Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

chính sách ngoại thương và thực trạng và giải pháp cán cân thương mại củaViệt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.82 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
I. Mục tiêu nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu:
2. Phạm vi nghiên cứu
II. Tổng quan tài liệu và cơ sở lý thuyết
1.Các khái niệm
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. chính sách ngoại thương
2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
2.1 Xuất khẩu và nhập khẩu
2.2 Tỷ giá hối đoái
2.3 Ảnh hưởng của dòng vốn:
2.4 Ảnh hưởng của thu nhập
5 Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế
2.5 Tỷ lệ trao đổi
3. Ảnh hưởng của chính sách ngoại thương lên cán cân thương mại
3.1. Đối với chính sách gia tăng xuất khẩu
3.2 Đối với chính sách hạn chế nhập khẩu
3.3. Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại
4. Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế
III. Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam
1 Phân tích SWOT
2. Tình hình cán cân thương mại của Việt Nam
3. Nguyên nhân thâm hụt cán cân thương mại
3.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
3.2 Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
3.3 Các nhân tố vĩ mô tác động đến cán cân thương mại Việt Nam
3.3.1 Tỷ giá hối đoái
3.4 Tăng trưởng kinh tế
4. Chính sách ngoại thương áp dụng trong giai đoạn hiện nay
4.1 Chính sách thuế và hạn ngạch


4.2 Điều chỉnh tỷ giá
III. Giải pháp
1. Biện pháp ngắn hạn và dài hạn
2. Một số biện pháp cải thiện thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu - Đối với thuế xuất
khẩu:
3. Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ
4.Một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc

1


Lời mở đầu
Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền kinh tế:
tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt hơn nữa
đó là tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày
càng gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và hiện
trạng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu
tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa tăng trưởng vững chắc. Hiện trạng này
chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú
sốc bên ngoài và tính bền vững của nền kinh tế khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam có xu hướng
thu hẹp.Từ thực trạng trên tác giả đã nghiên cứu đề tài : Chính sách ngoại thương và cán cân
thương mại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó chỉ đâu là nguyên nhân ảnh hưởng
đên cán cân thương mại và đề ra các giải pháp khắc phục.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định,rất mong được sự đóng góp của các bạn sinh viên và các độc giả để hoàn thiện hơn.

I. Mục tiêu nghiên cứu
1.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu về chính sách ngoại thương và thực trạng và giải pháp cán cân thương mại

củaViệt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.2 Mục tiêu cụ thể
-Tìm hiểu chính sách ngoại thương ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Tác động của chính sách ngoại thương lên cán cân thương mại
-Phân tích thực trạng cán cân thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Tìm hiểu nguyên nhân của thâm hụt thương mại
- Đề ra các giải pháp giải quyết tình trạng thâm hụt thương mại
2. Phạm vi nghiên cứu
Cán cân thương mại từ năm 2008 đên nay

II. Tổng quan tài liệu và cơ sở lý thuyết
1.Các khái niệm
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu
của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như
2


mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là
lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ
hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán
cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Xuất khẩu :
Trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong
cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài.(theo
điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005) xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa
được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam
được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật
Nhập khẩu:

Trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc
gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch
vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế
của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán
cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.

2. Cơ sở lý thuyết
2.1. chính sách ngoại thương
Chính sách ngoại thương góp phần ổn định nền kinh tế ở sản lượng tục tiêu Yp đồng thời
giữ cho can cân thương mại cân bằng
Các công cụ của chính sách ngoại thương:
Có 3 công cụ để thực hiện chính sách ngoại thương là :
Thuế xuất nhập khẩu
Hạn ngạch (quota) là định mức số lượng hang hóa mà chính phủ cho phép nhập khẩu hay
xuất khẩu
Tỷ giá hối đoái
2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
2.1 Xuất khẩu và nhập khẩu
Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ).
MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ
bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng
cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất
trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối
so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa
đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có
xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng
tăng.
Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ

3


thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô
hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
2.2 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá
tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ
giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên
rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì
thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập
khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm
xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng
lên.
2.3 Ảnh hưởng của dòng vốn:
Cán cân thương mại là một trong những yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại
phụ thuộc vào chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch
giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI,
ODA, FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác.
2.4 Ảnh hưởng của thu nhập:
Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa cũng đồng thời tăng theo.
Trong khi đó, khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng
hóa từ nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân
thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
2.5 Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế:
Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hóa trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân
thương mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán cân
thương mại. Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu khác cũng
sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán cân thương mại còn phụ
thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia.

2.5 Tỷ lệ trao đổi
Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá mà một nước có thể chấp nhận trả cho hàng hoa nhập khẩu
với giá xuất khẩu của nước đó.Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá nhập
khẩu.Do đó tỷ lệ trao đổi có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
3. Ảnh hưởng của chính sách ngoại thương lên cán cân thương mại
3.1. Đối với chính sách gia tăng xuất khẩu
Khi áp dụng chính sách miễn giảm thuế xuất khẩu hay trợ giá hang xuất khẩu, thì xuất
khẩu có xu hướng tăng lên một lượng ∆X theo hiệu ứng số nhân sẽ làm tăng thêm:
∆Y=k. ∆X . Khi sản lượng tăng thì nhập khẩu cuối cùng cũng tăng thêm:
∆M=Mm. ∆Y
∆M= Mm.(k. ∆X)
∆M= (Mmk) ∆X (5)
4


Trong biểu thức (5): tích số Mm, k thể hiện phần nhập khẩu cuối cùng tăng thêm khi xuất khẩu
ban đầu tăng thêm 1 đơn vị
Chính sách gia tăng xuất khẩu có cải thiện được cán cân thương mại hay không phụ thuộc vào
tích số Mm.k
Nếu Mm.k <1 → ∆M< ∆X → ∆NX>0 ; cán cân thương mại được cải thiện
Nếu Mm.k =1 → ∆M<=∆X → ∆NX=0 ; cán cân thương mại không thay đổi
Nếu Mm.k >1 → ∆M>∆X → ∆NX<0 ; cán cân thương mại bị thâm hụt nhiều hơn.
3.2 Đối với chính sách hạn chế nhập khẩu
Nhiều người cho rằng khi chúng ta nhập khẩu hang hóa của nước ngoài sản xuất sẽ làm
nhu cầu tiêu thụ hang sản xuất trong nước giảm, công ăn việc làm trong nước giảm. Do đó cần
phải áp dụng chính sách hạn chế hang nhập khẩu để tăng nhu cầu tiêu thụ hàng nội địa, nhờ vậy
mà sản lượng sản xuất tăng, mức nhân dụng tăng, thất nghiệp sẽ giảm,cán cân thương mại được
cải thiện.
Để hạn chế nhập khẩu chính phủ thường áp dụng các biện pháp: tăng thuế nhập khẩu, sử dụng
hạn ngạch nhập khẩu.

