Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Sự chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu giai đoạn 1925 1940

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.57 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

ĐÀO CẢNH XUÂN

SỰ CHUYỂN BIẾN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC CỦA PHAN BỘI CHÂU
GIAI ĐOẠN 1925 -1940

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

ĐÀO CẢNH XUÂN

SỰ CHUYỂN BIẾN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC CỦA PHAN BỘI CHÂU
GIAI ĐOẠN 1925 – 1940

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành: Chính trị học

Mã số: 60310201

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Văn Dũng



Long An, 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là: Đào Cảnh Xuân, là học viên cao học chuyên ngành Chính trị học,
khóa 2013 – 2015 của Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh.
Tôi xin cam đoan đây là phần nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các tài liệu trích dẫn sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng, Những kết luận khoa học rút ra trong luận văn là kết quả tìm
tòi, nghiên cứu của bản thân tác giả luận văn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên:

Đào Cảnh Xuân


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Phòng Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh và Trường
Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian
tôi học Cao học. Bên cạnh đó, tôi cũng cảm ơn thầy, cô trường Đại học Vinh đã
nhiệt tình giảng dạy và cung cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt quá
trình tôi học tập chuyền ngành Chính trị học tại Đại học Kinh tế Công nghiệp
Long An.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Bùi Văn Dũng, Trường Đại
học Vinh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu

và thực hiện đề tài.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn chắc còn nhiều thiếu sót,
với ý thức luôn tự học hỏi và nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học, tôi rất
mong được sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn.

Long An, 2015

Đào Cảnh Xuân


MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU...........1
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................10
Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐÊ VÀ ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA PHAN BỘI CHÂU............................................
1.1.Tiểu sử Phan Bội Châu....................................................................................
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tác
động đến tư tưởng đạo đức Phan Bội Châu...................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................
Chương 2: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC CỦA PHAN BỘI CHÂU GIAI ĐOẠN (1925 - 1940)..........................
2.1. Sự xác lập của tư tưởng đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Phan
Bội Châu trước năm 1925.............................................................................
2.2. Những yếu tố tác động trực tiếp và những nội dung cơ bản trong tư tưởng
đạo đức của Phan Bội Châu (1925 – 1940).............................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................................................................
Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA PHAN
BỘI CHÂU VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CON
NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................

3.1. Ý nghĩa lý luận và giá trị tư tưởng đạo đưc Phan Bội Châu...........................
3.2. Giải pháp phát huy những giá trị đạo đức của Phan Bội Châu trong công
tác giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay...............................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..................................................................................115
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................120


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình hình
thành và phát triển mau lẹ của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản trong giai đoạn này thực chất là bước chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền. Nó làm cho những mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản phát triển đến “đỉnh cao”, đó là mâu thuẫn ở bên trong mỗi
nước tư bản, mâu thuẫn giữa nhân dân lao động cơ bản là giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản và mâu thuẫn ở bên ngoài là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc
với các dân tộc thuộc địa.
Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một bộ phận của thế
giới cũng chịu tác động từ những biến động to lớn trên. Sự biến đổi của xã hội
Việt Nam được đánh dấu bằng mốc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, biến
Việt Nam thành thuộc địa của thực dân Pháp. Dưới chính sách khai thác thuộc
địa tàn ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
và tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội ác từ chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp ở Đông Dương: “Chúng tôi không những bị áp bức và
bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm…
bằng thuốc phiện, bằng rượu… Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm
vì chúng tôi không có độc lập tự do” [50, 22-23]. Hậu quả là làm cho xã hội Việt
Nam đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn, nhân dân ta sống trong kiếp nô lệ, kết cấu
giai cấp trong xã hội Việt Nam có sự phân hóa mạnh mẽ. Xã hội Việt Nam lúc

này tồn tại rất nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn về lợi ích các giai cấp, mâu
thuẫn về ý thức hệ tư tưởng… nhưng mâu thuẫn cơ bản nhất, bức thiết nhất cần
giải quyết lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Để giải quyết mâu thuẫn bức thiết này, các cuộc đấu tranh của
nhân dân ta trên các lập trường, quan điểm tư tưởng khác nhau diễn ra mạnh mẽ.

6


Một bộ phận “hủ nho” vẫn giữ nguyên lập trường “trung quân ái quốc” đấu
tranh cho lợi ích giai cấp địa chủ phong kiến đang lâm vào “suy vi”. Một bộ
phận sĩ phu khác thích ứng với những điều kiện biến đổi của lịch sử như Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… đã tiếp cận
những tư tưởng mới, tư tưởng của phong trào Khai Sáng qua Tân văn, Tân thư
từ Nhật Bản và Trung Quốc. Những tư tưởng mới bàn về tính thượng tôn của
pháp luật, quyền bình đẳng giữa con người với con người trong các mối quan hệ
xã hội. Mặt khác, các sĩ phu còn chịu ảnh hưởng từ những cuộc cải cách đất
nước hiệu quả của nhiều quốc gia như ở Nhật thời Minh Trị, cuộc cách mạng
Tân Hợi ở Trung Quốc. Sự tác động to lớn từ những tư tưởng mới và thực tiễn
cải cách hiệu quả của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, làm cho các sỹ
phu yêu nước Việt Nam trong đó có Phan Bội Châu nhận ra sự thiếu phù hợp
của nội dung tư tưởng cũ, tư tưởng Nho giáo nói chung và tư tưởng về đạo đức
nói riêng đối với việc giải quyết những vấn đề cấp bách của dân tộc Việt Nam ở
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Phan Bội Châu với vốn hiểu biết rộng, trình độ lý luận sắc bén, ông đã tìm
đến và tiếp biến những tư tưởng mới trên cái nền của tư tưởng cũ. Rất nhiều tác
phẩm, bài viết trong quá trình hoạt động của Phan Bội Châu chứa đựng những tư
tưởng về triết học, chính trị, văn hóa, đạo đức… Đặc biệt, tư tưởng đạo đức và
cả cuộc đời chiến đấu vì lý tưởng đạo đức vì nước, vì dân của ông có giá trị rất
to lớn. Nó thôi thúc lòng tự tôn dân tộc, nó xác định vị trí và vai trò của mỗi

