật và Hệ sinh thái”.
Hoàng Lê Minh, (2007).“Tổ chức dạy học hợp tác trong môn toán ở trường
THPT”
Nguyễn Thị Thu Trang,(2009). “Tổ chức hoạt động nhóm trong dạy và học
môn hóa học ở trường trung học phổ thông – phần hóa 10”
Quách Thế Vân, (2009). “Nâng cao hiệu quả dạy học phần sinh thái học lớp
12 THPT bằng hình thức hoạt động nhóm”.
Trần Thị Thanh Huyền, (2010).“Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác
nhóm nhỏ trong dạy học hóa học lớp 11 – chương trình nâng cao ở trường THPT”

Ngô Quang Long, (2011). “Nâng cao hiệu quả dạy học phần Sinh vật và
môi trường - Sinh học 9 bằng hình thức hoạt động nhóm hợp tác”.
Nguyễn Thị Thanh, (2013). “Dạy học theo hướng phát triển kỹ năng học tập
hợp tác cho sinh viên Đại học Sư phạm”


10
Lê Thị Duyên (2014), “Rèn luyện kĩ năng hợp tác nhóm cho học sinh trong
dạy học chương Sinh sản - Sinh học 11 THPT”),
Các đề tài nghiên cứu đã tập trung xác lập cơ sở lí thuyết cũng như cách vận
dụng phương pháp hợp tác nhóm vào thực tiễn dạy học.
Các đề tài nghiên cứu đều thể hiện được vai trò của hình thức hoạt động
nhóm hợp tác trong việc nâng cao hiệu quả dạy học đặc biệt sự phát triển toàn diện
về năng lực và phẩm chất cho học sinh.
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.2.1. Lý thuyết về hợp tác nhóm
1.2.1.1. Khái niệm hợp tác nhóm
Học sinh học tập hợp tác hay hợp tác nhóm trong học tập là một bước cải
tiến đột phá trong giáo dục, quan điểm học tập này được phổ biến ở các nước đang
phát triển và đã mang lại những thành tích đáng kể trong học tập, tạo được hứng
thú, hình thành các kỹ năng xã hội và tâm lý tích cực cho HS, SV. Các công trình
nghiên cứu thể hiện:
Hợp tác nhóm là cách thức học tập trong đó người học được tổ chức thành các
nhóm làm việc cùng nhau nhằm hoàn thành các nhiệm vụ học tập, giữa họ có sự
tương tác, hỗ trợ, phụ thuộc lẫn nhau, từ đó thói quen và các kỹ năng hợp tác được
hình thành và phát triển.
1.2.1.2. Khái niệm dạy học theo nhóm
Theo các các tác giả Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Trần Bá Hoành, Trần
Hồng Tâm, Trịnh Thị Bích Ngọc: Dạy học theo nhóm là một hoạt động học tập có
sự phân chia học sinh theo từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác nhau về trình độ,

cùng trao đổi ý tưởng, một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở là hoạt động tích cực của
từng cá nhân. Từng thành viên của nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập
của mình mà còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của bạn bè trong nhóm.
Cũng có thể hiểu dạy học theo nhóm hợp tác là việc sử dụng những nhóm nhỏ, qua
đó học sinh cùng nhau làm việc để mở rộng tối đa việc học của họ và của cả các
thành viên khác trong nhóm [30].