Nhưng ngày nay các nước có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất lớn, nhập khẩu của nước này là
xuất khẩu của nước khác. Cho nên chính phủ hạn chế nhập khẩu của một quốc gia có thể sẽ gặp
phải sự trả đũa của các nước khác bằng các chính sách tương tự thì chính sách hạn chế nhập khẩu
bị phá sản, không có tác dụng như mong muốn.
3.3. Tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại
Giả thiết cơ bản cho mô hình là một nước sẽ sản xuất một hàng hoá được tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu đồng thời nhập khẩu hàng hoá khác từ phần còn lại của thế giới, khi đó cân
bằng thương mại (xuất khẩu ròng) NX được xác định như sau:

Trong đó:
NX : cán cân thương mại Việt Nam
EX: xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
IM: nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
giá cả tương đối hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá sản xuất trong nước (tỷ giá thực
REER)
y : thu nhập quốc dân (GDP)
Hàm cầu xuất khẩu phụ thuộc vào tỷ giá thực REER. Khi phá giá tiền tệ, đồng nội tệ mất giá,
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trở nên rẻ hơn trên góc độ người tiêu dùng nước ngoài. Do đó
tạo nên lợi thế canh tranh về giá cả, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài.

5


e2
e1
NX(e1)

NX(e2)


NX

Tương tự như vậy, hàm cầu nhập khẩu cũng chịu tác động của tỷ giá thực. Khi đồng tiền trong
nước mất giá, hàng hoá nước ngoài trở nên đắt đỏ hơn, nên người tiêu dùng trong nước có xu
hướng chuyển sang tiêu dùng các mặt hàng thay thế mang lại những lợi ích tương tự có giá cả rẻ
hơn. Ngoài ra, cầu nhập khẩu có thể thay đổi khi thu nhập quốc dân thay đổi. Cùng với đà tăng
trưởng và phát triển kinh tế, thu nhập người tiêu dùng ngày càng được cải thiện. Khi thu nhập
tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng thích sử dụng hàng ngoại hơn vì vậy sẽ làm tăng
nhập khẩu.
Trong ngắn hạn hàng hoá thường không co giãn theo giá bởi vì người ta thường không thay đổi
thói quen một cách dễ dàng. Do đó, ta xét điều kiện Marshall- Lerner trong dài hạn với mô hình
kinh tế lượng thực chứng phân tích cho Việt Nam như sau:
Trong đó:

Từ năm 2002 đến 2007, cán cân thương mại và dịch vụ của nước ta liên tục bị thâm hụt, tỷ giá
thực hiệu lực REER cao hơn 1 trong suốt thời kỳ này nên kim ngạch xuất khẩu thực tế (EX/
) càng nhỏ hơn so với tổng kim ngạch nhập khẩu cùng kỳ. Trong trường hợp phá giá VND đưa
tỷ giá thực cao hơn thì sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời cũng làm cho kim ngạch nhập
6


khẩu tăng nhiều hơn. Theo điều kiện Marshall- Lerner, thì tổng hệ số co dãn xuất khẩu và nhập
khẩu nhỏ hơn 0 nên việc phá giá tiền tệ sẽ không mang lại hiệu quả trong hoàn cảnh Việt Nam
hiện nay.
Như ta đã biết, các biến kinh tế thường có tác động trễ, sự biến động của tỷ giá trong kỳ này sẽ
có ảnh hưởng đến cán cân thương mại trong các kỳ sau đó. Do đó, để xem xét tác động của các
yếu tố này ta hồi quy lại mô hình trên và đưa thêm các biến trễ vào, ta có kết quả như sau:
Khi tỷ giá thực tăng lên (đồng nội tệ mất giá), hàng hoá xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với người
tiêu dùng nước ngoài. Tuy nhiên, xuất khẩu không tăng lên ngay được vì hoạt động xuất khẩu
thường được thực hiện theo hợp đồng kỳ hạn. Còn kim ngạch nhập khẩu thì tăng lên do giá cả

hàng hoá và dịch vụ tăng. Do vậy cán cân thương mại và dịch vụ có xu hướng giảm xuống cho
đến khi tỷ giá thực sự tác động đến xuất khẩu làm cải thiện cán cân thương mại
4. Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế
Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một
quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc
gia.
Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân vãng lai, do đó có ảnh
hưởng đến ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đây là ảnh hưởng quan trọng nhất của cán cân thương mại
tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể đưa ra các chính sách để có thể điều chỉnh cán cân
thương mại đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế: X – M = (S – I) +
(T –G) Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc gia chi nhiều hơn thu nhập
của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại.
Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh tế và quản lý
luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như các thách thức để có thể đề ra những giải pháp thiết
thực cho hoạt động xuất – nhập khẩu trong thời gian sắp tới, từ đó giúp điều tiết vĩ mô một cách
tốt hơn.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu ròng bổ
sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ
khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành ban đầu như một nền kinh tế
đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở.
Cột 1 là mức GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng.
Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và mua hàng hóa, dịch vụ của
chính phủ (G).
7



Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả
định nó không thay đổi.
Cột 4 là nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả định nó luôn bằng 10% GDP.
Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất
khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm.
Sau khi cộng giá trị đóng góp của xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và
chính là tổng cầu ta được giá trị ghi tại cột 6.
GDP
ban
đầu

Cầu
trong
Xuất
nước
khẩu
(C+I+G (e)
)

Nhập
khẩu
(m)

Xuất
khẩu
ròng
(X = e
- m)


Tổng chi
tiêu
(C+I+G+X
)

75

67,5

7

7,5

-0,5

67

70

63

7

7

0

63

65


58,5

7

6,5

0,5

59

60

54

7

6

1

55

55

49,5

7

5,5


1,5

51

50

45

7

5

2

47

45

40,5

7

4,5

2,5

43

40


36

7

4

3

39

35

31,5

7

3,5

3,5

35

30

27

7

3


4

31

Cân bằng trong nền kinh tế mở
Hình vẽ sau minh họa cho ví dụ với các thông số trong bảng trên. Trong đó các kí hiệu:
C (consumption) là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế.
I (gross investment) là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu
dùng của các nhà đầu tư. Lưu ý, đừng lẫn lộn điều này với đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào
thị trường chứng khoán và trái phiếu.
G (government spending) là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). Quan hệ
của phần này đối với các phần còn lại của GDP được mô tả trong lý thuyết khả dụng (có thể đem
đi tiêu).

