Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.98 MB, 103 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC





HOÀNG THỊ LIÊN





NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG
THÁI NGUYÊN








LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC







THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC


ơ

HOÀNG THỊ LIÊN





NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ
CHẤT THẢI Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN



Chuyên ngành: Y học dự phòng
Mã số: 60 72 73




LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC





Hướng dẫn khoa học: TS Bùi Văn Hoan



THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các Thầy giáo, Cô giáo, các bộ
môn, các Phòng, Khoa của Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khóa học.
Để hoàn thành Luận văn này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS.TS. Nguyễn Thành Trung - Giám đốc Bệnh viện đa khoa Trung ương
Thái Nguyên; TS. Bùi Văn Hoan - Phó giám đốc Sở Y tế Thái Nguyên người thầy đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn
tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới:
Lãnh đạo Sở Tài Nguyên và Môi trường, Chi cục Bảo vệ môi trường, đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong toàn bộ khóa học.

Ban Giám đốc, các Phòng, Khoa của Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái
Nguyên; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên môi trường và công trình đô
thị Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu và hoàn thành luận
văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, anh, chị, em, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khoá học.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009
TÁC GIẢ
Hoàng Thị Liên








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC

Nội dung Trang
Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục bảng, biểu đồ, hình

Chữ viết tắt trong Luận văn


Đặt vấn đề
1
Chƣơng 1. Tổng quan
3
1.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới ...................................... 3
1.1.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế ..................................................... 3
1.1.2. Phân loại chất thải y tế 4
1.1.3. Quản lý chất thải y tế 4
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam ..................................... 5
1.2.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế .................................................. 5
1.2.2. Thành phần và phân loại chất thải y tế ............................................... 6
1.2.3. Quản lý chất thải y tế 8
1.2.4. Biện pháp xử lý chất thải y tế 10
1.3. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại tỉnh Thái Nguyên ......................... 11
1.4. Một số yếu tố liên quan đến chất thải y tế ............................................. 12
1.4.1. Tác hại và nguy cơ của CTYT đối với môi trường và sức khỏe cộng
đồng trên thế giới

12
1.4.2. Tác hại và nguy cơ của CTYT đối với môi trường và sức khỏe cộng
đồng tại Việt Nam
14
1.4.3. Hiểu biết của cán bộ, nhân viên y tế về quản lý chất thải y tế ........... 15
1.4.4. Nguồn lực cho công tác quản lý chất thải .......................................... 16
Chƣơng 2. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu ................................
19
2.1. Đối tượng nhiên cứu 19
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 19
2.3. Phương pháp nghiên cứu 20


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.3.1. Phương pháp 20
2.3.2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu 20
2.4. Chỉ số nghiên cứu 21
2.4.1. Chỉ số về thực trạng quản lý chất thải y tế ......................................... 21
2.4. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế ............................... 21
2.5. Kỹ thuật thu thập số liệu 22
2.6. Vật liệu nghiên cứu 25
2.7. Xử lý số liệu 25
2.8. Khống chế sai số trong nghiên cứu 25
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu 25
Chƣơng 3. Kết quả nghiên cứu
26
3.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế 26
3.2. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế ................................ 32
Chƣơng 4. Bàn luận
49
4.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế 49
4.1.1. Thực trạng quản lý chất thải rắn 49
4.1.2. Thực trạng quản lý nước thải bệnh viện ............................................. 55
4.2. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế ................................ 58
4.2.1. Nhân lực trực tiếp quản lý chất thải y tế ............................................ 58
4.2.2. Trang thiết bị phục vụ thu gom rác thải ............................................. 63
4.2.3. Thực trạng hệ thống thu gom và xử lý nước thải ............................... 66
Kết luận
69
Khuyến nghị
71
Tài liệu tham khảo




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Chất thải y tế phát sinh theo giường bệnh trên thế giới ............ 3
Bảng 1.2. Chất thải y tế phát sinh theo giường bệnh tại Việt Nam ........... 5
Bảng 2.1. Giá trị giới hạn các thông số và nồng độ các chất ô nhiễm 24
Bảng 3.1. Thực trạng chất thải rắn y tế tại bệnh viện ............................... 26
Bảng 3.2. Thực trạng thu gom, phân loại chất thải y tế ............................ 28
Bảng 3.3. Thực trạng vận chuyển, lưu giữ chất thải rắn y tế .................... 29
Bảng 3.4. Thực trạng xử lý chất thải rắn y tế 30
Bảng 3.5. Thực trạng chất lượng nước thải bệnh viện ............................ 31
Bảng 3.6. Nhân lực trực tiếp quản lý chất thải y tế tại bệnh viện ............. 33
Bảng 3.7. Tỷ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên được tập huấn quy chế
quản lý chất thải y tế

34
Bảng 3.8. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất thải
y tế theo nhóm chất thải y tế

35
Bảng 3.9. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về mã màu dụng cụ
đựng chất thải y tế

36
Bảng 3.10 Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất
thải y tế theo nhóm chất thải và theo mã màu…………………....

37

Bảng 3.11. Tình hình thực hiện quy chế quản lý chất thải y tế ................... 38
Bảng 3.12. Liên quan giữa hiểu biết với thực hành phân loại chất thải ...... 39
Bảng 3.13. Liên quan giữa học tập với hiểu biết về phân loại chất thải của
nhân viên y tế và vệ sinh viên
40
Bảng 3.14. Hiểu biết về các đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi chất thải của
nhân viên y tế và vệ sinh viên y tế

41
Bảng 3.15. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về tác hại của chất
thải y tế đối với người tiếp xúc

42
Bảng 3.16. Liên quan giữa kiến thức, thái độ của bệnh nhân với thực
hành bỏ rác đúng quy định

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 3.17. Tỷ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên bị thương tích do chất
thải y tế

46
Bảng 3.18. Thực trạng phương tiện thu gom, vận chuyển chất thải rắn ............ 45
Bảng 3.19. Thực trạng nhà lưu giữ chất thải rắn y tế ................................ 46
Bảng 3.20. Thực trạng hệ thống thu gom và xử lý nước thải .................... 48



BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 3.1. Nhân lực trực tiếp quản lý chất thải y tế tại bệnh viện ........ 33
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên được tập huấn quy chế
quản lý chất thải y tế

34
Biểu đồ 3.3. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất
thải y tế theo nhóm chất thải y tế
35
Biểu đồ 3.4. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về mã mầu dụng cụ
đựng chất thải y tế

36
Biểu đồ 3.5. Hiểu biết của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất thải
y tế theo nhóm chất thải và theo mã màu

37
Biểu đồ 3.6 Liên quan giữa kiến thức, thái độ của bệnh nhân với thực hành
bỏ rác đúng quy định ...............

Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên bị thương tích do chất thải y tế 44




HÌNH

Hình 3.1. Sơ đồ quy trình thu gom, phân loại, quản lý chất thải rắn y tế 27
Hình 3.2. Sơ đồ hệ thống quản lý chất thải y tế tại bệnh viện .............. 32
Hình 3.3. Sơ đồ hệ thống thu gom nước thải 47



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
AIDS : Acquired Immune Deficiency Syndrome
(Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
BOD
5
: Chỉ số nhu cầu ô xy sinh hóa sau 5 ngày, ở
nhiệt độ 20
o
C
BVĐKTWTN : Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái
Nguyên
CTYT : Chất thải y tế
CTR : Chất thải rắn
DANIDA : Danish International Developrment
Assistant (Quỹ hợp tác phát triển quốc tế
Đan Mạch)
DEA : Danish Environmental Assistant to Vietnam
(hỗ trợ môi trường của Đan Mạch cho Việt
Nam)
GB : Gường bệnh
KQ PT : Kết quả phân tích
HBV : Hepatitis B virus (Vi rút viêm gan B)
HCV : Hepatitis C virus (Vi rút viêm gan C)
HIV : Human Immunodeficiency Virus (Vi rút
gây suy giảm miễn dịch ở người)
ICT : Limited company to clean technology and
international trade (Công ty TNHH kỹ thuật

làm sạch và thương mại quốc tế)
NSNN : Ngân sách nhà nước
PX : Phóng xạ
TB : Trung bình
TCCP : Tiêu chuẩn cho phép
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
UBND : Ủy ban nhân dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
URENCO : URBAN ENVIRONMENT COMPANY (Công
ty môi trường đô thị)
YHHN : Y học hạt nhân
WHO : World Health Organization (Tổ chức Y tế
Thế giới)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ

Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của
ngành Y tế. Nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ thống các cơ sở y
tế không ngừng được tăng cường, mở rộng và hoàn thiện Tuy nhiên, trong quá trình
hoạt động, hệ thống y tế đặc biệt là các bệnh viện đã thải ra môi trường một lượng
lớn các chất thải bỏ, bao gồm những chất thải bỏ nguy hại. Theo Tổ chức Y tế thế
giới, trong thành phần chất thải bệnh viện có khoảng 10% là chất thải nhiễm khuẩn
và khoảng 5% là chất thải gây độc hại như chất phóng xạ, chất gây độc tế bào, các
hoá chất độc hại phát sinh trong quá trình chẩn đoán và điều trị, đó là những yếu tố
nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, lan truyền mầm bệnh từ bệnh viện tới các vùng
xung quanh, dẫn tới tăng nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện và tăng tỷ lệ bệnh tật của

cộng đồng dân cư sống trong vùng tiếp giáp [40], [63].
Theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến tháng 10 năm 2007, cả nước có 1087 bệnh
viện, trong đó có 1023 bệnh viện công, 64 bệnh viện tư với tổng số 140.000 giường
bệnh. Bên cạnh đó còn có 14 Viện thuộc hệ dự phòng, 189 trung tâm y tế dự phòng
tuyến tỉnh, 680 trung tâm y tế huyện, 100 cơ sở nghiên cứu đào tạo y dược và 181
công ty, xí nghiệp sản xuất thuốc, 10.999 trạm y tế xã, phường. Tổng lượng chất
thải rắn phát sinh từ các cơ sở y tế năm 2005 vào khoảng 300 tấn/ngày, trong đó có
40 tấn/ngày là chất thải y tế nguy hại. Đến năm 2006, tính chung tỷ lệ bệnh viện có
hệ thống xử lý nước thải là 37% và chỉ có 30% trong số này đạt tiêu chuẩn cho
phép; có 90,9% bệnh viện thực hiện thu gom CTYT hàng ngày, nhưng chỉ có 50%
bệnh viện trong số này phân loại và thu gom CTYT đạt yêu cầu [23].
Để đánh giá thực trạng về CTYT cũng như những ảnh hưởng của CTYT đối
với môi trường, nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan đã tiến hành điều tra, nghiên
cứu. Các nghiên cứu đã phần nào cho thấy những tồn tại trong công tác quản lý
CTYT ở nước ta [26], [28], [40]. Hiện nay, vì nhiều lý do, trong đó có áp lực về nhu
cầu khám chữa bệnh của nhân dân, sự quá tải của nhiều bệnh viện, sự thiếu đồng bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cơ sở hạ tầng của bệnh viện nên dẫn tới vệ sinh môi trường của nhiều bệnh viện
chưa được đảm bảo [18].
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do CTYT, ngày 22/4/2003, Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch xử lý
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, bao gồm 84 bệnh viện,
trong đó có bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên [18].
Sau quyết định phê duyệt đó, Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên đã
tích cực triển khai nhiều hoạt động để xử lý triệt để ô nhiễm môi trường. Tuy vậy,
các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường của bệnh viện vẫn mang tính chắp vá,
nhiều chỉ số ô nhiễm qua giám sát vượt quá nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Để đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi trường của Bệnh viện đa khoa
Trung ương Thái Nguyên trong thời gian qua, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề

tài: "Nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế tại
Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên", với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện đa khoa Trung ương
Thái Nguyên.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế.