11
1.2.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của học hợp tác nhóm
* Ưu điểm:
Ưu điểm chính của hợp tác nhóm là thông qua cộng tác làm việc trong một
nhiệm vụ học tập có thể phát triển tính tự lực, sáng tạo cũng như năng lực xã hội,
đặc biệt là khả năng cộng tác làm việc, thái độ đoàn kết của HS. Hợp tác nhóm nếu
được tổ chức tốt, sẽ thực hiện được những chức năng và công dụng khác với dạy
học toàn lớp, do đó có tác dụng bổ sung cho dạy học toàn lớp:
- Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của HS: Trong học nhóm,
HS phải tự lực giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các
thành viên, trách nhiệm với nhiệm vụ và kết quả làm việc của mình. Hợp tác nhóm
hỗ trợ tư duy, tình cảm và hành động độc lập, sáng tạo của HS.
- Phát triển năng lực cộng tác làm việc: Hợp tác nhóm là phương pháp làm
việc được HS ưa thích. HS được luyện tập những kỹ năng cộng tác làm việc như
tinh thần đồng đội, sự quan tâm đến những người khác và tính khoan dung.
- Phát triển năng lực giao tiếp: Thông qua cộng tác làm việc trong nhóm,
giúp HS phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý
kiến người khác, biết trình bày, bảo vệ ý kiến của mình trong nhóm.
- Hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội : Hợp tác nhóm là quá trình học
tập mang tính xã hội. HS học tập trong mối tương tác lẫn nhau trong nhóm, có thể
giúp đỡ lẫn nhau, tạo lập, củng cố các quan hệ xã hội và không cảm thấy phải chịu
áp lực của GV.

- Tăng cường sự tự tin cho HS: Vì HS được liên kết với nhau qua giao tiếp xã
hội, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc phải sai lầm. Mặt khác, thông qua giao
tiếp sẽ giúp khắc phục sự thô bạo, cục cằn.
- Phát triển năng lực phương pháp: Thông qua quá trình tự lực làm việc và
làm việc nhóm giúp HS rèn luyện, phát triển phuơng pháp làm việc.
- Dạy học nhóm tạo khả năng dạy học phân hoá: Lựa chọn nhóm theo hứng
thú chung hay lựa chọn ngẫu nhiên, các đòi hỏi như nhau hay khác nhau về mức độ
khó khăn, cách học tập như nhau hay khác nhau, phân công công việc như nhau
hoặc khác nhau, nam HS và nữ HS làm bài cùng nhau hay riêng rẽ.


12
- Tăng cường kết quả học tập: Những nghiên cứu so sánh kết quả học tập của
HS cho thấy rằng, những trường học đạt kết quả dạy học đặc biệt tốt là những
trường có áp dụng và tổ chức tốt hình thức dạy học nhóm.
* Nhược điểm
Hợp tác nhóm đòi hỏi thời gian nhiều. Thời gian 45 phút của một tiết học
cũng là một trở ngại trên con đường đạt được thành công cho công việc nhóm. Một
quá trình học tập với các giai đoạn dẫn nhập vào một chủ đề, phân công nhiệm vụ,
làm việc nhóm và tiếp theo là sự trình bày kết quả của nhiều nhóm... những việc đó
khó được tổ chức một cách thỏa đáng trong một tiết học. Công việc nhóm không
phải bao giờ cũng mang lại kết quả mong muốn. Nếu được tổ chức và thực hiện
kém, nó thường sẽ dẫn đến kết quả ngược lại với những gì dự định sẽ đạt.
Trong các nhóm chưa được luyện tập dễ xảy ra hỗn loạn. Ví dụ, có thể xảy
ra chuyện là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong
nhóm không làm bài mà lại quan tâm đến những việc khác, trong nhóm và giữa các
nhóm phát sinh tình trạng đối địch, lo sợ và giận dữ. Khi đó, sự trình bày kết quả
làm việc sẽ cũng như bản thân quá trình làm việc của nhóm sẽ diễn ra theo cách
không thỏa mãn.
1.2.2. Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học

Xét về một phương diện nào đó, dạy học tức là tổ chức quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức là sự phản ánh một cách tích cực thế giới khách quan vào ý
thức con người. Việc giảng dạy một khoa học thực nghiệm như sinh học phải bắt
đầu bằng các sự kiện (sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ) và dựa trên các kiến
thức sự kiện để xây dựng các kiến thức lý thuyết (khái niệm, định luật, học
thuyết…). Do vậy, để tổ chức tốt quá trình dạy học, chúng ta cần chú ý đến những
đặc điểm tâm lý của học sinh như sự phát triển trí tuệ, khả năng tự điều chỉnh, tự tổ
chức, tự ý thức, tự đánh giá mà phát triển khả năng nhận thức cho học sinh. Cụ thể
ta nên chú ý đến các hướng cơ bản sau:
Sử dụng phương pháp dạy học mang tính chất nghiên cứu, kích thích được
hoạt động nhận thức, rèn luyện tính độc lập trong tư duy học sinh. Ví dụ như
phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy học bằng trò chơi mô phỏng, dạy học chương
trình hoá, dạy học theo nhóm…