8


X (Net Export) là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng xuất khẩu (tiêu dùng của nền kinh
tế khác đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế trong tính toán sản xuất) trừ đi nhập khẩu
(tiêu dùng của nền kinh tế trong tính toán đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế khác
sản xuất).

Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt
đường phân giác OO' (ứng với mức GDP ban đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị
bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách
giữa đường C+G+I+X và đường C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng
GDP.
Như vậy nền kinh tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại
điểm có mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước

bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng luôn
dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng luôn âm, tổng
cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.
Số nhân trong nền kinh tế mở
Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc của đường cầu nội
địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh tế có xu hướng tiêu dùng cận
biên (marginal propensity to consume - MPC) là 0,75 thì khi GDP tăng 100 USD, chi cho tiêu
dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPZ là
0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10 USD. Do đó chi
tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65 USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của
đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động
mạnh đến số nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-MPC) còn trong nền
9


kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-(MPC-MPZ)). Khi không có ngoại
thương, với MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/
(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động của nhập
khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu
hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn
bởi rò rỉ qua nhập khẩu.

III. Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam
1 Phân tích SWOT
1.1 Điểm mạnh
Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn
đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực
tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
-Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam

bước đầu được mở rộng.
-Từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở
thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng.
Việt nam là nơi có nguồn nhân công,mặng bằng rẻ,tài nguyên thiên nhiên phong
phú,điều kiện tự nhiên thuận lợi,có thế mạnh về mặt hàng nông sản như café,tiêu, cà phê,
hạt tiêu, nhân điều, chè, dầu thô, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm
gỗ, xe đạp và phụ tùng…
1.2 Điểm yếu
Ở nước ta hiện nay “công nghiệp phụ trợ” còn hết sức đơn giản,hầu như chưa có gì
nhiều, quy mô SX nhỏ lẻ,chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn,giá trị gia tăng
thấp và còn có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các DN vừa và nhỏ nội địa của
Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu.
Cơ cấu kinh tế nhìn chung còn yếu kém so với các nước. Thông thường, khi chọn ngành
trọng điểm, phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập
khẩu. Nhưng ở nước ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng vốn đầu
tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao
bất thường.
Trong thực tế, chính sách bảo hộ của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể
cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có
những nhóm còn có tỷ lệ âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số
bảo hộ hữu hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng
Việc áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và nâng cao các dịch vụ
hỗ trợ thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu nhưng cũng đồng
10


thời thúc đẩy cả hoạt động nhập khẩu.
Quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt mức

473 USD/người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự biến
động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của
nước ngoài.
-Tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá
xuất xưởng.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng
hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp
kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ
yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi
các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu
vẫn còn mang tính chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo
hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để.
Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng,
chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà
chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp
có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn
- Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị
trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO,
các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối
tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn nhiều yếu
kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương
mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.
Việt Nam lại là việc lệ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu vào Mỹ. Trong năm 2009,
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị tương đương 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
-Thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa
Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như
Trung Quốc, Nhật Bản và Australia..

1.3 Cơ hội
Theo cam kết từ 1/1/2010, các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc và các
nước ASEAN 6 sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu từ 0-5%. Việt Nam được thực hiện
cam kết muộn hơn 5 năm bắt đầu từ năm 2015. Bởi vậy đây là cơ hội rất lớn cho hàng
hóa Việt Nam tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian 5 năm tới.
Sự biến động không ngừng của nền kinh tế toàn cầu cũng là cơ hội nâng cao các khả
năng cạnh tranh và tính thích nghi của các doanh nghiệp ViệtNam. Các vấn đề quản trị
doanh nghiệp, quản trị rủi ro, tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như đầu tư
vào công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, năng suất lao động, đào tạo kỹ năng cho lao
11


động cần được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc mới có hiệu quả.
Kinh tế của các nước thành viên EU vẫn đang khó khan trong giai đoạn này nhưng nhu
cầu nhập khẩu và tiêu thụ mặt hàng giày dép tại EU vẫn đứng ở mức cao tạo cơ hội gia
tăng xuất,khẩu cho doanh nghiệp VN
Từ năm 2010, khi Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được triển khai đồng
bộ, sẽ có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật với thuế suất
0%. Điều này đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản.
việc giảm thuế mạnh mẽ các mặt hàng nông sản xuất khẩu vào Nhật đã mở ra cho các
doanh nghiệp cơ hội tăng năng lực cạnh tranh. Cụ thể, theo các cam kết của VJEPA, Nhật
Bản đã cam kết giảm thuế đối với các mặt hàng tương đương với gần 84% giá trị nông sản
xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, ngay khi VJEPA có hiệu lực, trong số 2.020 dòng thuế
nông sản, Nhật Bản đã xóa bỏ ngay đối với 784 dòng, chiếm 36% tổng số dòng thuế nông
sản và chiếm 67,6% giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ra nhập các tổ chức kinh tế lớn,các hiệp định tự do thương mại…với bạn bè trên thế
giới đã tạo điều kiện tiếp thu kĩ thuật,khoa hoc công nghệ..tư đó tạo lợi thế cho xuất
khẩu..
1.4 Thách thức
Thường xuyên phải đối đầu với rào cản thương mại của các nước cũng là thách thức