người con đất Việt phải có trách nhiệm với bờ cõi, non sông mà quyết chí đứng
lên chiến đấu bảo vệ.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của nhiệm vụ này là tạo nền tảng vật chất và tinh thần vững chắc để
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua hơn 30 năm thực hiện nhiệm vụ trên,
bên cạnh những thành công đã đạt được, những mặt trái của kinh tế thị trường
7


tác động đến nhiều vấn đề của đời sống nước ta như: sự bất bình đẳng trong xã
hội, sự phân biệt giàu nghèo, nguy cơ suy thoái tư tưởng đạo đức… của một bộ
phận không nhỏ người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ. Trong đó, những chuẩn
mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc không được coi trọng, dẫn đến
nhiều hiện tượng sống buông thả; bàng quan; lãnh cảm; không dám đấu tranh
bảo vệ cái đúng đắn, cái tốt đẹp mà chạy theo những lối sống trụy lạc, đua đòi,
tàn sát lẫn nhau theo kiểu “băng nhóm xã hội đen”… Vì thế giáo dục tư tưởng
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tư tưởng đạo đức của những nhà tư
tưởng lớn như: Phan Châu Trinh; Huỳnh Thúc Kháng; Phan Bội Châu có ý
nghĩa rất to lớn đối với nước ta hiện nay.
Với những đóng góp to lớn của Phan Bội Châu cho sự nghiệp cách mạng
của dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đồng thời, ông cũng để lại những
tư tưởng đạo đức có giá trị sâu sắc, cho nên việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức
của Phan Bội Châu là một vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Qua
nghiên cứu tư tưởng đạo đức của ông giúp chúng ta có cách nhìn khách quan,
khoa học, đồng thời rút ra những giá trị tích cực và chỉ ra giải pháp nhằm phát
huy những giá trị tư tưởng đạo đức Phan Bội Châu đồng thời ngăn chặn và
phòng ngừa những hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống cho con người Việt
Nam hiện nay. Từ tầm quan trọng nêu trên chúng tôi chọn đề tài: “Sự chuyển
biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu giai đoạn (1925 - 1940)” làm

luận văn tốt nghiệp thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phan Bội Châu là một nhà yêu nước chân chính, với tài năng và có tầm
ảnh hưởng đối với phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Nhà chí sỹ cách mạng, suốt cuộc đời trăn trở về lí tưởng đạo đức độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân, bên cạnh đó ông cũng luôn tìm đến những tư
tưởng mới nhằm hiện thực hóa lí tưởng đạo đức cao cả đó. Nghiên cứu về Phan
Bội Châu cho đến nay thu hút được rất nhiều học giả trong và ngoài nước. Các
8


công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu rất đa dạng, nhưng những công trình
này nghiên cứu tập trung trên các hướng sau:
Hướng nghiên cứu thứ nhất, những công trình nghiên cứu về Phan Bội
Châu và các nhà tư tưởng gắn với lịch sử dân tộc giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu đồ sộ: “Sự phát triển của
tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám” [27], [28] ; “Đại
cương lịch sử Việt Nam” [58]. Cũng nghiên cứu về tình hình tư tưởng thời kỳ
này còn có công trình nghiên cứu “Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX” [17] v.v.. Các công trình trên chỉ ra những điều kiện kinh tế
- xã hội Việt Nam và xu thế chung của thời đại tác động cho sự ra đời tư tưởng
của Phan Bội Châu cũng như các nhà tư tưởng đương thời ông. Bên cạnh đó, các
công trình trên phân tích khá sâu sắc về tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị
của Phan Bội Châu. Từ sự phân tích đó các tác giả chỉ ra sự khác biệt, bước
chuyển căn bản trong tư tưởng của Phan Bội Châu so với các nhà tư tưởng
đương thời. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định Phan Bội Châu xứng đáng là
nhà tư tưởng tiêu biểu nhất của Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu một cách khái quát hệ thống
từng giai đoạn, từng nội dung tư tưởng của Phan Bội Châu. Với chủ đề này cũng
có các công trình tiêu biểu như:

Công trình“Nghiên cứu Phan Bội Châu” [59]. Đây là công trình tập hợp
một số tác phẩm chuyên khảo, bài báo viết về đề tài Phan Bội Châu trong 50
năm nghiên cứu của tác giả. Nội dung chủ yếu của công trình này là tập hợp
những bài viết giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của Phan Bội Châu, nghiên
cứu đến vấn đề con người của Phan Bội Châu và tập hợp những bài viết, bài trao
đổi ý kiến tiêu biểu của tác giả trong nhiều khía cạnh về Phan Bội Châu. Nhìn