13
Hình thành và phát triển ở học sinh năng lực giải quyết vấn đề, tăng cường
tính độc lập trong học tập. Bởi vì trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp
tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý
chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người,
kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Như vậy, giáo viên cần phải dạy cho học
sinh biết cách lập kế hoạch làm việc của mình, lựa chọn một chế độ làm việc tối ưu
hàng ngày, phân phối và sử dụng thời gian hợp lý thông qua việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập, bài tập cụ thể trong từng môn học.
Cần chú ý tổ chức trong giờ học các hình thức hoạt động tập thể của học sinh.
Trong các hoạt động này, mỗi học sinh sẽ thể hiện cách nhìn nhận của mình khi giải
quyết các vấn đề học tập. Điều đó sẽ thúc đẩy sự mở rộng phát triển tư duy, các
quan hệ xã hội, tình bạn và trách nhiệm trong mỗi học sinh.
Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học sẽ tạo điều kiện phát triển tư duy,
hứng thú học tập cho học sinh.

Như vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học cũng là
quá trình nhận thức khách quan thông qua quá trình nhận thức cảm tính và lý tính.
Đồng thời quá trình nhận thức học tập cũng được thực hiện qua các thao tác tư duy
cơ bản. Song hoạt động nhận thức của học sinh cũng có những nét đặc thù nhất
định. Trong dạy học sinh học, giáo viên điều khiển quá trình học nhằm tích cực hoá
được hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những phương pháp có thể đáp
ứng được yêu cầu trên là tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học.
1.2.3. Tổ chức hoạt động học tập theo nhóm nhằm nâng cao hiệu quả
nhận thức cho học sinh
Hầu hết sự học tập của chúng ta đều có gốc từ sự thành công thu được thông
qua hợp tác. Cùng với những người khác, chúng ta có thể làm được nhiều hơn và thu
được nhiều hơn chúng ta làm một mình. Học sinh có thể học tập được tốt nhất khi
chúng tiếp cận với năng lực phát động của những người xung quanh. Cơ sở của sự
thành công qua người khác là ngôn ngữ và truyền đạt. Chính là thông qua truyền đạt
hiệu quả mà những thiết chế lớn, các tổ chức xã hội và các nhóm công tác nhỏ đạt
được thành công [31].


14
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành
bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy- trò,
trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh
nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của mỗi cá
nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một
trình độ mới.[16]
1.2.3.1. Đặc điểm dạy học theo nhóm
- Hoạt động dạy học vẫn được tiến hành trên quy mô cả lớp, như mô hình giờ
học truyền thống.
- Việc phân chia nhóm học sinh vừa tuân theo đặc điểm tâm lý-nhận thức của
học sinh vừa phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập học sinh phải giải quyết.

- Trong mỗi nhóm phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, phải cùng hợp tác
giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm.
- Học sinh phải trực tiếp tham gia các hoạt động, giải quyết các nhiệm vụ học
tập được đặt ra cho mỗi nhóm.
- Giáo viên trong các giờ học tổ chức theo nhóm phải là người tổ chức, hướng
dẫn hoạt động cho học sinh chứ không phải làm thay, không áp đặt. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của giáo viên trong các giờ học này là phải căn cứ vào nhiệm vụ của giờ
học mà thiết kế các nhiệm vụ học tập cụ thể và các hoạt động để học sinh giải quyết
trong mỗi nhóm, đồng thời thiết kế các yêu cầu cụ thể cho mỗi nhóm, thiết kế các
bài tập trắc nghiệm để kiểm tra lại mức độ hiểu, kỹ năng thực hành, hành vi thái độ
cần hình thành ở học sinh.
- Có thể hiểu tổ chức giờ học theo nhóm là một kiểu tổ chức giờ học trên lớp,
nhưng tuỳ từng nhiệm vụ của mỗi giai đoạn giờ học, nếu thoả mãn một số điều
kiện, có thể tổ chức học sinh thành các nhóm, tiến hành các hình thức học tập khác
nhau để giải quyết bài tập của nhóm mình, qua đó đạt mục tiêu giờ học.
- Trò- chủ thể tích cực chủ động sáng tạo của hoạt động học tập: Dạy học
theo nhóm là sự tác động trực tiếp giữa học sinh với nhau, sự cùng phối hợp hoạt
động của họ. Với hình thức học tập theo nhóm không diễn ra sự tiếp xúc trực
tiếp giữa giáo viên với học sinh. Chỉ trong trường hợp cần thiết người giáo viên