không nhỏ đối với các doanh nghiệp VN trong xu thế hội nhập vì tính cạnh tranh còn thấp.
Chính vì vậy, nguy cơ Việt Nam phải đối mặt với hàng trăm vụ kiện mỗi năm, tranh chấp
thương mại và con số các vụ kiện sẽ ngày càng tăng
Áp dụng thuế nhập khẩu thấp hơn đối với thương mại hàng hoá theo FTA trong nội khối
ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA), và việc gia nhập WTO
trong 2007, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ đi tương đối so với các sản phẩm trong
nước và phù hợp hơn với túi tiền của dân chúng nên đã tạo ra tỷ lệ tiêu dùng hàng nhập
khẩu cao hơn.
Tỷ giá hối đoái giữ ở mức thấp ở một số nước đặt biệt là Trung Quốc (VN nhập khẩu tới
90%) gây khó khăn trong việc điều chỉnh cán cân thương mại của VN.
Hàng hoá xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành hàng như dầu thô,dệt
may, thuỷ sản, nông sản và giày dép. Do vậy, Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực khi có
sự biến động lớn về giá hàng hoá cũng như biến động trong nhu cầu ở thị trường nước
ngoài
Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều
hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng.
Khả năng cạnh tranh của hàng XK Việt Nam còn thấp do nhiều mặt hàng gia công, XK
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tiến độ thực hiện các dự án sản xuất
nguyên liệu, phụ liệu, phát triển công nghiệp phụ trợ còn chậm. Tình trạng thiếu hụt lao
động, nhất là lao động có tay nghề cao, có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, chi phí nhân công
có xu hướng tăng nhanh cũng khiến hàng hóa sản xuất tại Việt Nam mất dần lợi thế giá
nhân công rẻ; năng lượng cho sản xuất như than, điện, chưa phát triển kịp đáp ứng nhu
cầu phát triển các ngành kinh tế khác...
12


Việt Nam vẫn phải mất nhiều năm để trở thành một nền kinh tế xuất khẩu trong điều
kiện phải cạnh tranh khốc liệt với người hàng xóm Trung Quốc.Để làm được điều này, các
doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu hướng tới những thị trường khó tính với những sản phẩm đặc
thù thay vì cạnh tranh về giá cũng như nhân công lao động với đối thủ lớn Trung Quốc

Nhiều nhóm hàng đã chạm ngưỡng, khó tăng tiếp. Bên cạnh đó, xuất khẩu Việt Nam
cũng phải sẽ đối mặt thêm với nhiều rào cản thương mại mới... quá trình phục hồi của
kinh tế thế giới chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Những vấn đề hậu khủng hoảng như
bảo hộ mậu dịch, biến động giá cả, lạm phát, khan hiếm nguyên liệu, năng lượng... có thể
xảy ra, sẽ tác động xấu đến phát triển kinh tế các nước, nhất là các nước đang phát triển
như nước ta.
Hoạt động của hệ thống tài chính của Việt Nam còn nhiều rủi ro, lạm phát có nguy cơ
tăng lên cũng như đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của cả nền kinh
tế và của các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh có
thể còn diễn biến phức tạp... nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đến thời hạn
thực thi, nhất là cam kết về mở cửa lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bán lẻ, tạo ra thách thức
không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam..
Chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu một cách quá mức có thể đưa tới những khó khăn
nghiêm trọng một khi thị trường ngoài nước chao đảo, do đó có thể sẽ diễn ra xu thế cơ
cấu lại thị trường theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và ngoài nước, nhất là ở
các nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn.
2. Tình hình cán cân thương mại của Việt Nam
Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Tính trung bình
từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 18.7%/năm, trong khi
đó nhập khẩu tăng trung bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ bằng 76%
GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày
càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên đỉnh điểm vào năm 2008 là 17.51 tỷ USD.
Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở ngày càng
cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của Việt Nam từ năm
1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 2007. Thâm hụt thương
mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới hơn 20% GDP vào năm 2008.
Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế giới
Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2011
(đơn vị: tỷ USD)


13


Năm
Xuất
khẩu

2001
15

2002
19,7

2003
25,3

2004
26,5

2005
32,4

2006
39,8

2007
48,6

2008
62,7


2009
57,1

2010
72,2

2011
96,9

Nhập
khẩu

16,2

16,7

20,2

32

37

44,9

62,7

80,7

69,9


84,8

106,
7

Thâm
hụt
thương
mại

1,1

3

5,1

5,5

4,6

5,1

14,1

18

12,9

12,6


9,8

(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và cán cân thương mại
Việt Nam giai đoạn 2001-2011

Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008 xuất khẩu liên tục tăng từ 15 tỷ USD lên 62,7 tỷ
USD, tỷ lệ tăng trưởng trung bình đạt 18,3 % . Nhập khẩu tăng trung bình 25,8 %/1 năm. Từ
16,2 tỷ USD lên 80,7 tỷ USD, lên tới hơn 20% GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa
trung bình của các nước trên thế giới.
Với năm 2008 thâm hụt thương mại ở mức cao nhất với 18 tỷ USD . Tuy nhiên đến năm 2009 cả
xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
Nhập khẩu giảm 13,4 % so với năm 2008, xuất khẩu giảm 9% so với năm 2008.
Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc thiết bị và
nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, nhập khẩu mặt
14


hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, còn lại là máy móc thiết
bị.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế giá trị
gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và khoáng sản
khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt hàng liên quan đến nông
nghiệp sơ chế như nông lâm thuỷ hải sản chiếm trên 15-17%. Những mặt hàng chế biến chiếm tỷ
trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên
liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá trị gia tăng từ mặt hàng này tương đối thấp.
Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong
mặt hàng xuất khẩu.
Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm hơn 90% tổng nhập siêu của

Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính thức. Nếu thống kê cả hàng hoá nhập lậu qua
biên giới và bằng con đường tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao hơn. Điều đáng quan ngại
là tốc độ gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, trong khi xuất khẩu sang nước này
hầu như không thay đổi.
Bức tranh xuất nhập khẩu Việt Nam 2010
Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 72 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009
trong đó 18 mặt xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD với tổng kim ngạch đạt 54.595 triệu USD, chiếm
76% tổng kim ngạch cả nước. Ngôi thứ kim ngạch cao thay đổi trong các năm, với đà tăng
trưởng xuất khẩu sẽ có thêm nhiều mặt hàng vào top 1 tỷ USD (xem bảng và biểu đồ ghi mặt
hàng theo số thứ tự trong biểu)