Chƣơng 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TỔNG QUAN


1.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về CTYT đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở
các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Canada... Các nghiên cứu đã quan tâm đến
nhiều lĩnh vực như tình hình phát sinh; phân loại CTYT; quản lý CTYT (biện pháp
làm giảm thiểu chất thải, tái sử dụng chất thải, xử lý chất thải, đánh giá hiệu quả của
các biện pháp xử lý chất thải...); tác hại của CTYT đối với môi trường, sức khoẻ; biện
pháp làm giảm tác hại của CTYT đối với sức khỏe cộng đồng, sự đe dọa của chất thải
nhiễm khuẩn tới sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng của nước thải y tế đối với việc lan

truyền dịch bệnh; những vấn đề liên quan của y tế công cộng với CTYT; tổn thương
nhiễm khuẩn ở y tá, hộ lý và người thu gom rác; nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm
khuẩn ngoài bệnh viện đối với người thu nhặt rác, vệ sinh viên và cộng đồng; người
phơi nhiễm với HIV, HBV, HCV ở nhân viên y tế. [57], [58], [60], [61].
1.1.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng CTYT phát sinh thay đổi theo khu vực địa lý, theo mùa và phụ
thuộc vào các yếu tố khách quan như: cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh, loại, quy mô bệnh
viện, phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, chữa bệnh và
chăm sóc bệnh nhân và thải rác của bệnh nhân ở các khoa phòng [34].
Bảng 1.1. Chất thải y tế theo giƣờng bệnh trên thế giới [53]
Tuyến bệnh viện Tổng lƣợng CTYT(kg/GB) CTYT nguy hại (kg/GB)
Bệnh viện trung ương 4,1 - 8,7 0,4 - 1,6
Bệnh viện tỉnh 2,1 - 4,2 0,2 - 1,1
Bệnh viện huyện 0,5 - 1,8 0,1 - 0,4
1.1.2. Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (1992), ở các nước đang phát triển
có thể phân loại CTYT thành các loại sau: Chất thải không độc hại (chất thải sinh
hoạt gồm chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại); chất thải sắc nhọn (truyền
nhiễm hay không truyền nhiễm); chất thải nhiễm khuẩn (khác với các vật sắc nhọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhiễm khuẩn); chất thải hoá học và dược phẩm (không kể các loại thuốc độc đối với
tế bào); chất thải nguy hiểm khác (chất thải phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình
chứa khí có áp suất cao) [17], [63].
Ở Mỹ phân loại chất thải y tế thành 8 loại: Chất thải cách ly (chất thải có khả
năng truyền nhiễm mạnh); Những nuôi cấy và dự trữ các tác nhân truyền nhiễm và
chế phẩm sinh học liên quan; Những vật sắc nhọn được dùng trong điều trị, nghiên
cứu...; Máu và các sản phẩm của máu; Chất thải động vật (xác động vật, các phần
của cơ thể...); Các vật sắc nhọn không sử dụng; Các chất thải gây độc tế bào; Chất
thải phóng xạ [63].

1.1.3. Quản lý chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới, có 18 - 64% cơ sở y tế chưa có biện pháp xử lý
chất thải đúng cách. Tại các cơ sở Y tế, 12,5% công nhân xử lý chất thải bị tổn
thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý CTYT. Tổn thương này cũng là
nguồn phơi nhiễm nghề nghiệp, với máu phổ biến nhất, chủ yếu là dùng hai tay tháo
lắp kim và thu gom tiêu huỷ vật sắc nhọn. Có khoảng 50% số bệnh viện trong diện
điều tra vận chuyển CTYT đi qua khu vực bệnh nhân và không đựng trong xe thùng
có nắp đậy [64].
Theo H.Ô-ga-oa, cố vấn Tổ chức Y tế thế giới về sức khoẻ, môi trường khu
vực Châu Á, phần lớn các nước đang phát triển không kiểm soát tốt CTYT, chưa có
khả năng phân loại CTYT mà xử lý cùng với tất cả các loại chất thải. Từ những năm
90, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Singapo, Australia, Newziland đã đi đầu trong
công tác xử lí CTYT, Malaixia có phương tiện xử lý rác thải tập trung trên bán đảo
và các hệ thống xử lý rác thải thải riêng biệt cho các bệnh viện ở xa tại Boocneo [64].
Ở các nước phát triển đã có công nghệ xử lý CTYT đáng tin cậy như đốt rác
bằng lò vi sóng, tuy nhiên đây không phải là biện pháp hữu hiệu được áp dụng ở các
nước đang phát triển, vì vậy, các nhà khoa học ở các nước Châu Á đã tìm ra một số
phương pháp xử lý chất thải khác để thay thế như Philippin đã áp dụng phương pháp
xử lý rác bằng các thùng rác có nắp đậy; Nhật Bản đã khắc phục vấn đề khí thải độc hại
thoát ra từ các thùng đựng rác có nắp kín bằng việc gắn vào các thùng có những thiết bị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cọ rửa; Indonexia chủ trương nâng cao nhận thức trước hết cho các bệnh viện về mối
nguy hại của CTYT gây ra để bệnh viện có biện pháp lựa chọn phù hợp [59].
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
Theo Quy chế Quản lý CTYT của Bộ Y tế ban hành tại Quyết định số
43/QĐ-BYT ngày 30/11/2007, quy định [21]:
Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở y tế
bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải y tế nguy hại là CTYT chứa yếu tố nguy hại cho sức khoẻ con người