15
mới tham gia vào công việc của nhóm riêng rẽ. Vai trò của người giáo viên
thông qua sự chỉ dẫn bằng ngôn từ được đề ra trước khi tiến hành công tác của
nhóm. Trong trường hợp giáo viên tham gia vào công tác của nhóm nhỏ đó thì sự
giao tiếp mang tính chất cá nhân hơn là tính chất công việc như trong hình thức
dạy học chung toàn lớp.
Công tác với toàn lớp trong điều kiện học tập nhóm tại tiết học có tính chất
hoàn toàn khác. Nhóm báo cáo trước toàn lớp công việc của mình. Nội dung từng
báo cáo đó đối với những học sinh của nhóm khác có thể là những thông tin mới.

Điều đó có nghĩa là những nhóm khác và từng học sinh riêng rẽ nắm tốt tài liệu đến
mức nào phụ thuộc vào chất lượng thực hiện nhiệm vụ của mỗi nhóm. Với sự thảo
luận các báo cáo, cả tính chất tác động lẫn nhau trong lớp cũng biến đổi. Nếu với
công tác dạy học toàn lớp như thường lệ sự tiếp xúc trực tiếp giữa học sinh ít, thì
bây giờ khả năng tiếp xúc như vậy tăng lên đáng kể. Và sự đánh giá lẫn nhau trong
công tác với toàn lớp nay có vai trò rất lớn.
Từ đó có thể nói công tác với toàn lớp trong điều kiện học tập nhóm tại lớp là
công tác có tính tập thể như là hình thức công tác độc lập.
- Giáo viên -“người thức tỉnh” tổ chức và đạo diễn: Trong giờ học theo nhóm,
giáo viên dẫn dắt học sinh khám phá, lĩnh hội kiến thức qua từng bước nhận thức, tổ
chức hoạt động tương hổ giữa học sinh với học sinh, để các nhóm học sinh tự tiến
hành các hoạt động của họ, qua đó có thể rút ra các tri thức cần thiết cho mình. Giáo
viên từ vai trò là người chủ của giờ học trở thành người tổ chức, điều khiển học sinh
tự tiến hành các hoạt động. Tuy nhiên, để giúp học sinh tránh những sai lầm, trong
tổ chức giờ học theo nhóm, cần có một khoảng thời gian để giáo viên tổ chức cho
học sinh làm việc, thảo luận chung cả lớp.
- Nhóm học tập - môi trường, phương tiện để lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ
và nhân cách của học sinh: Nhóm học tập là nơi hội tụ và phát huy tiềm năng trí tuệ
của tập thể, trong các nhóm học tập, việc học tập cá nhân cũng có những nét mới.
Đó không còn là sự lĩnh hội tài liệu học tập xuất phát từ hứng thú cá nhân, hoặc do
sợ kiểm tra, mà lĩnh hội có tính tới công tác phối hợp sau này. Vì vậy mà phương
hướng học tập cá nhân thay đổi, nó có phương hướng xã hội nhiều hơn.