15


9
trong khi đó giá hàng hóa xuất khẩu lại tăng không bằng giá nhập khẩu, gây nhiều khó
khăn cho DN sản xuất xuất khẩu. Nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (hàng tiêu
dùng, ô tô từ 9 chỗ trở xuống, xe máy) tăng 13%, thấp hơn so với mức tăng trưởng chung
18,4%. 2010 Việt Nam có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD cho thấy, năng
lực cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu đã được nâng lên rõ rệt.
Hàng dệt may đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 11 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm
trước và chiếm 15,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), vượt 8% so với mục tiêu
xuất khẩu đặt ra từ đầu năm.
Về đích thứ hai là mặt hàng da giầy, thuỷ sản. Tuy bị áp thuế bán phá giá ở một số thị
trường, đặc biệt là thuỷ sản còn chịu sự kiểm tra khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm,
song do chúng ta chủ động đầu tư chiều sâu, tạo mặt hàng mới và mở rộng thị trường nên
kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng trên đều đạt trên 4,9 tỷ USD, lần lượt vượt 13,4%
và 8,1% mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Tiếp theo, mặt hàng gạo đạt kim ngạch hơn
3 tỷ USD và vượt 8,6% so với mục tiêu đầu năm.
Đặc biệt, so với năm 2009, chúng ta có thêm 5 mặt hàng mới có kim ngạch xuất khẩu

trên 1 tỷ USD gồm hạt điều, xăng dầu các loại, sản phẩm chất dẻo, dây điện cáp điện và
16


phương tiện vận tải, đưa tổng số mặt hàng có kim ngạch 1 tỷ USD trở lên là 18 mặt hàng.
Bên cạnh các mặt hàng truyền thống là thế mạnh của Việt Nam nói trên, nhiều mặt hàng
xuất khẩu mới như máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, hóa chất, sản phẩm
hóa chất, sản phẩm cao su, sản phẩm thủy tinh... kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, điều
này khẳng định chủ trương phát triển mặt hàng xuất khẩu mới từng bước phát huy hiệu
quả trong năm qua, đồng thời cho thấy năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của nền kinh tế
ngày càng được mở rộng.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tiếp
tục xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới, có khả năng ảnh hưởng đến
thị trường thế giới như gạo và cà phê (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu), cao su, hạt tiêu,
hạt điều. Giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng do giá thị trường thế
giới tăng mạnh, đồng thời nhờ hàm lượng chế biến trong sản phẩm xuất khẩu được nâng
lên. Thị trường xuất khẩu được mở rộng và toàn bộ các thị trường xuất khẩu đều vượt mục
tiêu tăng trưởng. Cụ thể, xuất khẩu sang Ấn Độ tăng 133%, Đài Loan tăng 28%, Hồng
Kông tăng 46%, Hàn Quốc tăng 38%, Trung Quốc tăng 45%.
Trong số 11 mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu chủ yếu, chiếm hơn 83% tổng kim ngạch
nhập khẩu hàng tiêu dùng, thì kim ngạch của 5 mặt hàng tăng khá cao là sữa và sản phẩm
từ sữa tăng 59,5%; rau và một số loại củ, quả tăng 44,9%; dầu mỡ động thực vật tăng
29,6%; đường và các loại kẹo đường tăng 105,8%; máy móc thiết bị điện sử dụng trong
gia đình tăng 23,9%. Có thể thấy nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng là do nhập khẩu những
mặt hàng tiêu dùng cần thiết (không phải hàng xa xỉ, cao cấp) tăng mạnh, như đường, sữa, dầu
ăn. Những mặt hàng này trong nước đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và cả
về chất lượng.
Nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, cao cấp đã có xu hướng giảm hoặc chỉ tăng
nhẹ so với năm 2009, như nhập khẩu quả giảm 13,4%, đồ uống, rượu giảm 34,7%, ô tô
nguyên chiếc dưới 10 chỗ giảm 7,4%; điện thoại di động tăng nhẹ 2,8% và nước hoa và

mỹ phẩm tăng 14,8%....
Nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu tăng mạnh về lượng trong thời gian gần
đây cho thấy sản xuất, xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng. Tuy nhiên, giá nhập khẩu
nhiều mặt hàng tăng mạnh ảnh hưởng không nhỏ đến đầu vào của sản xuất kinh doanh,
Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2011
Theo ghi nhận của Tổng cục Hải quan thì tính từ đầu năm đến ngày 25 tháng 12 năm 2011, tổng
kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đã chinh phục mức kỷ lục mới của Việt Nam
“200 tỷ USD” sau khi đã cán mốc 100 tỷ USD vào ngày 01 tháng 12 năm 2007.
Tính đến hết tháng 12 năm 2011 tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước đạt 203,6
tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trị giá hàng hoá xuất khẩu đạt 96,9 tỷ
USD, tăng 34,2% và thực hiện vượt 22% mức kế hoạch của cả năm 2011; trong khi đó, trị giá
hàng hóa nhập khẩu là 106,7 tỷ USD, tăng 25,8% và vượt 14,2% kế hoạch của cả năm. Với kết
quả trên thì cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam trong năm 2011 thâm hụt 9,84 tỷ USD,
bằng 10,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
17


Theo số liệu Thống kê Hải quan thì tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của khối
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2011 đạt 96,71 tỷ USD, tăng
36% so với kết quả thực hiện của năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu là 47,87 tỷ USD, tăng
40,3% và chiếm 49,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực
các doanh nghiệp này là 48,84 tỷ USD, tăng 32,1%, chiếm 45,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của
cả nước. Trong khi đó, khối doanh nghiệp trong nước xuất khẩu đạt 49,03 tỷ USD trong năm
2011, tăng 28,7% và nhập khẩu là 57,91 tỷ USD, tăng 21%.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính
Hàng thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 6,11 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm
2010 và tăng 65,6% so với mức bình quân giai đoạn 2005- 2009.
Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn là 3 đối tác chính nhập khẩu hàng thuỷ sản
trong năm 2011, cụ thể: xuất mặt hàng này sang thị trường EU đạt 1,36 tỷ USD, tăng 12,9%;
sang Hoa Kỳ đạt 1,16 tỷ USD, tăng 21,3%; sang Nhật Bản đạt 1,02 tỷ USD, tăng 13,6% so với

năm 2010. Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam còn mở rộng sang các thị trường như Hàn
Quốc: 490 triệu USD, tăng 26,1%; Trung Quốc: 223 triệu USD, tăng 37,3%; Braxin: 86,3 triệu
USD, tăng 153,5%...
Gạo vẫn là một mặt hàng nông sản chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu nông
sản của nước ta (chiếm 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản). Số liệu thống kê của Tổng
cục Hải quan cho thấy năm 2011 lượng gạo xuất khẩu đạt 7,1 triệu tấn và trị giá đạt 3,66 tỷ USD,
chỉ tăng nhẹ 3,3% về lượng và tuy nhiên tăng khá 12,6% về trị giá so với năm trước.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam năm 2011