9


chung đây là tài liệu có giá trị, thể hiện tâm huyết của tác giả khi nghiên cứu về
Phan Bội Châu.
Một công trình nữa “Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu” [47]. Đây
là công trình của Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây nhằm kỷ niệm 100
năm phong trào Đông Du. Hay một công trình khác “Phan Bội Châu về tác gia
và tác phẩm” [61]. Nội dung của cuốn sách tập hợp 60 bài chuyên khảo và cảm
nhận của các nhà khoa học trong nước và thế giới. Nội dung của những công
trình này được các tác giả khẳng định phong trào Đông Du và nhà yêu nước, nhà
cách mạng, nhà tư tưởng Phan Bội Châu có một vị trí và ý nghĩa rất quan trọng
trong lịch sử dân tộc đầu thế kỷ XX, đồng thời khẳng định Phan Bội Châu chính
là ngọn cờ đầu trong phong trào Duy Tân nước ta hồi đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu và trình bày về chủ đề này cũng cần nói tới các công trình
như: “Phan Bội Châu” của Hoài Thanh. Hay trong cuốn “Phan Bội Châu và xã
hội Việt Nam ở thời đại ông”, [31]; hay công trình “Phan Bội Châu nhà yêu
nước - nhà văn hóa lớn” [60]. Điểm mới của các công trình này so với các công
trình nghiên cứu cùng đề tài, tác giả khéo léo tiếp cận dưới góc độ văn học và sử
dụng nhuần nhiễn phương pháp lịch sử và logic. Các công trình đã chỉ ra được
bước chuyển trong cuộc đời, sự nghiệp cách mạng nói chung của Phan Bội Châu
trong bối cảnh Việt Nam, khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Những công trình gần đây nhất nghiên cứu về tư tưởng của Phan Bội

Châu cũng cần nói đến như: “Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu” [53]; “ Tư
tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu” [36]; và luận văn thạc sĩ chính
trị học của Nguyễn Ngọc Điệp, với đề tài: “Sự chuyển biến trong tư tưởng chính
trị của Phan Bội Châu trước năm 1925”, Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Những công trình này chủ yếu tập trung
nghiên cứu chuyên sâu về những nội dung tư tưởng triết học, chính trị học hay

10


tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu. Đồng thời nêu bật ý nghĩa của những tư
tưởng đó đối với lịch sử dân tộc Việt Nam. Hai hướng nghiên cứu trên, nội dung
của các công trình chưa nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu, phần
lớn các công trình thông qua tấm gương chiến đấu, hoạt động chính trị và sự
chuyển biến trong lập trường chính trị của ông để rút ra nhận xét khái quát, Phan
Bội Châu xứng đáng là tấm gương đạo đức tiêu biểu cho thế hệ những nhà Nho
yêu nước đầu thế kỷ XX.
Hướng thứ ba, nghiên cứu về tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu có thể
kể đến công trình sau: “Tư tưởng của Phan Bội Châu về con người và ý nghĩa
lịch sử của nó”, đây là luận án tiến sỹ triết học của Cao Xuân Long, Đại học
khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm
2010. Bố cục của luận án được tác giả chia thành ba chương, trong đó ở chương
hai tác giả tập trung phân tích, làm rõ “Quá trình hình thành phát triển và nội
dung chủ yếu trong tư tưởng của Phan Bội Châu về con người”. Tại mục 3 của
tiết thứ 2 trong chương hai, tác giả có bàn về “Tư tưởng của Phan Bội Châu về
con người dưới góc độ giá trị đạo đức, văn hóa”. Bàn về tư tưởng đạo đức, tác
giả có lý giải nguồn gốc ra đời của đạo đức và chỉ ra những quan niệm về đạo
đức của Phan Bội Châu. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra vai trò của đạo đức, đạo
đức được xem như chuẩn mực nó như là bánh lái của con thuyền. Bên cạnh đó
tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cái xấu, cái ác lấn át cái tốt, cái thiện là do năm

giác quan của con người phải tiếp xúc thường xuyên với vật chất ở bên ngoài.
Ngoài những nội dung trên, tác giả chưa tập trung phân tích làm rõ những yếu tố
cấu thành đạo đức của Phan Bội Châu như: Chính danh; Nhân; Nghĩa; Hiếu; Trí
và Dũng để thấy được sự hoàn thiện và bước chuyển trong tư tưởng đạo đức của
Phan Bội Châu. Mặt khác, tác giả chưa rút ra được những hạn chế và cũng như
những giá trị căn bản trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu. Những điểm

11


tác giả của luận án tiến sĩ chưa có điều kiện nghiên cứu, cũng chính là những
vấn đề chúng tôi tập trung làm rõ trong luận văn thạc sĩ này.
Từ sự hệ thống hóa cơ bản những công trình nghiên cứu nổi bật về tư
tưởng và con người của Phan Bội Châu đã cho thấy, chủ đề nghiên cứu về Phan
Bội Châu được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác
nhau như: tư trưởng triết học, tư tưởng về con người, tư tưởng chính trị, tư
tưởng về giáo dục, tư tưởng về chính thể v.v.. Nhưng qua quá trình khảo cứu tác
giả thấy rằng, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu và có hệ
thống về sự chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu, đặc biệt sự
chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của ông giai đoạn 1925 đến 1940. Tuy
nhiên, những công trình kể trên vẫn là những tài liệu quý báu để tác giả kế thừa
trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nhằm tập trung nghiên cứu làm rõ sự chuyển biến trong tư
tưởng đạo đức của Phan Bội Châu (1925 - 1940), trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa,
giá trị của tư tưởng đạo đức Phan Bội Châu với công tác giáo dục đạo đức cho
con người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Thứ nhất, trên cơ sở phân tích con người, sự nghiệp của Phan Bội Châu,

từ đó chỉ ra sự chuyển biến tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu gắn bó khăng
khít với quá trình hoạt động cách mạng và tiếp nhận những tinh hoa văn hóa
nhân loại của ông.
- Thứ hai, làm rõ quá trình chuyển biến trong những nội dung tư tưởng
đạo đức của Phan Bội Châu (1925 - 1940) trên một số phạm trù cụ thể.