16
1.2.3.2. Vai trò của hình thức học tập theo nhóm
- Sự nỗ lực của học sinh:
Sự hợp tác trong việc hoàn thành mục tiêu chung là yếu tố thúc đẩy mọi thành
viên cùng tiến bộ. Các em học hỏi lẫn nhau và phấn đấu vì mục tiêu chung của cả
nhóm. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng khi học sinh cùng hợp tác học, thành

tích và năng suất sẽ cao hơn so với khi học sinh cạnh tranh hay làm việc riêng lẻ.
- Quan hệ tốt đẹp giữa các học sinh:
Việc học hợp tác yêu cầu mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm đối với công
việc chung của cả nhóm.
Qua đó đã tạo giữa các em mối quan hệ có trách nhiệm, đây cũng là yếu tố cần
thiết góp phần vào sự thành công của các em sau này. Trong quá trình hợp tác, tiếp
xúc mặt đối mặt, cùng trao đổi thông tin, sự quan tâm, giúp đỡ nhau đã vun đắp cho
các em tình bạn tốt đẹp. Trong quá trình này mọi học sinh đều được đối xử như
nhau, không có sự phân biệt về trình độ học lực, các học sinh yếu vẫn có thể được
yêu mến, coi trọng. Chính những điều này sẽ tạo cho các em cảm giác được các bạn
cùng lớp chấp nhận, góp phần tạo nên bầu không khí học tập trong lớp học, đây là
yếu tố ảnh hưởng lớn đến thái độ và sự nhận thức tích cực về học tập của học sinh,
mà không ai có thể không thừa nhận rằng: “học sinh sẽ khó có thể thành công trong
học tập nếu thiếu thái độ và sự nhận thức tích cực trong học tập”.
- Sự lành mạnh thoải mái về mặt tâm lý:
Việc cùng nhau hợp tác học tập sẽ tạo cho các em sự vui tươi, thoải mái, điều
chỉnh được cái tôi sao cho phù hợp với tập thể. Học sinh có điều kiện thực hành,
rèn luyện các kĩ năng giao tiếp hợp tác trong nhóm, nó đòi hỏi học sinh phải hiểu và
tin nhau, truyền đạt thông tin một cách chính xác, chấp nhận và ủng hộ nhau, biết
giải quyết xung đột theo cách xây dựng. Qua đó giúp học sinh phát triển khả năng
giao tiếp, phát huy lòng tự trọng, khả năng đương đầu với mọi khó khăn trở ngại và
sự căng thẳng.
- Phát triển toàn diện:
Học tập theo nhóm tạo cơ hội cho học sinh sử dụng các phương pháp, nguyên
tắc diễn đạt ngôn ngữ. Các học sinh nhút nhát, thường là ít phát biểu trong lớp sẽ có
môi trường động viên để tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa, hầu hết các các hoạt


17
động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau, theo đó

các lỗi sai đều được giải đáp, mà thường là trong bầu không khí rất thoải mái. Với
việc thảo luận cùng với các thành viên khác trong lớp và nhóm, nhiệm vụ học tập
được giải quyết dễ dàng hơn. Thông qua trao đổi trong nhóm kết hợp được sức
mạnh của từng cá nhân, dẫn đến sự hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong học tập. Trên cơ
sở những hoạt động chung sẽ khơi dậy tinh thần tập thể, vì lợi ích của nhóm, của
cộng đồng và xã hội.
1.2.3.4. Các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm
Tuỳ thuộc vào nội dung bài học và thời lượng của tiết học, giáo viên có thể
sử dụng các hình thức tổ chức dạy học nhóm sau:
1.2.3.4.1. Làm việc theo cặp 2 học sinh (Pairwork)
Đây là hình thức học sinh trao đổi với bạn ngồi kế bên để giải quyết tình
huống do giáo viên nêu ra, trong quá trình giải quyết các tình huống, học sinh sẽ thu
nhận kiến thức một cách tích cực. Nhóm này thường được sử dụng khi giao cho HS
chấm bài, sửa bài cho nhau (qua phiếu học tập, qua các bài tập lựa chọn trong sách
giáo khoa...); hoặc trong trường hợp sau khi giao việc cá nhân, HS phải huy động
kinh nghiệm đã có để suy nghĩ; cuối cùng trao đổi kinh nghiệm, nhằm tìm cách giải
quyết tình huống đã đề ra. Ưu điểm của hình thức tổ chức này là không mất thời
gian tổ chức, không xáo trộn chỗ ngồi mà vẫn huy động được HS làm việc cùng
nhau.
Mô hình làm việc theo cặp

1.2.3.4.2. Làm việc theo nhóm 4-5 học sinh hoặc 7-8 học sinh (Group work)
Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm và thảo luận các bài tập, câu hỏi tình
huống do giáo viên nêu ra.
Có 2 loại hình bài tập: Bài tập cho hoạt động trao đổi và bài tập cho hoạt
động so sánh. Trong hoạt động trao đổi, mỗi nhóm giải quyết 1 vấn đề khác nhau
(nhưng cùng 1 chủ đề), sau đó trao đổi vấn đề và giải quyết vấn đề của nhóm mình
đối với nhóm khác.