18


Cà phê: Lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt gần 1,26 triệu tấn, trị giá đạt 2,75 tỷ USD, tăng
3,2% về lượng và tăng 48,7% về trị giá so với năm 2010.
Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong năm 2011 bao gồm EU: 490 nghìn tấn, tăng
1,8% và chiếm 39% tổng lượng xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam; tiếp theo là Hoa Kỳ:
138,5 nghìn tấn, giảm 9,5%; Nhật Bản: 50,7 nghìn tấn, giảm 4,4%... so với năm 2010.
Cao su: Tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 817 nghìn tấn, tăng 4,4%, trị giá
đạt 3,23 tỷ USD, tăng 35,4% so với năm 2010.
Trung Quốc vẫn là đối tác chính tiêu thụ cao su nhập khẩu từ Việt Nam trong năm 2011 với 502
nghìn tấn, tăng 8% và chiếm tới 61,4% lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là các thị
trường: EU: 67,1 nghìn tấn, tăng 6,2%; Malaixia: 57,8 nghìn tấn, giảm 2%; Đài Loan: 34,3 nghìn
tấn, tăng 7,6%;…
Dầu thô: lượng dầu thô xuất khẩu năm 2011 đạt 8,24 triệu tấn, tăng 3,3% và trị giá đạt 7,24 tỷ
USD, tăng 46,1% so với năm 2010. Đơn giá xuất khẩu bình quân đạt 879 USD/tấn (khoảng 115
USD/thùng), tăng 41,4% so với năm trước.
Lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: 1,82 triệu tấn,
tăng gấp 4 lần, sang Ôxtrâylia: 1,44 triệu tấn, giảm 50,5%; sang Trung Quốc: 1,25 triệu tấn, tăng
111%; sang Malaixia: 1,09 triệu tấn, giảm 16,1% so với năm trước.
Than đá: lượng than xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2011 là 17,2 triệu tấn, giảm 13,4%, trị

giá đạt 1,63 tỷ USD, tăng 1,3% so với năm 2010. Lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam sang
hầu hết các thị trường đều giảm so với năm trước. Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhập khẩu
19


than đá của Việt Nam với 13,4 triệu tấn, giảm 8,2% và chiếm tới 78,3% tổng lượng xuất khẩu
mặt hàng này của cả nước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc: 1,52 triệu tấn, giảm 13,5% và Nhật
Bản: 1,37 triệu tấn, giảm 19,8%…
Hàng dệt may: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2011 của nước ta đạt 14,04 tỷ USD,
tăng 25,3% so với năm 2010 và tăng tới 132% so với kim ngạch bình quân của giai đoạn 2001 2010.
Từ năm 2007, trị giá xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp FDI vượt qua các doanh
nghiệp trong nước. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của khối doanh nghiệp FDI
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước liên tục tăng trong những năm gần đây. Năm 2011,
kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 8,51 tỷ USD, chiếm 60,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu nhóm hàng này của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2006 - 2011

Trong năm 2011, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường lớn nhất tiêu thụ hàng dệt
may từ Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2010 lần lượt là 6,88 tỷ USD
và 12,5%; 2,57 tỷ USD và 33,6%; 1,69 tỷ USD và 46,4%. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất
sang 3 thị trường này đạt 11,15 tỷ USD, chiếm tới 79,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của cả nước trong năm 2011.
Giày dép các loại: Những đối tác chính nhập khẩu giày dép của Việt Nam trong năm 2011 chủ
yếu là: EU: 2,61 tỷ USD, tăng 15,7%; Hoa Kỳ: 1,91 tỷ USD, tăng 35,5%; Trung Quốc: 253 triệu
USD, tăng 63%; Nhật Bản: 249 triệu USD, tăng 44,7%;…
Túi xách, ví, vali, mũ & ô dù: năm 2005, xuất khẩu nhóm hàng này chỉ đạt 500 triệu USD, đến
năm 2010 đạt 959 triệu USD. Năm 2011, xuất khẩu nhóm hàng này đạt con số ấn tượng lên đến
gần 1,3 tỷ USD, tăng 34% so với năm trước. Các đối tác chính nhập khẩu túi xách, ví, vali, mũ &
ô dù của Việt Nam chủ yếu là: Hoa Kỳ: 459 triệu USD, tăng 38,1%; EU: 441 triệu USD, tăng