12


- Thứ ba, trên cơ sở phân tích những đặc điểm, yêu cầu của xã hội Việt
Nam hiện nay để từ đó chỉ ra sự cần thiết phải có giải pháp nhằm phát huy
những giá trị đạo đức tích cực của Phan Bội Châu với công tác giáo dục tư
tưởng, đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chỉ tập trung làm rõ sự chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của
Phan Bội Châu trong giai đoạn 1925 – 1940.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên các nguyên tắc thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
tác phẩm tiêu biểu gửi gắm những nội dung tư tưởng đạo đức của Phan Bội
Châu.
- Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành và phương pháp liên
ngành để nghiên cứu, bao gồm:
+ Phương pháp nghiên cứu kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp
logic: Vận dụng quan điểm lịch sử để nêu rõ tính kế thừa, đồng thời làm nổi bật sự
chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu.
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Đem lại sự hiểu biết về hệ thống
những tư tưởng của Phan Bội Châu nói chung và tư tưởng về đạo đức của ông nói
riêng.
+ Cùng với các phương pháp trên tác giả còn sử dụng các phương pháp

phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, đối chiếu, so sánh và tiếp cận dưới
góc độ chính trị học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích một cách toàn diện, đa chiều về nhân tố góp phần tạo nên sự
chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu.

13


- Hệ thống hóa quá trình chuyển biến tư tưởng đạo đức của Phan Bội
Châu trên một số phương diện tiêu biểu.
- Đánh giá và chỉ ra một vài giải pháp nhằm phát huy những giá trị tư
tưởng đạo đức của Phan Bội Châu trong công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho
con người Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc
gồm 3 chương và 6 tiết:
Chương 1: Những tiền đề và điều kiện cơ bản hình thành tư tưởng đạo đức của
Phan Bội Châu
Chương 2: Quá trình chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu
giai đoạn 1925 - 1940
Chương 3: Ý nghĩa và giá trị tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu đối với công
tác giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay

14


Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐÊ VÀ ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC CỦA PHAN BỘI CHÂU

Tư tưởng của Phan Bội Châu nói chung và tư tưởng đạo đức của ông nói
riêng được hình thành và hoàn thiện gắn với các giai đoạn trong sự nghiệp cứu
nước, cứu dân của ông, cho nên thực chất của sự hình thành và hoàn thiện tư
tưởng đạo đức Phan Bội Châu là một quá trình chuyển biến. Để hiểu về tư tưởng
đạo đức của ông, chúng ta cần đặt những tư tưởng đạo đức đó gắn với cuộc đời
sự nghiệp, điều kiện kinh tế xã hội… ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, để hiểu hơn về sự chuyển biến trong tư tưởng đạo đức của Phan Bội
Châu, trước tiên chúng ta cần làm rõ khái niệm về chuyển biến trong tư tưởng
đạo đức của ông.
Khái niệm về “chuyển biến”, đây là khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu
đưa ra, nhưng tùy theo cách tiếp cận, và đối tượng tiếp cận mà các nhà nghiên
cứu đưa ra những quan điểm khác nhau về khái niệm này. Do giới hạn nghiên
cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả không có điều kiện đi sâu bàn về nội dung
này, mà chỉ tiếp cận khái niệm chuyển biến trên góc độ tư tưởng đạo đức của
Phan Bội Châu để làm bật nội hàm của khái niệm này: chuyển biến trong đạo
đức của Phan Bội Châu là: sự vận động của một hệ thống tư tưởng đạo đức
trong quá trình hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân. Từ hoạt động cách
mạng đó, tạo ra sự thay đổi về căn bản những nội dung trong phạm trù đạo đức
của ông nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong từng giai đoạn hoạt động
cách mạng của Phan Bội Châu.

15


1.1.Tiểu sử Phan Bội Châu
1.1.1. Khái quát về thân thế và sự nghiệp của Phan Bội Châu
Phan Bội Châu tên khai sinh là Phan Văn San. Ông sinh ngày 21 - 12 1867 tại thôn Sa Nam, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và ông mất ở Huế năm
1940. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là người hay chữ, thông minh, Phan Bội Châu
thuật lại trong niên biểu của mình rằng: “Lúc tôi lên sáu, cha tôi dắt tôi đến thục
quán trao cho tôi sách chữ Hán, mới ba ngày tôi đã đọc trầm hết quyển Tam tự