và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn
hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải này không được tiêu huỷ an toàn.
Quản lý chất thải y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu, thu
gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải
y tế và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
1.2.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Theo kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện năm 1998, cho
thấy tỷ lệ phát sinh chất thải y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ sở y tế rất khác nhau.
Trong cùng một bệnh viện, các khoa khác nhau sẽ có lượng chất thải rắn y tế phát sinh
khác nhau, trong một bệnh viện đa khoa, khoa hồi sức cấp cứu, khoa sản, khoa ngoại có
lượng CTYT phát sinh lớn nhất. Dẫn từ [17], [40].
Bảng 1.2. Chất thải y tế phát sinh theo giƣờng bệnh tại Việt Nam
Tuyến bệnh viện Đơn vị Tổng lƣợng CTYT CTYT nguy hại
Bệnh viện trung ương (kg/GB) 0,97 0,16
Bệnh viện tỉnh (kg/GB) 0,88 0,14
Bệnh viện huyện (kg/GB) 0,73 0,11
Chung (kg/GB) 0,86 0,14
Lượng chất thải rắn y tế phát sinh là cơ sở quan trọng để xác định khối lượng
thu gom, công suất lò đốt. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của một số công trình
nghiên cứu trong nước về tổng lượng CTYT phát sinh trên địa bàn cả nước có sự sai
lệch: Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Khiển... 50 - 70 tấn/ngày; kết quả nghiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cứu của Nguyễn Huy Nga (Bộ Y tế) là 16,5 tấn.ngày; kết quả nghiên cứu của Lê
Doãn Diên 37,5 tấn ngày; theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2004 là 57,5
tấn/ngày; của Bộ Xây dựng là 34 tấn/ngày. Sở dĩ có sự chệnh lệch như vậy vì một
số đề tài khi nghiên cứu về lượng CTYT phát sinh có xét đến cả chất thải xây dựng,
bùn bể phốt.... Một số đề tài nghiên cứu khác chỉ xét đến lượng CTYT phát sinh khi
cần thiêu đốt. Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế (2001) tại 280 bệnh viện lượng
CTYT phát sinh mỗi ngày khoảng 429 tấn/ngày, trong đó lượng CTYT nguy hại

khoảng 34 tấn/ngày, ước tính tổng lượng khoảng 15 triệu tấn/năm CTYT, trong đó
có khoảng 21.000 tấn/năm CTYT nguy hại. Dự báo đến năm 2010, lượng CTYT
nguy hại sẽ có khoảng 25.000 tấn/năm [17], [28].
1.2.2. Thành phần và phân loại chất thải y tế
Căn cứ vào các đặc điểm lý học, hoá học, sinh học và tính chất nguy hại, chất
thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm [21]:
* Chất thải lây nhiễm: Nhóm này gồm các loại chất thải:
- Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc
thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền,
lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thuỷ tinh vỡ và các vật sắc nhọn
khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
- Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải bị thấm máu, thấm
dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly.
- Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh trong các
phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm.
- Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ thể
người; rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.
* Chất thải hoá học nguy hại: Nhóm này gồm các loại chất thải sau:
- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
- Chất hoá học nguy hại sử dụng trong y tế
- Chất gây độc tế bào, gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính thuốc gây
độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng hoá trị liệu.
- Chất thải chứa kim loại nặng: thuỷ ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thuỷ ngân bị vỡ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc quy), chì (từ tấm gỗ bọc chì
hoặc vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các khoa chẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
* Chất thải phóng xạ: Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát sinh từ
các hoạt động chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất.
Danh mục thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu dùng trong chẩn đoán và điều

trị ban hành kèm theo Quyết định số 33/2006/QĐ-BYT ngày 24 tháng 10 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Y tế.
* Bình chứa áp suất: Bao gồm bình đựng oxy, CO2, bình ga, bình khí dung.
Các bình này dễ gây cháy, gây nổ khi thiêu đốt.
* Chất thải thông thường: là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hoá
học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ thuỷ tinh,
chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy xương kín. Những chất thải
này không dính máu, dịch sinh học và các chất hoá học nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
Theo kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 1998 - 1999 thành phần CTYT ở một
số bệnh viện Việt Nam gồm:
- Chất thải rắn y tế: Giấy các loại; kim loại, vỏ hộp; thuỷ tinh, ống tiêm, chai lọ
thuốc, bơm kim tiêm nhựa; bông băng, bột bó gãy xương; chai, túi nhựa các loại;
bệnh phẩm; rác hữu cơ; đất đá và các vật rắn khác.
- Chất thải lỏng bệnh viện: nước thải từ khoa Xét nghiệm, X quang, khoa lâm
sàng, cận lâm sàng, bộ phận phục vụ trong bệnh viện và nước mưa.
- Chất thải khí: khí thải từ các công trình, thiết bị xử lý, tiêu huỷ CTYT.
1.2.3. Quản lý chất thải y tế
Ở nước ta CTYT đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật, nhưng việc
thực hiện chưa nghiêm túc theo quy định, hầu hết CTYT ở các bệnh viện chưa được xử
lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường. Nhiều bệnh viện không có hệ thống thu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
gom, xử lý nước thải, hoặc có thì nhiều hệ thống cống rãnh đã bị hư hỏng, xử lý xuống
cấp; rác thải không được phân loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ. Thực
trạng như sau [23], [24], [31], [40]:

* Về quản lý rác thải:
Kết quả điều tra năm 2002 của Bộ Y tế tại 294 bệnh viện trong cả nước cho thấy
94,2% bệnh viện phân loại CTYT tại nguồn phát sinh, chỉ có 5,8% bệnh viện chưa thực
hiện. Các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh, bệnh viện tư nhân thực hiện phân loại
CTYT ngay tại nguồn tốt hơn các bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện ngành. Có 93,9%
bệnh viện thực hiện tách riêng vật sắc nhọn ra khỏi CTYT, hầu hết các bệnh viện sử
dụng chai nhựa, lọ truyền đã dùng để đựng kim tiêm. Nhưng qua kiểm tra thực tế, việc
phân loại CTYT ở một số bệnh viện chưa chính xác, làm giảm hiệu quả của việc phân
loại chất thải. 85% bệnh viện sử dụng mã màu trong việc phân loại, thu gom và vận
chuyển chất thải.
Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung (2003)
cho thấy: cả 6 bệnh viện đều phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh nhưng
chưa có bệnh viện nào phân loại rác đúng theo Quy chế của Bộ Y tế và việc phân
loại phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có của bệnh viện.
Kết quả thanh tra, kiểm tra của Bộ Y tế (2004) về CTYT ở 175 bệnh viện tại 14
tỉnh, thành phố, cho thấy số bệnh viện có thùng chứa chất thải chiếm 76%, có bể chứa
rác chiếm 9,6%, có nắp đậy thùng rác hoặc mái che bể chứa rác chiếm 43%, rác được
để riêng biệt chiếm 19,3% trong tổng số bệnh viện, nơi chứa rác thải đảm bảo vệ sinh
chiếm 35,5%; 29% bệnh viện chôn CTR trong bệnh viện; có 3,2% bệnh viện vừa chôn,
vừa đốt trong bệnh viện. Hầu hết các CTR trong bệnh viện đều không được xử lý trước
khi đem đốt hoặc chôn. Một số ít bệnh viện có lò đốt CTYT nhưng lại quá cũ kỹ và gây
ô nhiễm môi trường.
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2007) tại 4 bệnh viện Hà Nội, Bệnh viện Lao và bệnh
phổi Trung ương được đánh gía là bệnh viện quản lý rác thải tốt nhất trong 4 bệnh viện
được kiểm tra nhưng Đoàn kiểm tra đã phát hiện trong buồng bệnh chỉ có thùng đựng rác
sinh hoạt thiếu thùng chứa đờm của bệnh nhân. Ở Bệnh viện Việt Đức tất cả rác thải đều
chứa chung trong một loại túi đựng rác màu vàng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), năm 2006, tỷ lệ bệnh viện thực hiện phân loại

CTYT là 95,6% và thu gom hàng ngày là 90,9%. Phương tiện thu gom CTYT như túi,
thùng đựng chất thải, xe đẩy rác, nhà chứa rác còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa
đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu của Quy chế quản lý CTYT. Chỉ có khoảng 50% các bệnh
viện trên phân loại, thu gom đạt yêu cầu theo quy chế [23].
* Về nước thải:
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2004) tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành phố thì
có đến 31,5% bệnh viện không có hệ thống thoát nước thải, chủ yếu ở các bệnh viện
tuyến huyện. Trong số bệnh viện có hệ thống thoát nước thì có tới 47,4% bệnh viện
sử dụng hệ thống thoát nước chung gồm cả nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước
thải y tế; chỉ có 21,1% bệnh viện có hệ thống thoát nước thải riêng biệt; 26,3% bệnh
viện có hệ thống thoát nước thải kín; 31,4% hở và 42,3% vừa kín vừa hở.
Kết quả điều tra tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh (2003): cả 6 bệnh viện đều có
hệ thống cống thoát nước thải nhưng chất lượng cống khác nhau, có bệnh viện hệ
thống cống nổi nhưng không có nắp đậy, nước thải bệnh viện không được xử lý
(bệnh viện Yên Bái), hoặc xử lý một phần (bệnh viện Quảng Nam, Cần Thơ), hoặc
đã xử lý toàn bộ (bệnh viện Phú Thọ, Quảng Ngãi, Đồng Tháp) nhưng tất cả đều đổ
nước thải ra cống thoát nước chung [31].
Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), năm 2006, tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý
nước thải tuyến Trung ương là 71%, tuyến tỉnh là 46%, tuyến huyện là 30% và bệnh viện
tư nhân là 85%. Tính chung tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải là 37% và chỉ có
khoảng 30% trong số này đạt tiêu chuẩn cho phép. Hiện cả nước còn có gần 640 bệnh
viện cần được trang bị hệ thống xử lý nước thải, số bệnh viện cần cải tạo lại hệ thống xử
lý nước thải khoảng 220 bệnh viện [23].
* Về xử lý khí thải bệnh viện: Chỉ có một số bệnh viện lớn có hệ thống xử lý khí
thải hoặc có hotte hút hơi khí độc tại các khoa/ phòng Xét nghiệm, X quang, còn đa
phần các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý khí thải.
1.2.4. Biện pháp xử lý chất thải y tế
* Về xử lý chất thải rắn y tế:
Hình thức xử lý chất thải rắn trong bệnh viện ở nước ta rất đa dạng, phụ thuộc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vào quy mô, điều kiện của từng bệnh viện.
Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2004) [8], Việt Nam đã xây
dựng được 43 lò đốt CTYT hiện đại, nâng công suất xử lý lên 28.840 kg/ngày Công
suất thiết kế của một lò đốt khoảng 40kg/h - 50 kg/h. Tuy nhiên đại đa số các lò đốt
chưa sử dụng hết công suất, khi so sánh tổng công suất của các lò đốt với lượng
CTYT phát sinh, đã cho thấy, các lò đốt được lắp đặt đã đáp ứng đủ khối lượng phát
sinh tại thời điểm. Qua đó đã chứng tỏ rằng vẫn còn một khối lượng lớn CTYT phát
sinh chưa được thu gom và xử lý đúng cách. Thực trạng như sau:
- Thiêu đốt chất thải rắn y tế:
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò đốt rác hiện đại: Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh đã xử lý CTYT tập trung với công nghệ nhập của nước ngoài. Một số bệnh viện
đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thuỵ Sĩ đảm bảo an toàn về môi
trường. Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), cả nước đã có gần 200 lò đốt CTYT (chiếm
73,3%). Trong số các bệnh viện có lò đốt, ở tuyến trung ương có 5/5 hoạt động
thường xuyên và có bảo dưỡng định kỳ theo đúng quy định; tuyến tính là 79/106 lò.
Nhưng chưa có một nghiên cứu thống kê cụ thể nào về các loại lò đốt hiện đang hoạt
động tại các bệnh viện ở Việt Nam và hiệu quả xử lý của các lò đốt thiết kế và chế tạo
trong nước và cũng chưa có số liệu về số lò đốt đạt tiêu chuẩn khí thải. Thiết kế cơ
bản của các lò đốt hiện có đều thiếu hệ thống xử lý khí thải, gây ô nhiễm môi trường,
công suất lò đốt sử dụng chưa hợp lý [23].
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò thủ công hoặc đốt ngoài trời: Hiện nay, phần lớn các
bệnh viện trong cả nước, nhất là bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện thiêu đốt CTYT
bằng các lò đốt thủ công không có hệ thống xử lý khí thải hoặc đốt ngoài trời. Nghiên
cứu 6 bệnh viện tuyến tỉnh năm 2003 cho thấy: chỉ có 2/6 bệnh viện xử lý rác bằng lò
đốt chuyên dụng, còn 4/6 bệnh viện chôn lấp hoặc sử dụng lò đốt thủ công và tuyến
huyện là 97/201 lò đốt. Tuy nhiên chỉ có 197 lò đốt 2 buồng, còn lại là lò thủ công [26]
+ Chôn lấp chất thải rắn y tế: Kết quả điều tra của Bộ Y tế (1998) tại 80 bệnh
viện, phần lớn CTYT ở các bệnh viện được xử lý theo phương pháp thô sơ, đơn
giản, chưa đảm bảo vệ sinh và an toàn môi trường, rác thải y tế được chôn lấp trong