23,3%; Nhật Bản: 144 triệu USD, tăng 53,8% so với năm 2010…
20


Sản phẩm từ sắt thép: kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong năm 2011 đạt 1,14 tỷ USD,
tăng 37,8% so với năm 2010. Xuất khẩu sản phẩm từ sắt thép tăng mạnh sang thị trường Hoa Kỳ
với 285 triệu USD, tăng tới 133,4%; xuất sang EU đạt 240 triệu USD, tăng 18,9%; xuất sang
Nhật Bản đạt 122 triệu USD, tăng 24,7%...
Điện thoại các loại & linh kiện: Tính chung năm 2011, xuất khẩu điện thoại các loại & linh
kiện đạt 6,89 tỷ USD, tăng 198,4% so với năm 2010. Những đối tác chính nhập khẩu điện thoại
các loại & linh kiện của Việt Nam trong năm 2011 là EU với 2,94 tỷ USD (năm 2010 là 427
triệu USD), chiếm 42,6% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam. Tiếp theo là Hồng
Kông: 660 triệu USD, tăng 73,8%; Nga: 536 triệu USD, tăng 111%; Ấn Độ: 371 triệu USD, tăng
45,2% so với năm 2010.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng là nhóm hàng dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá của Việt Nam với kim ngạch năm 2011 đạt 15,34 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2010. Trong
đó, khu vực FDI nhập khẩu 6,59 tỷ USD, tăng 28,1% và các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu
8,75 tỷ USD, tăng 2,4% so với một năm trước đó.
Nhóm hàng máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng nhập khẩu chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với
5,18 tỷ USD, tăng 15,7% so với năm 2010; tiếp đến là Nhật Bản: 2,8 tỷ USD, tăng 9,9%; EU:
2,42 tỷ USD, tăng 10,8%; Hàn Quốc: 1,26 tỷ USD; tăng 13,8%; Đài Loan: 899 triệu USD, tăng
10,9%; Hoa Kỳ: 848 triệu USD, tăng 4,1%;…
Xăng dầu các loại: tính đến hết năm 2011, tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước là gần
10,7 triệu tấn, tăng 11,4% so với năm 2010 với trị giá gần 9,9 tỷ USD, tăng 61,6%. Đơn giá nhập
khẩu bình quân trong năm 2011 tăng 45% so với năm 2010 nên kim ngạch tăng do yếu tố giá là
3,07 tỷ USD và tăng do yếu tố lượng là 698 triệu USD.

Đơn giá nhập khẩu xăng dầu các loại theo tháng năm 2010 - 2011


21


Lượng xăng dầu nhập khẩu theo loại hình tạm nhập tái xuất trong năm 2011 là 715 nghìn tấn,
giảm 60,6% so với năm 2010. Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2011 chủ
yếu có xuất xứ từ: Singapore với gần 4,4 triệu tấn, tăng 26,7%; tiếp theo là Đài Loan: 1,39 triệu
tấn, tăng 31,6%; Trung Quốc: 1,32 triệu tấn, giảm 13%; Hàn Quốc: 1,12 triệu tấn, tăng 1,36%;
Cô oét: 796 nghìn tấn, tăng 62,4%;… so với năm 2010.
Sắt thép các loại: tính đến hết năm 2011, tổng lượng nhập khẩu sắt thép của Việt Nam là 7,39
triệu tấn, giảm 18,7%, kim ngạch nhập khẩu là 6,43 tỷ USD, tăng 4,5%. Trong đó, lượng phôi
thép nhập khẩu là 878 nghìn tấn, trị giá đạt 576 triệu USD, giảm 55,8% về lượng và giảm 46,4%
về trị giá so với năm 2010.
Trong năm 2011, Việt Nam nhập khẩu sắt thép trong năm 2011 chủ yếu có xuất xứ từ: Nhật Bản
với 1,93 triệu tấn, tăng 10,6% so với năm 2010; Hàn Quốc: gần 1,7 triệu tấn, tăng 2,9%; Trung
Quốc: 1,67 triệu tấn, giảm 23,7%; Đài Loan: 810 nghìn tấn, tăng 1,4%;…
Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm
hàng này trong năm 2011 là 12,27 tỷ USD, tăng 24,7% so với năm 2010. Trong đó trị giá nhập
khẩu vải là 6,73 tỷ USD, tăng 25,5%; nguyên phụ liệu dệt may
da giày 2,95 tỷ USD, tăng 12,5%; xơ sợi dệt là 1,53 tỷ USD, tăng 30,4% và bông là hơn 1 tỷ
USD, tăng 56,1%.
Trong năm 2011, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhập khẩu 7,88 tỷ USD,
tăng 26,3% và các doanh nghiệp trong nước là 4,39 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2010.
Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm 2011 là: Trung Quốc:
3,96 tỷ USD, tăng 26,4%; Hàn Quốc: 2,11 tỷ USD, tăng 22%; Đài Loan: 2 tỷ USD, tăng 16,6%;
Nhật Bản: 737 triệu USD, tăng 43,4%; Hoa Kỳ: 733 triệu USD, tăng 70,9%; Hồng Kông: 594
triệu USD, tăng 10,3%; … so với năm 2010.

22



Phân bón các loại: trong cả năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu của Việt Nam là hơn 4,25
triệu tấn, tăng 21,1%, trị giá là 1,78 tỷ USD, tăng 46,1% so với năm 2010. Trong đó nhập khẩu
nhiều nhất là phân Urê với hơn 1,13 triệu tấn, tăng 14,5%; phân Kali là 947 nghìn tấn, tăng
44,2% và phân SA là 891 nghìn tấn, tăng 30,5% so với năm 2010.
Tính đến hết năm 2011, Việt Nam nhập khẩu phân bón chủ yếu có xuất xứ từ: Trung Quốc: 2,17
triệu tấn, tăng 26,9% và chiếm tỷ trọng 51% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả
nước; Bêlarút: 378 nghìn tấn, tăng mạnh 159%; Philippin: 319 nghìn tấn, tăng 61,6%; Nhật Bản:
239 nghìn tấn, tăng 11,9%; …
Ô tô nguyên chiếc: Tính đến hết năm 2011, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu xe dưới 9
chỗ là 34,9 nghìn chiếc, giảm 0,3%; ô tô tải là 16 nghìn chiếc, tăng 13,3%; ô tô loại khác là 3,69
nghìn chiếc, giảm 32,5% so với năm 2010.
Xe ôtô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc với 25 nghìn
chiếc, giảm 11% so với năm 2010. Trong đó, lượng xe dưới 9 chỗ ngồi là gần 18 nghìn chiếc,
giảm 5,3% và chiếm 71,8% lượng xe nhập khẩu từ thị trường này. Tiếp theo là các thị trường:
Trung Quốc: 5,5 nghìn chiếc, tăng 31,8%; Thái Lan: 5,38 nghìn chiếc, tăng 92,5%; Nhật Bản:
4,55 nghìn chiếc, giảm 15,6% so với năm 2010;…
Hàng điện gia dụng và linh kiện: trong năm vừa qua, Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này chủ
yếu có xuất xứ từ các thị trường Đông Nam Á.
Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong năm 2011 đạt 675 triệu USD, tăng 4,5% so với năm
2010. Các thị trường cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam có xuất xứ từ từ các nước thành
viên ASEAN với 497 triệu USD (trong đó nhập khẩu từ: Thái Lan là 352 triệu USD; Malaixia:
123 triệu USD; Inđônêxia: 19,2 triệu USD); nhập khẩu từ Trung Quốc: 124 triệu USD; Hàn
Quốc: 20,2 triệu USD; …
Tình hình xuất nhập khẩu quý I năm 2012