kinh, không sót một chữ. Cha tôi lấy làm lạ, đem Luận ngữ cho tôi đọc, tập làm
văn trẻ với khiếu viết trầm những sách đã đọc, mỗi bài học phải viết mười tờ”
[15, 49]. Mặc dù là người có tài nhưng con đường học của ông cũng lắm lận
đận, sau nhiều lần dự thi đến năm 33 tuổi mới đậu giải nguyên trong cuộc thi
hương. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, ông không ôm khư khư mộng văn
chương mà chỉ coi đó là phương tiện để mình có điều kiện dùng cái “danh” để
lôi kéo mọi người, Phan Bội Châu khẳng định: “Thế là tôi được cái mặt nạ để
mượn đó che lấp mắt đời” [15, 60]. Từ năm 1900, Phan Bội Châu chính thức lao
vào con đường trường chinh, thực hiện lý tưởng đạo đức cao cả chiến đấu vì độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Từ đây, những tư tưởng đạo đức của ông
được vận động cùng với quá trình chuyển biến trong thế giới quan của Nho giáo
và tư tưởng phương Tây (những tư tưởng của phong trào khai sáng và chủ nghĩa
Mác - Lênin) và hoạt động đấu tranh của ông.
- Giai đoạn trước năm 1903
Trước năm 1903, Phan Bội Châu tích cực hưởng ứng, ủng hộ phong trào
Cần Vương của vua Hàm Nghi do nhân dân Nghệ Tĩnh nổi dậy. Ông cho rằng,
phong trào yêu nước dưới ngọn cờ Cần Vương “chẳng công hiệu gì, nhưng vì
đại nghĩa sở kích, thật đáng kính trọng” [15, 52]. Điều này cho thấy phạm trù
“nghĩa” được ông tôn kính và đặc biệt rất coi trọng nghĩa lớn vì nước, vì dân mà

16


chẳng màng đến sự thiệt hơn trong lợi ích, sự sống còn của bản thân. Đạo lý này
đã ăn sâu, bám rễ vào chàng trai trẻ Phan Văn San.
- Giai đoạn từ năm 1904 đến 1925
Từ năm 1904 đến trước năm 1911, Phan Bội Châu viết tác phẩm “Lưu
cầu huyết lệ tân thư”. Tác phẩm này đánh dấu sự chuyển biến bước đầu tư tưởng
của Phan Bội Châu nói chung và tư tưởng đạo đức nói riêng. Sau khi chứng kiến
các phong trào yêu nước thất bại và bản thân ông trực tếp thành lập “ Duy Tân

Hội” năm 1904, nhằm thực hiện chủ trương dùng vũ trang bạo động đánh đuổi
giặc Pháp, khôi phục nước Nam tự chủ. Sự việc không thành do cầu chính phủ
Nhật viện trợ vũ khí và binh lính để đánh Pháp thất bại, Phan Bội Châu chuyển
hướng nhờ Nhật giúp đỡ đào tạo nâng cao trí thức mới cho những lưu học sinh
Việt Nam.
Từ năm 1905 đến năm 1907, Phan Bội Châu đã đưa hơn 200 lưu học sinh
có tinh thần yêu nước sang Nhật học tập. Con đường cầu học cho những người
yêu nước Việt Nam không thành. Đầu tháng 6 năm 1907, chính phủ phiệt Nhật
kí điều ước với Pháp, buộc Nhật phải giải tán những lưu học sinh Việt Nam và
trục xuất Phan Bội Châu khỏi đất nước Nhật. Nhưng “chí” trong con người Phan
Bội Châu vẫn vững, ông sang Trung Quốc, Xiêm La để liên kết và lôi kéo
những kiều bào nhằm gây dựng cơ sở để hoạt động và tiếp tục nuôi lý tưởng đạo
đức cứu nước, cứu dân.
Từ năm 1911 đến trước năm 1925, đánh dấu bước chuyển chính thức
trong thế giới quan và con đường cứu nước, từ lập trường phong kiến với sự bó
buộc của những chuẩn mực đạo đức cũ kỹ, bất bình đẳng sang lập trường dân
chủ tư sản gắn với tư tưởng đạo đức tiến bộ, đề cao quyền làm chủ của từng cá
nhân trong xã hội và ý thức được bổn phận, vị trí (chính danh) của ngưới mất

17


nước, từ đó thôi thúc mỗi cá nhân phải đứng lên đoàn kết thực hiện lý tưởng đạo
đức chung là cứu nước, cứu dân.
- Giai đoạn từ năm 1925 đến năm 1940
Cuối năm 1925, thực dân Pháp bắt và quy Phan Bội Châu vào tội chết,
sau đó bản án định tội ông đổi thành án chung thân khổ sai. Sự kết án không
minh bạch của chính quyền bảo hộ ở Việt Nam đã bị dư luận, nhân dân trong
nước phản bác và đấu tranh gay gắt, buộc thực dân Pháp phải ân xá cho Phan
Bội Châu an trí tại Huế cho đến khi ông qua đời năm 1940. Giai đoạn này, đánh

dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng vì lí tưởng đạo đức độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân, giúp ông có thời gian xét lại những lý thuyết
và con đường cứu nước mà chính ông đã theo đuổi trước những năm 1925. Để
từ đó ông nhận ra tất cả những điều mà ông theo đuổi đều là sai lầm, Phan Bội
Châu đã tự bạch: “Than ôi! Xông pha nhọc nhằn trải muôn ngàn dặm, mà chỉ
gây nên một cõi mơ màng thất bại, có ai mưu sự mà gặp nông nỗi bất hạnh như
tôi vậy chăng?” [15, 45]. Lý tưởng đạo đức cứu nước, cứu dân trong Phan Bội
Châu không mất đi, lý tưởng đó trong giai đoạn an trí ở Huế được gửi gắm
thông qua những tác phẩm lý luận có giá trị luận bàn, mở rộng và phát triển về
những phạm trù cơ bản của đạo đức, trên cơ sở những luận điểm cũ của Nho
giáo như: “chính danh”; “nhân”; “hiếu”; “nghĩa”; “trí”; “dũng”; và “lẽ sống”.
1.1.2. Truyền thống gia đình, quê hương, đất nước và tinh hoa văn
hóa nhân loại tác động đến tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu
Sự nghiệp cứu nước, cứu dân của Phan Bội Châu những năm đầu thế kỷ
XX đã để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là một tấm
gương đạo đức tiêu biểu cho tinh thần xả thân vì nước, vì dân của ông. Để làm
nên một sự nghiệp lớn lao và có tầm ảnh hưởng đối với thời đại như vậy, không
phải ai cũng có thể làm được, mà đó là do những truyền thống tốt đẹp của gia