khu đất bệnh viện và bãi rác công cộng chiếm tỷ lệ cao (70% bệnh viện chôn rác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thải nhiễm khuẩn; 44,3% bệnh viện chôn rác thải vật sắc nhọn; 44,2% bệnh viện
chôn rác thải từ phòng xét nghiệm, 50% bệnh viện chôn lấp rác thải là hoá chất và
dược phẩm). Tình trạng thiếu đất để chốn lấp CTYT đang trở nên phổ biến, nhiều
bệnh viện phải chôn đi chôn lại nhiều lần trong khu đất bệnh viện. Theo báo cáo của
Bộ Y tế (2009), đến năm 2006, cả nước vẫn còn 26,7% bệnh viện đang thực hiện
chôn lấp CTYT hoặc đốt thủ công ngoài trời, chủ yếu tập trung ở các bệnh viện
tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh [23].
* Về xử lý nước thải bệnh viện:
Một số bệnh viện như Bệnh viện đa khoa và Bệnh viện Lao Tuyên Quang;
Bệnh viện C và Bệnh viện Lao và bệnh phổi Thái Nguyên; Bệnh viện đa khoa tỉnh
Sơn La, Trung tâm Y tế huyện Lương Tài - Bắc Ninh đang áp dụng công nghệ xử lý
nước thải bệnh viện theo phương pháp lọc sinh học ngập nước cải tiến hoặc phương
pháp lọc sinh học nhỏ giọt [37].
1.3. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nằm ở phía Bắc của Thủ đô Hà
Nội, cách Hà Nội 80 km, có diện tích tự nhiên là 3.541 km
2
, dân số trên 1,1 triệu
người, có 9 đơn vị hành chính với 180 xã phường, thị trấn.
Để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của nhân dân trong tỉnh và
các tỉnh miền núi khu vực Đông Bắc, các cơ sở y tế của tỉnh Thái Nguyên trong những
năm qua cũng đã tăng cả về số lượng và quy mô giường bệnh. Theo niên giám thống
kê của tỉnh, từ năm 2004 đến năm 2006 số cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh đã tăng từ 214 cơ
sở lên 218 cơ sở, số giường bệnh tăng từ 3.229 giường bệnh lên 3.553 giường bệnh.
Không kể các trạm y tế xã, phường, hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 19 cơ sở y tế
tuyến trung ương, tuyến tỉnh và các trung tâm y tế huyện, bệnh viện tư nhân [25].
Theo báo cáo của DANIA (2001) tại 17 bệnh viện ở tỉnh, lượng chất thải rắn

phát sinh trong 17 bệnh viện là: 1.979,3kg/ngày, trong đó chiếm 16,74% là chất thải
rắn y tế nguy hại và 83,26% là các CTYT không nguy hại [27].
Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, Thái Nguyên có 4 bệnh viện thuộc đối
tượng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải thực hiệnbiện pháp xử lý. Hiện có
khoảng 65 – 7- % rác thải y tế của bệnh viện được thu gom và xử lý; 5/19 bệnh viện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
có hệ thống xử lý nước thải, nhưng nhìn chung chất lượng xử lý chưa đạt yêu cầu.
Phần lớn CTYT ở các bệnh viện tuyến huyện chưa được xử lý hoặc xử lý không đạt
tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Kết quả phân tích nước thải của các bệnh viện cho
thấy, hàm lượng BOD
5
và COD và các hợp chất hữu cơ khác đều cao hơn tiêu
chuẩn cho phép, kể cả nước thải của các bệnh viện đã qua hệ thống xử lý. Phần lớn
CTYT nguy hại của các bệnh viện được chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại
chỗ. Các bệnh viện tuyến huyện hầu như chưa có hệ thống xử lý nước thải và biện
pháp xử lý chất thải rắn đảm bảo vệ sinh môi trường [37].
1.4. Một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải y tế
1.4.1. Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe
cộng đồng trên thế giới
Chất thải y tế là môi trường có khả năng chứa đựng các loại vi sinh vật gây
bệnh, các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào, chất phóng xạ... Các
nghiên cứu dịch tễ học trên thế giới đã chứng minh, các chất thải bệnh viện có ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe cán bộ, nhân viên y tế, cộng đồng dân cư nếu CTYT không
được quản lý đúng cách. Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể con
người qua các đường: Qua các vết da bị xây xước hoặc bị thương, qua đường hô hấp
(do hít phải), qua đường tiêu hóa), tác động gián tiếp do ô nhiễm môi trường, hoặc
tiếp xúc với các tác nhân trung gian như ruồi, muỗi, chuột... Tất cả những người tiếp
xúc với CTYT nguy hại đều là đối tượng có nguy cơ bị tác động bởi chất thải y tế,
bao gồm: Cán bộ y tế và nhân viên vệ sinh bệnh viện; Những người thu gom phế liệu;