tháng
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương
mại


1
7,1
6,9
0,2

2
8,3
8,6
-0,3

3
9,1
9,3
-0,2

Quý 1
24,5
24,77
-0,3

Xuất nhập khẩu 3 tháng đầu năm 2012 (đơn vị tỷ USD)
(Nguồn Tổng cục thống kê)
Xuất khẩu hàng hoá
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ba tháng đầu năm ước tính đạt 24,5 tỷ USD, tăng 23,6% so với
cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt gần 9 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm
trước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,5 tỷ USD, tăng 43,1%.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng cao chủ yếu do đơn giá xuất khẩu bình quân một số
mặt hàng tăng như: Giá điện thoại và linh kiện tăng 179,8%; giá chất dẻo tăng 64,7%; giá máy


23


móc thiết bị và phụ tùng tăng 61,3%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
quý I năm nay tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I, một số mặt hàng xuất khẩu đạt mức kim ngạch tăng cao là: Điện thoại các loại và
linh kiện đạt 2,9 tỷ USD, tăng 179,8% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện
đạt 1,6 tỷ USD, tăng 97,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,2 tỷ USD, tăng 61,3%.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức tăng khá là: Hàng dệt may đạt 3,2 tỷ USD, tăng
15,4% so với cùng kỳ năm 2011; dầu thô đạt 1,7 tỷ USD, tăng 9,1%; giày dép đạt 1,5 tỷ USD,
tăng 14%; thủy sản đạt 1,3 tỷ USD, tăng 11,7%. Riêng xuất khẩu gạo và cà phê giảm cả về lượng
và giá trị so với cùng kỳ năm trước, trong đó cà phê đạt 514 nghìn tấn, giảm 10,1% và kim ngạch
đạt 1,1 tỷ USD, giảm 11,8%; gạo đạt 1104 nghìn tấn, giảm 42,5% và kim ngạch đạt 556 triệu
USD, giảm 42,5%.
Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu có sự thay đổi: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng
sản tăng từ 37,3% trong quý I năm trước lên 44,9% trong quý I năm nay do có sự đóng góp lớn
của mặt hàng điện thoại và linh kiện các loại; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp giảm nhẹ từ 36,3% xuống 35,5%; nhóm hàng nông, lâm sản giảm từ 20,7% xuống 14,5%;
nhóm hàng thủy sản giảm từ 5,7% xuống 5,1%.
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I năm nay, EU là thị trường lớn nhất với kim ngạch ước
tính đạt 4,5 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là Hoa Kỳ đạt 4,1 tỷ USD,
tăng 16,5%; ASEAN đạt 3,6 tỷ USD, tăng 21%; Nhật Bản đạt 2,9 tỷ USD, tăng 45%; Trung
Quốc 2,6 tỷ USD, tăng 18,1%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ba tháng đầu năm ước tính đạt 24,8 tỷ USD, tăng 6,9% so với
cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 11,7 tỷ USD, giảm 10,9%; khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13 tỷ USD, tăng 30,3%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I tăng
chủ yếu do giá bình quân các mặt hàng nhập khẩu tăng như: Giá phân bón tăng 19%; giá xăng
dầu tăng 18%; giá dầu thô tăng 13%; giá khí đốt hoá lỏng tăng 11%.
Trong số các mặt hàng nhập khẩu quý I năm nay, hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,7 tỷ
USD, tăng 103,4% so với cùng kỳ năm trước; sắt thép đạt 1,4 tỷ USD, tăng 7,7%. Một số mặt

hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2011 là: Xăng dầu 2 tỷ USD, giảm
19,7%; vải 1,3 tỷ USD, giảm 11,1%; kim loại thường 594 triệu USD, giảm 3,3%; ôtô 510 triệu
USD, giảm 32,4%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu 496 triệu USD, giảm 19%; sợi dệt 341
triệu USD, giảm 13,3%.
Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu cũng có sự thay đổi: Tỷ trọng nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng từ
90,4% trong quý I năm trước lên 92,7% trong quý I năm nay, trong đó máy móc thiết bị dụng cụ
phụ tùng tăng từ 27,6% lên 33,9%; nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu giảm từ 62,8% xuống
58,8%; nhóm hàng tiêu dùng giảm từ 8,4% xuống 7,3%. Riêng vàng không nhập khẩu trong quý
I năm nay, trong khi tỷ trọng kim ngạch mặt hàng này cùng kỳ năm trước là 1,2%.
Về thị trường nhập khẩu ba tháng đầu năm, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất của nước ta với
kim ngạch ước tính 5,4 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là ASEAN 4,9 tỷ
USD, tăng 2,8%; Hàn Quốc 3,4 tỷ USD, tăng 20%; Nhật Bản đạt 2,6 tỷ USD, tăng 14,8%; EU 1,9
tỷ USD, tăng 25%.
24


Nhập siêu hàng hóa quý I năm 2012 ước tính 251 triệu USD, bằng 1% tổng kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2,75 tỷ USD; khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài xuất siêu 2,5 tỷ USD.
3. Nguyên nhân thâm hụt cán cân thương mại
3.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Hơn một thập niên qua, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng nông lâm sản, công nghiệp
nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).
Theo thống kê của GSO, trung bình giai đoạn 1999 - 2010, hàng nông lâm sản chiếm khoảng
15%, trong đó chủ yếu là hàng nông sản với các sản phẩm chính như gạo, hồ tiêu, cao su; hàng
công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm khoảng 34% mà chủ yếu là khoáng sản với mặt hàng
chính là than đá và dầu thô; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40%
với sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giầy da (Hình 2).

Hình 2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo nhóm (trung bình) giai đoạn 1999 - 2010F. Nguồn:

Tính toán của tác giả dựa trên số liệu GSO
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội so
với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam giống với các nước khác trong
ASEAN. Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải
nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều
ngành nghề sản xuất trong nước.
Không chỉ vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng
hạn như tỷ giá hối đoái tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết
các mặt hàng xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm
bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá,...) hay một số nhóm hàng phụ bị tác động quá
nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,...).
25


×