18


đình, quê hương và đất nước; là do ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ
phương Tây đã tác động đến đạo đức nhân cách của ông; mà một điều nữa
không thể không nói đến đó còn là do khả năng tiếp biến những giá trị truyền
thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có sàng lọc trong Phan
Bội Châu. Cho nên để tìm hiểu về tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu chúng ta
không chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng mà còn phải tìm ra nguồn gốc tác
động lên tư tưởng, tấm gương đạo đức của ông.
- Truyền thống văn hóa gia đình, quê hương là nền tảng nuôi dưỡng đạo

đức của Phan Bội Châu
Gia đình:
Phan Bội Châu sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo. Tư tưởng đạo
đức của quê hương và gia đình đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng đạo đức
của ông. Những tấm gương gia đình xứ Nghệ và đặc biệt ở ngay trong gia đình
Phan Bội Châu đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn, lý tưởng của ông từ lúc
thơ bé cho đến khi trưởng thành.
Sinh trưởng trong gia đình lễ giáo, được sự kèm cặp uốn nắn dạy bảo mẫu
mực của người mẹ, đồng thời sự dạy dỗ nghiêm khắc của cha, lúc bấy giờ làm
nghề dạy học. Phụ thân ông là cụ Phan Văn Phổ một người thâm nho, thông
hiểu kinh truyện, nhưng không đỗ đạt gì và sống bằng nghề dạy học. Là một
thầy đồ nghèo sống ở thôn dã nhưng tâm hồn và cách sống thanh bạch, ông được
mọi người quý mến. Là một người “thông nho” [2, 15] ông thường được người
dân nhiều làng xung quanh nhận đón về dạy chữ cho con cháu mình. Năm 30
tuổi, ông lấy vợ và 36 tuổi hạ sinh Phan Văn San.
Mẫu thân của Phan Bội Châu tên là Nguyễn Thị Nhàn, cũng thuộc dòng
dõi Nho học. Bà là người phúc hậu có tình thương yêu con người nghèo khổ,

19


nhà tuy nghèo nhưng thường hay giúp những người khốn khó. Phan Bội Châu
có nhận xét về bà:
Mẹ rất nhân từ, ham làm ơn. Trong nhà tuy nghèo, những đụng khi thân
bằng lân lý có việc cấp nạn, tùy sức đến đâu thì giúp đến ấy; một đồng
tiền, một hột gạo cũng chia sẻ cho nhau mới đành. Khi tôi còn bé mẹ tôi
đã dỗ tôi, nửa câu nói cũng không kinh suất. Tôi hầu mẹ tôi 16 năm, tuyệt
chẳng bao giờ nghe một tiếng mắng chửi ai; dầu có ai ngang trái với
mình, chỉ mỉm cười bằng một tiếng cười lạt mà thôi [2, 16].
Thuở bé, vì các anh em trai trong nhà đều học chữ Hán, nên bà cũng học

lỏm được ít nhiều “Mẹ tôi hồi còn trẻ, thường ngồi bên các anh, nghe đọc sách,
hay nhớ mãi đến chết cũng không quên” [2, 16]. Khi Phan Bội Châu chừng bốn
năm tuổi ông được mẹ chỉ dạy những điều hay trong Kinh Thi. Bà mất năm
Phan Bội Châu 18 tuổi, nhưng tình cảm và tấm gương đạo đức của bà ảnh
hưởng sâu đậm trong tư tưởng đạo đức của ông.
Quê hương:
Nghệ Tĩnh là một mảnh đất kém màu mỡ ở miền Trung, đất canh tác lại
ít, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều người dân nơi đây phải tha
hương cầu thực. Nhưng nét nổi bật của vùng đất Nghệ Tĩnh là một vùng đất có
truyền thống khoa bảng, con người nơi đây rất cần cù học tập.
Nghệ An nằm trong không gian văn hóa Nghệ Tĩnh, thời xa xưa vốn là
một góc rừng biển xa xôi đối với kinh thành Thăng Long. Trải qua các triều đại
phong kiến Việt Nam, Nghệ An giữ vị trí đặc biệt quan trọng, được coi là chốn
“biên viễn” hiểm yếu. Nơi đây từng là địa bàn chiến lược của nhà Trần thời
chống quân Nguyên Mông, là căn cứ địa của Trần Quý Khoáng và Lê Lợi…
Vốn là vùng đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, sau khi thực dân Pháp
xâm lược Việt Nam, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở đây phát triển
20


sâu rộng trong một thời gian khá dài. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Xuân Ôn rồi
đến Phan Đình Phùng, huyện nào cũng lập quân thứ và tổ chức kháng chiến.
Ngay trên mảnh đất Sa Nam và Đan Nhiễm, năm 1874, nghĩa quân của Trần
Tấn, Đặng Như Mai, sau đó của Trần Xuân, Vương Thúc Mậu cũng mấy phen
đọ sức với giặc Pháp. Phan Đình Phùng mất, phong trào chống Pháp vẫn tồn tại
dai dẳng ở Nghệ Tĩnh. Nhiều người bỏ vào núi hay chốn sang địa phương khác
sống ngoài vòng pháp luật. Tinh thần yêu nước và hoạt động chống Pháp vẫn
phát triển liên tục cho đến cách mạng Tháng Tám. Do tinh thần yêu nước bền bỉ,
đã có lúc chính quyền thực dân cấm người Nghệ Tĩnh đi lại và cư trú ở địa
phương khác.