18
Trong hoạt động so sánh, tất cả các nhóm cùng giải quyết một vấn đề, sau đó
so sánh cách giải quyết khác nhau giữa các nhóm.

1.2.3.4.3. Nhóm kim tự tháp (Pyramid)
Đây là cách tổng hợp ý kiến tập thể của lớp học về một vấn đề của bài học.
Đầu tiên giáo viên nêu một vấn đề cho các học sinh làm việc độc lập. Sau đó ghép 2
học sinh thành một cặp để các học sinh chia sẻ ý kiến của mình. Kế đến các cặp sẽ
tập hợp thành nhóm 8, nhóm 16…Cuối cùng cả lớp sẽ có 1 bảng tổng kết các ý kiến
hoặc một giải pháp tốt nhất để giải quyết một vấn đề. Như vậy, bất kỳ ý kiến các
nhân nào cũng đều dựa trên ý kiến của số đông.
Hình thức học tập này thể hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tương hỗ,
mô hình này phù hợp với các giờ ôn tập khi học sinh phải nhớ lại các định nghĩa,
khái niệm, công thức…đã học trong một chương.

Mô hình kim tự tháp
1.2.3.4.4. Nhóm chuyên gia hay nhóm chuyên sâu:
Trước hết, giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm (nhóm xuất phát hay nhóm gốc).
Nhóm gốc gồm những học sinh có trách nhiệm cùng nhau tìm hiểu về những thông
tin đầy đủ, trong đó mỗi học sinh được phân công tìm hiểu một phần của các thông
tin đó. Sau đó lập nhóm chuyên sâu (nhóm chuyên gia). Nhóm chuyên gia tập hợp
những học sinh ở trong những nhóm xuất phát khác nhau có cùng chung một nhiệm
vụ tìm hiểu sâu một phần thông tin.


19
Như vậy, một học sinh sẽ nhận nhiệm vụ từ nhóm xuất phát và cùng làm
việc, trao đổi kỹ ở nhóm chuyên sâu và sau đó lại trở về nhóm xuất phát để trình
bày kết quả về các thông tin mình đã thu thập được.


Nhóm chuyên sâu

AA
AA

BB
BB

AB
CD

Nhóm chuyên sâu

Nhóm chuyên sâu

Nhóm xuất phát

CC
CC

DD
DD

Nhóm chuyên sâu

Ưu điểm của nhóm chuyên gia là việc báo cáo công việc của các nhóm sẽ
do tất cả các thành viên của nhóm đảm nhận chứ không phải chỉ do một học sinh
khá giỏi đảm nhận. Mỗi học sinh sẽ nắm một mảng thông tin để lắp ghép thành
một thông tin hoàn chỉnh và sẽ không có một học sinh nào đứng ngoài hoạt động
của lớp học.

1.2.3.4.5. Hoạt động trà trộn (Mingling Activities)
Trong hình thức này, tất cả các học sinh trong lớp phải đứng dậy và di
chuyển trong lớp học để thu thập thông tin từ các thành viên khác. Sự di chuyển
khỏi chỗ ngồi cố định làm cho các học sinh cảm thấy thích thú, năng động hơn. Đối
với các học sinh yếu thì đây là cơ hội cho họ hỏi nhiều người khác nhau cùng một
câu hỏi mà không cảm thấy xấu hổ. Cũng bằng cách học này, họ sẽ thấy rằng có thể
có nhiều câu trả lời đúng, nhiều ý kiến, nhiều quan điểm khác nhau cho cùng một
vấn đề. Có thể coi hoạt động trà trộn là bảng “trưng cầu ý kiến” và “khảo sát ý
kiến” của tập thể.


×