Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Nội dung và nghệ thuật Sử Thi Mahabharata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.25 KB, 21 trang )

MỤC LỤC :

DẪN NHẬP:.........................................................................................................................2
NỘI DUNG:..........................................................................................................................2
I.Giới thiệu sơ lược về sử thi Mahabharata:.....................................................................2
1.Nguồn gốc:.................................................................................................................2
2.Vài nét về tác phẩm:...................................................................................................3
II.Nội dung và nghệ thuật của sử thi Mahabharata:..........................................................6
1.Nội dung:....................................................................................................................6
2.Nghệ thuật:...............................................................................................................12
III.Giá trị và ảnh hưởng của sử thi Mahabharata:...........................................................18
1.Giá trị văn hóa:.........................................................................................................18
2.Giá trị lịch sử:...........................................................................................................18
3.Ảnh hưởng của sử thi Mahabharata:........................................................................19
KẾT LUẬN:........................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO:..................................................................................................20

1


DẪN NHẬP:
Hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết đến nền văn minh Ấn Độ với dãy Himalaya
hùng vĩ, linh thiêng, với hai con sông lớn Ấn và Hằng – chứng nhân của những thành
tựu văn minh Ấn Độ rực rỡ. Con người Ấn Độ đầy lòng khoan dung và giàu trí tưởng
tượng. Họ đã để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung
những bộ sử thi đồ sộ. Trong đó tiêu biểu là hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata.
Nếu như Ramayana nói về tình yêu thì Mahabharata lại kể về những cuộc chiến
vương quyền gay gắt. Có thể nói Mahabharata như một đại dương mênh mông, nó bao
quát nhiều mặt của cuộc sống, nó chứa đựng nhiều vấn đề triết học, sử học, xã hội
học, dân tộc học… Và đọc Mahabharata người đọc không chỉ được tiếp xúc với một
nền văn học đồ sộ của Ấn Độ mà còn tiếp nhận cả một nền văn minh, văn hoá vĩ đại.


NỘI DUNG:
I. Giới thiệu sơ lược về sử thi Mahabharata:
1. Nguồn gốc:
Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ
hai là Ramayana. Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành: Bharath (vĩ đại), mang
nghĩa là Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là "Câu chuyện vĩ đại về triều vua Bharath".
Với độ dài đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi có một lịch
sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển và những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn
nhiều tranh cãi, cuốn sử thi được ước đoán ra đời chừng thế kỷ 8 - 9. Nhưng đa phần
các nhà nghiên cứu cho rằng Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa
chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 CN.

( Krishna Dwaipayana Vyasa )

Theo truyền thuyết, Mahabharata được coi là tác phẩm của Krishna Dwaipayana
Vyasa cũng là một trong những ông tổ của các nhân vật trong sử thi (Vyasa có nghĩa
là sưu tập). Vyasa đã thức dậy lúc bình minh suốt ba năm ròng để hoàn thành tác
2


phẩm tuyệt diệu này. Cũng theo một truyền thuyết khác, sử thi Mahabharata ra đời khi
đạo sĩ Vyasa theo lệnh của thần Sáng tạo Brahma suốt ba năm ròng đọc cho thần chữ
viết dùng ngà chép lại tác phẩm vĩ đại được hình thành trong tâm trí ông. Với độ dài
đáng kinh ngạc, những nghiên cứu ngữ văn về cuốn sử thi đã làm sáng tỏ những đầu
mối về sự phát triển của những lớp ngữ nghĩa. Tuy còn nhiều tranh cãi, có thể kết luận
câu chuyện được lưu truyền từ thế kỉ thứ V trước Công nguyên, về sau được bổ sung
liên tiếp, nhiều người ghi chép, chỉnh biên cho mãi đến thế kỉ thứ V sau Công nguyên
vào triều đại Gupta (320-530).
Nguyên bản lúc đầu có khi lên đến hàng ngàn vạn câu thơ nhưng đến nay chỉ sưu
tầm được 110.000 slooka (câu thơ đôi) gồm 22 vạn dòng, dài bằng 7 lần hai tác phẩm