Điều kiện tự nhiên và truyền thống đạo đức vì nước vì dân của quê hương
có ảnh hưởng sâu sắc đến con người Phan Bội Châu. Giáo sư Phạm Đức Dương
nhận xét: “Người Nghệ Tĩnh can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên
quyết đến khó khăn, tằn tiện đến cá gỗ” [20, 56]. Trong lịch sử Nghệ Tĩnh có
con người giám chơi ngông như Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ, có
những người coi thường công danh các triều vua như Nguyễn Thiệp, có người
chống triều đình như Hoàng Phan Thái, Trần Tấn…Cái tiêu biểu của người
Nghệ Tĩnh là chí khí, nghị lực, gan góc, giỏi chịu đựng, ngang tàng không chịu
ràng buộc. Là dân xứ nghèo, họ sống rất tiết kiệm, nhưng trọng danh dự, giàu
tình nghĩa, nặng ân tình đối với bà con, làng xóm, bạn bè nhất là đối với việc
nước, việc dân họ lại rất trọng nghĩa, hào hiệp, rộng rãi mà không màng đến của
cải và tính mệnh. Viết về “dòng sông văn hóa” xứ Nghệ, Giáo Sư Ninh Viết
Giao đã trích trong “Nghệ An ký”: “xứ Nghệ An đất xấu dân nghèo kém xa bốn
trấn, nhưng phong tục mà được thuần hậu là nhờ ở chỗ đó, vì nghèo nên tập
được tinh thần nhẫn nại, chịu đựng gian khổ, lấy sự cần kiệm tiết ước làm đầu”
[29, 21-22]. Chính vì thế đã hình thành nên trong con người Phan Bội Châu một
ý chí, một nghị lực để vượt qua mọi gian nan trên con đường lý tưởng cứu dân

21


cứu nước của mình. “Phan Bội Châu sinh ra trên mảnh đất ấy, được nuôi lớn bởi
truyền thống đấu tranh bất khuất và dòng sữa ngọt thơm của quê hương với tất
cả cái “cốt tính xứ Nghệ” nhiều ưu điểm nhưng cũng không khỏi những nhược
điểm và hạn chế” [62, 18].
- Những truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc tác động đến
tư tưởng đạo đức của Phan Bội Châu
Các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả
và là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của đất

nước mang đậm tính đặc thù trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đảng ta cũng như
các nhà khoa học đưa ra các tiêu chí xác định giá trị, giá trị văn hóa đạo đức của
dân tộc Việt Nam bao gồm các giá trị cơ bản sau: truyền thống yêu nước; lòng
thương yêu, quý trọng con người; lòng dũng cảm…
Truyền thống yêu nước là tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá
trị, là động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang
cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta. Yêu nước là tình yêu với
đất nước, lòng trung thành với tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích
cực để phục vụ và đem lại nhiều lợi ích cho tổ quốc và nhân dân.
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay. Đối
với Phan Bội Châu, lòng yêu nước trước hết phát triển từ tình cảm bình dị và
gần gũi đối với những người ruột thịt, dần phát triển thành tình cảm gắn bó với
xóm làng, quê hương và cao hơn hết là tình yêu tổ quốc, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc. Trước hết cần thấy rằng quá trình tìm đường cứu nước và hoạt động cứu
nước của Phan Bội Châu là tấm lòng của một con người Việt Nam yêu nước.
Tinh thần yêu nước của ông được hun đúc bằng truyền thống yêu nước với bề
dày hàng nghìn năm của lịch sử các thế hệ cha ông xây nên. Được hình thành
22


trong quá trình dựng nước, trong đấu tranh và bảo vệ tổ quốc, thoát khỏi sự đô
hộ của ngoại bang, truyền thống yêu nước nổi bật ở tính cố kết cộng đồng chặt
chẽ giữ nhà - làng - nước để bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống cộng đồng và sự
trường tồn của văn hóa đạo đức dân tộc. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lí,
triết lí sống, niềm tự hào, là tư tưởng đạo đức của con người Việt Nam, khởi đầu
từ lòng tự hào về “Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi
đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời” [51, 255]. Tiếp đó là ý
thức về quyền độc lập của dân tộc, bắt đầu từ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
của thời nhà Lý cho đến ý chí quyết tâm “Sát thát” ở đời Trần, tinh thần quyết
chiến của Quang Trung “Đánh cho phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử chi Nam