Người bệnh, người nhà bệnh nhân; Người dân sống gần bệnh viện [17], [56].
Các nguy cơ gây bệnh của CTYT là các bệnh về đường tiêu hoá do các vi khuẩn
tả, lỵ, thương hàn, trứng giun; nhiễm khuẩn đường hô hấp do lao, do phế cầu khuẩn;
tổn thương nghề nghiệp; nhiễm khuẩn da; bệnh than; AIDS; nhiễm khuẩn huyết;
viêm gan A, B; thần kinh; gây độc, ăn mòn, cháy, nổ [17], [56].
Theo báo cáo của tổ chức Bảo vệ môi trường Mỹ có khoảng 162 - 321 trường hợp
nhiễm virus viêm gan B có phơi nhiễm với CTYT so với tổng số 300.000 trường hợp
nhiễm virus viêm gan B mỗi năm. Trong số những nhân viên tiếp xúc với chất thải
bệnh viện, nhân viên vệ sinh có tỷ lệ tổn thương nghề nghiệp cao nhất. Tỷ lệ tổn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thương chung là 180/1000 người trong một năm, cao hơn hai lần so với tỷ lệ này của
toàn bộ lực lượng lao động ở Mỹ cộng lại [17].
Ở Nhật Bản, các nghiên cứu về chất thải y tế đã đưa ra các số liệu như sau [41]:
+ Tháng 7 năm 1987 có 2 bác sĩ trẻ thực tập nội trú ở Khoa Nhi không may bị
nhiễm virút từ các ống tiêm và đã bị chết bởi viêm gan B cấp tính. Tại Nhật bản đã
ghi nhận 570 trường hợp tương tự như vậy.
+ Việc khảo sát của các nhà y tế cộng đồng năm 1986 cho thấy 67,3% những
người thu gom rác trong các bệnh viện bị tổn thương do các vật sắc nhọn, 44,4%
những người thu gom rác bên ngoài các bệnh viện bị tổn thương khi thu gom các
chất thải bệnh viện.
+ Shiro Shirato cũng đã nêu trong tài liệu khoa học của Nhật Bản, tổng số hơn
500 trường hợp bị lây nhiễm bệnh có liên quan tới chất thải bệnh viện, hơn 400
trường hợp bị tác hại sinh học từ các thuốc có độc tố tế bào.
Đối với nước thải, ở Chi Lê và Pê Ru đã có những nghi ngờ về việc thải nước
thải bệnh viện ra cống một cách tùy tiện đã làm lan truyền dịch tả.
Những tai nạn nghiêm trọng bởi các chất thải bệnh viện bị nhiễm phóng xạ đã
được ghi nhận bởi các cơ quan truyền thông quốc tế ở thành phố Brasilia năm 1989.
Rác không được thu dọn kịp thời sẽ trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi, chuột,
gián, ô nhiễm môi trường không khí do phát sinh mùi hôi thối khó chịu. Các trung

gian truyền bệnh này sẽ tạo ra một nguy cơ lan tràn bệnh dịch nhanh chóng từ các
bệnh viện, từ CTYT không được xử lý đúng cách. Cũng như vậy, nước thải bệnh
viện không được xử lý đảm bảo yêu cầu vệ sinh cũng sẽ là nguồn phát tán các mầm
bệnh vào các nguồn nước (nước mặt, nước ngầm) [17].
Qua các nghiên cứu về tác hại của CTYT đối với những người tiếp xúc, trong
đề tài này, chúng tôi đã lựa chọn các nhân viên y tế, hộ lý và các nhân viên thu gom,
vận chuyển rác (sau đây gọi tắt là vệ sinh viên); bệnh nhân và người nhà bệnh nhân
để nghiên cứu về kiến thức, thái độ, hành vi của họ đối với các vấn đề về CTYT.
1.4.2. Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng
đồng tại Việt Nam
* Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Một số nghiên cứu đã cho thấy ô nhiễm môi trường chủ yếu là môi trường
nước và không khí [26], [31], [40].
Theo tài liệu thu thập của Trần Thị Minh Tâm (2006): kết quả điều tra quản lý
CTYT tại một số bệnh viện huyện ngoại thành Hà Nội của Bùi Văn Trường,
Nguyễn Tất Hà (năm 1998) cho thấy: các chỉ tiêu trong nước thải như COD, BOD
5
,
NH
4
, Coliform và Fecal coliform ở mức độ ô nhiễm nặng so với tiêu chuẩn cho
phép. Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam (2004) lượng vi
khuẩn/m
3
không khí cao hơn giới hạn cho phép [40].
Kết quả nghiên cứu tại 8 bệnh viện huyện của 4 tỉnh (2006) cho thấy, 100%
mẫu nước sinh hoạt tại các khoa không đạt tiêu chuẩn vi sinh vật, các chỉ số
Coliform và Fecal coliform, BOD, COD đều cao so với tiêu chuẩn cho phép. Các vi

khuẩn có khả năng gây bệnh phân lập được từ nước sinh hoạt, nước thải, không khí
và dụng cụ chuyên khoa tại các bệnh viện chủ yếu là vi khuẩn đường ruột.
* Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khoẻ cộng đồng:
Các nghiên cứu ở Việt Nam đã có những đánh giá về tình hình thương tích của
cán bộ nhân viên bệnh viện do các vật sắc nhọn gây ra qua phỏng vấn trực tiếp. Một
số nghiên cứu đã đề cập đến những ảnh hưởng của chất thải y tế đối với cộng đồng
xung quanh bệnh viện nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu đánh giá thực trạng tác
động của chất thải y tế đối với sức khoẻ ở những người tiếp xúc với chất thải y tế.
Đào Ngọc Phong và cộng sự (1996) nghiên cứu về ô nhiễm môi trường và khả năng
lây truyền bệnh do nước thải bệnh viện gây ra ở Hà Nội, cho thấy có hiện tượng tăng trội nhiều
bệnh ở các khu dân cư tiếp xúc với nước thải bệnh viện nhất là các bệnh đường tiêu hoá.
Đào Ngọc Phong và cộng sự (2006) nghiên cứu ảnh hưởng của chất thải y tế
đến sức khoẻ tại 8 bệnh viện huyện đã kết luận: Một số bệnh có liên quan đến ô
nhiễm môi trường ở nhóm người dân bị ảnh hưởng của chất thải từ bệnh viện cao
hơn nhóm không bị ảnh hưởng. Dẫn từ [40].
1.4.3. Hiểu biết của cán bộ, nhân viên y tế về quản lý chất thải y tế
Trong quản lý CTYT, yếu tố con người là rất quan trọng. Cho dù có hệ thống
xử lý chất thải có hiện đại nhưng nếu các cán bộ y tế, những người liên quan trực
tiếp đến công tác quản lý, xử lý chất thải và cộng đồng không nhận thức rõ tác hại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
và tầm quan trọng của CTYT đối với công tác bảo vệ môi trường và sức khoẻ thì hệ
thống đó hoạt động cũng không hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thái tại 14 bệnh viện Hà Nội (1998):
Nhân viên bệnh viện, nhân viên thu gom rác chưa được tập huấn những kiến thức
cơ bản về phân loại rác, chưa nhận thức đúng nguy cơ của chất thải y tế đối với sức
khoẻ, chưa có kỹ năng nghiệp vụ cần thiết [42].
Năm 1999 (sau khi Bộ Y tế ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế), những
hiểu biết của cán bộ, nhân viên bệnh viện về CTYT vẫn còn nhiều hạn chế. Qua kết
quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung (2003), cho thấy:

phần lớn những người được phỏng vấn biết được sự nguy hại của chất thải lâm
sàng, còn những chất thải khác số người biết chỉ <50%, đặc biệt còn tới 8,8 - 8,9%
không biết loại chất thải nguy hại. Có tới 79,8 - 92,1% cho rằng đối tượng dễ bị ảnh
hưởng của CTYT là nhân viên y tế, còn bệnh nhân là đối tượng rất cần quan tâm để
tránh các nguy cơ của chất thải thì chỉ có 26,6% [31].
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Minh Tâm (2006) tại 11 bệnh viện tuyến
huyện tỉnh Hải Dương cho thấy, có từ 43,5% đến 55,8% số cán bộ, nhân viên y tế
trả lời không đúng hoặc không biết về quy định mã màu sắc của dụng cụ đựng
CTYT. Phần lớn cán bộ, nhân viên y tế đều biết được những tác hại của CTYT,
được biết đến nhiều nhất là khả năng lan truyền bệnh (96,8%), đối tượng bị ảnh
hưởng bởi CTYT đươc biết đến nhiều nhất là bác sỹ, điều dưỡng, hộ lý [40].
1.4.4. Nguồn lực cho công tác quản lý chất thải
* Cơ sở pháp lý: Ở nước ta chất thải y tế đã được quản lý bằng hệ thống các
văn bản pháp luật do quốc hội, Chính phủ ban hành và hàng loạt các văn bản quản
lý, hướng dẫn thực hiện của Ngành Y tế. Gồm một số văn bản sau:
- Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật. Điều
39, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã đưa ra các quy định về bảo vệ môi trường
trong bệnh viện và các cơ sở y tế.
- Thông tư số 12/2006/QĐ-TTg ngày 26/12/2006, hướng dẫn điều kiện hành nghề
và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép, hành nghề mã số quản lý chất thải nguy hại.
- Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 về việc ban hành danh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mục chất thải nguy hại, quy định CTYT nằm trong danh mục CTNH có mã số 1301,
phải đăng ký và quản lý theo quy định đối với CTNH.
- Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng chính phủ về
việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
tại quyết định này có 84 bệnh viện trên cả nước phải thực hiện biện pháp xử lý triệt
để ô nhiễm môi trường, tỉnh Thái Nguyên có 4 bệnh viên nằm trong danh sách đến
năm 2007 phải xử lý triệt để ô nhiễm môi trường trong đó có Bệnh viện đa khoa

Trung ương Thái Nguyên.
- Bộ Y tế đã ban hành các văn bản quy định về quản lý, xử lý CTYT và thường
xuyên điều chỉnh quy chế cho phù hợp với xu thế phát triển. Từ năm 1996 đã ban
hành các văn bản hướng dẫn, quy định xử lý chất thải rắn trong bệnh viện, từ năm
1999, đã ban hành riêng quy chế quản lý chất thải y tế, đến 2007, quy chế này đã
được điều chỉnh để phù hợp với tình hình cấp bách hiện nay về quản lý chất thải y
tế (Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế).
Ngoài ra còn nhiều các văn bản quy định, hướng dẫn khác đối với công tác quản lý
CTYT như: tiêu chuẩn khí thải lò đốt CTYT, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải...
* Về nhân lực: Tại các bệnh viện quy mô lớn, Bệnh viện tuyến trung ương như
Bạch Mai, Việt Đức, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương và một số bệnh viện tuyến
tỉnh đều có khoa chống nhiễm khuẩn, có đội ngũ cán bộ được đào tạo chính quy về quản
lý chất thải. Còn hầu hết các bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến huyện việc thực hiện
Quy chế quản lý chất thải đều chưa đầy đủ và không thường xuyên. Kết quả nghiên cứu
tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh năm 2003: chỉ có 3/6 bệnh viện có khoa chống nhiễm khuẩn,
phân loại chất thải rắn chủ yếu do điều dưỡng, hộ lý thực hiện, chưa có văn bản quy định
rõ ràng về trách nhiệm của mỗi thành viên trong công tác quản lý chất thải.
Hoạt động giám sát nhà nước về công tác quản lý CTYT còn chưa đầy đủ,
năng lực giám sát và điều tiết còn hạn chế, đội ngũ thanh tra còn hạn chế, chế tài xử
lý vi phạm chưa đủ sức răn đe [17]
* Về kinh phí và trang thiết bị xử lý chất thải: Việc đầu tư kinh phí cho xử lý chất
thải tại các cơ sở y tế còn gặp rất nhiều khó khăn. Các cơ sơ y tế phần lớn là các đơn vị
sự nghiệp, không có khả năng tự cân đối kinh phí đầu tư các công trình xử ý chất thải.

×