quốc anh hùng chi hữu chủ”, từ triết lý “Nước là của chung chứ không của một
họ nào” của nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm đến quan điểm đấu tranh cho quyền
bình đẳng của mỗi con người, đấu tranh để đem lại “dân quyền” cho nhân dân
và lòng căm ghét bọn xâm lược.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta cũng gắn bó chặt chẽ với lòng yêu
thương và quý trọng con người, nhất là người lao động. Tình yêu thương con
người của dân tộc Việt Nam thấm đượm trong các mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, được phát triển trong quan hệ với làng xóm và mở rộng ra
cả cộng đồng dân tộc. Lấy tình yêu thương làm cơ sở cho cách xử thế ở đời là
triết lý sống của người Việt Nam. Người Việt coi trọng tình nghĩa hơn lễ nghĩa.
Trong gia đình, yêu thương là một tình cảm tự nhiên như cha mẹ yêu con cái và
con cái phải có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ khi già yếu. Vợ chồng là những
người chủ yếu xây dựng tổ ấm gia đình, cùng nhau chia ngọt xẻ bùi nên ăn ở với
nhau phải như bát nước đầy, không nghĩ chuyện thiệt hơn. Anh em trong gia
đình phải như thể “tay chân” coi “anh thuận em hòa là nhà có phúc”. Đối với
người dưng thì phải giúp đỡ khi họ gặp khó khăn hoạn nạn, bênh vực kẻ yếu với
thái độ vô tư khi họ bị kẻ mạnh áp bức.

23


Trải qua hàng nghìn năm dưới ách thống trị của phong kiến, cuộc sống
của nhân dân lao động nước ta vô cùng cực khổ. Chính sách nô dịch, cướp bóc
của bọn thống trị nước ngoài, sự bóc lột dưới nhiều hình thức của bọn địa chủ
phong kiến trong nước cùng với điều kiện tự nhiên không thuận lợi như bão lụt,
hạn hán, mất mùa, các loại dịch bệnh… đã đè nặng lên cuộc sống của nhân dân
lao động nước ta. Trước tình cảnh đó, họ cảm thấy thương mình và cảm thương
những người có cùng chung cảnh ngộ như mình. Mọi người đồng cảm với từng
nỗi đau của người khác, sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” cho nhau với tinh thần “lá
lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Tư tưởng “thương người như

thể thương thân” đó được nhân dân ta tôn trọng, giữ gìn và chuyển giao qua các
thế hệ, trở thành một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
Trong cuộc sống người Việt coi trọng dung hòa “chín bỏ làm mười” để
tạo nên sự gắn bó lâu dài. Người Việt coi trọng tình nghĩa nên không tha thứ
chuyện bạc tình, bạc nghĩa theo lối “ăn cháo đá bát” ngay cả đối với người ruột
thịt. Thương yêu và quý trọng con người, đề cao con người với lòng tự hào chân
chính về sức mạnh và vẻ đẹp của nó là phẩm chất đạo đức cao đẹp của nhân dân
ta. Vì giàu lòng yêu thương con người nên khi bị chà đạp, nhân dân ta luôn sẵn
sàng đứng lên đấu tranh giành lấy quyền sống cho mình. Trong suốt chiều dài
lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược và đồng hóa. Vì vậy,
nhân dân ta hiểu rất rõ quyền được sống của mình gắn bó với vận mệnh của dân
tộc. Đạo làm người của nhân dân ta trước hết là yêu nước và dám xả thân vì
nước. Con người yêu nước và thương dân gắn bó chặt chẽ với nhau. Thương yêu
con người trước hết là yêu nước và cứu nước. Nước không độc lập thì dân
không được tự do, hạnh phúc. Chống áp bức, bất công, thần quyền, quân quyền,
đả kích những ràng buộc khắt khe của đạo đức phong kiến là để đem lại quyền
sống chân chính của con người.

24


Lòng yêu thương con người của dân tộc ta còn bao hàm cả lòng vị tha với
những kẻ lầm đường lạc lối, biết lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa và
mở đường hiếu sinh với kẻ thù một khi chúng đã thất bại. Lòng yêu thương con
người đó là truyền thống của dân tộc ta, là cơ sở của lòng yêu chuộng hòa bình
và hữu nghị giữa các dân tộc. Lòng yêu thương con người truyền thống của dân
tộc ta thấm nhuần tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sức mạnh của con người và sự
thắng lợi của chính nghĩa trước phi nghĩa, của cái đẹp, cái thiện, cái đúng trước
cái xấu, cái ác, cái sai. Đó là sức mạnh tinh thần giúp nhân dân ta vượt qua mọi
khó khăn thử thách, từng bước vươn lên làm chủ cuộc sống mình.

Bên cạnh lòng thương yêu, quý trọng con người, ý thức cộng đồng, tinh
thần đoàn kết là yếu tố tinh thần hợp thành nguồn sức mạnh thúc đẩy quá trình
phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tinh thần đoàn kết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước là biểu hiện của tình
yêu nước. Nhờ sức mạnh tinh thần của sự đoàn kết mà cha ông đã biến thành
sức mạnh vật chất, sức mạnh của cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Nhờ đoàn kết cha ông ta đã sáng tạo nên nền văn minh sông Hồng, đặt
cơ sở cho tiến trình phát triển về sau của dân tộc. Đoàn kết giúp nhân dân vượt
qua mọi thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ
đời sống của mình. Từ thực tiễn cuộc sống, cha ông ta đã nhận thức rằng: “đoàn
kết thì sống”, hay “một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”. Tinh thần đoàn kết đó là sức mạnh để nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lược. Lịch sử đã cho thấy một khi dân tộc ta không tạo nên khối đoàn kết
thì sự nghiệp bảo vệ bờ cõi biên cương sẽ thất bại. Thất bại của nhà Hồ vào thế
kỷ XV chống quân Minh là một ví dụ điển hình.
Ý thức cộng đồng là sự thống nhất cao giữa truyền thống yêu nước và
truyền thống nhân đạo, yêu thương con người. Đây là một điểm tựa tinh thần, là

25


×