Ôđixê và Iliat của Hi Lạp cộng lại.
Bản viết bằng tiếng Sanskrit đầu tiên được in ra ở Cancuta vào năm 1834. Bản dịch
ra tiếng Anh đầu tiên là bản của Protapchandra Roy, in năm 1883.
Bản dịch ra tiếng Việt đầu tiên hiện nay là dựa vào bản tóm tắt cốt truyện bằng Anh
văn của C.Rajagopalacharig.
2. Vài nét về tác phẩm:
Mahabharata là một trong hai cuốn Sử thi tiếng Phạn
(Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana.
Mahabharata bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn
văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8 triệu từ, và là cuốn
thiên sử thi dài nhất trên thế giới, gấp bảy lần tổng số câu
thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey
cộng lại. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn
thư" về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và về
các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa. Nó là tấm
gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ
truyền thống như lời một câu ngạn ngữ cổ: "Cái gì không thấy được ở trong
Mahabharata thì cũng không thể nào thấy được ở Ấn Độ."
Cuốn sử thi này cũng chiếm vị trí quan trọng trong triết học và tôn giáo tại Ấn Độ,
do nó còn chứa Bhagavad Gita, một kinh văn quan trọng hàng đầu của Ấn Độ giáo
(đạo Hindu) dài chừng 700 câu thơ.
Sử thi gồm 18 phần, gọi là 18 parva: Adi, Sabha, Vana, Vitara, Udyoga, Brishma,
Drona, Karna, Shalya, Sauptika, Mausala, Stri, Shanti,Anushasana, Ashvamedhika,
Ashramavasika , Mahaprasthanika, Svargarohana.

3


Nội dung cơ bản của bộ sử thi Mahabharata nói về cuộc chiến tranh khốc liệt giữa
hai dòng họ Kôrava và Pandava, cả hai đều là dòng dõi vua Bharata vào khoảng thế

kỷ 11 trước công nguyên đến thế kỷ 10 trước công nguyên.
Bên cạnh nội dung chính, chỉ chiếm chừng một phần tư độ dài tác phẩm, bộ sử thi
này còn có rất nhiều sự tích thần linh, những truyện ngụ ngôn về muôn thú, những
cuộc phiêu lưu và những câu chuyện tình thú vị, hấp dẫn li kì (như chuyện nàng
Savitri cãi lại Diêm vương để được lấy anh chàng đốn củi...). Nhưng trong tác phẩm
Mahabharata, các giáo sĩ Ấn Độ giáo đã đưa vào những giáo lý triết học tự biện
siêu hình về pháp (dharma), nghiệp (karma), vê sự giải thoát(moksha),những ẩn dụ
triết học, châm ngôn xử thế…
• Tóm tắt tác phẩm :
Ở thành phố Haxtinapua, có hai anh em là Đritaratra và Pandu là con cháu thuộc
dòng dõi vua Bharata. Vì người anh bị mù nên Pandu được làm vua. Đritaratra có 100
con trai, gọi chung là anh em Kôrava, còn Pandu có năm con trai, gọi chung là anh em
Pandava.
Sau khi Pandu qua đời, Đritaratra lên nối ngôi, đem năm đứa con của anh về nuôi
chung với đàn con của mình. Năm anh em Pandava trưởng thành nhanh chóng nổi
tiếng là những người tài cao, đức trọng. Điều đó làm cho anh em Kôrava ghen tị.
Bọn họ đã nhiều lần lập mưu hãm hại từng người trong năm anh em đó nhưng đều
thất bại. Đritaratra biết rõ điều đó, cho nên đem năm anh em Pandava đến ở trong lâu
đài Varanamvada. Anh em Kôrava lại lập mưu đốt cháy lâu đài hòng giết họ, nhưng
nhờ biết tin trước cho nên anh em Pandava dẫn mẹ là Kunti trốn được vào rừng sâu.
Họ cải trang thành những đạo sĩ Bàlamôn sống ẩn dật.
Một năm sau, vua Đrôpada xứ Panchala mở hội kén phò mã cho công chúa Đrôpadi
xinh đẹp. Anh em Pandava nghe tin bèn kéo đến đua tài. Các hoàng tử bốn phương
trời đều thất bại, không ai có thể giương cung bắn được mũi tên xuyên qua một bánh
xe đang quay, lấy mắt cá vàng làm đích, duy chỉ có Arjuna, em trai thứ ba của anh em
Pandava giương cung bắn năm phát trúng cả năm. Công chúa Đrôpadi sung sướng
quàng vào cổ chàng vòng hoa chiến thắng.Nhà vua làm lễ cưới cho hai người. Năm
anh em Pandava đem nàng Đrôpadi về nhà ra mắt bà Kunti. Vừa về đến nhà, một
người nhanh nhảu cất tiếng: “Thưa mẹ, hôm nay chúng con mang về một vật quý”. Bà
Kunti chưa kịp nhìn đã nói rằng: “Thế thì các con hãy chia đều cho nhau”. Dứt lời bà

đã thấy Đrôpadi đứng trước mặt. Không kịp hối tiếc, lời của bà đã trở thành mệnh
lệnh. Thế là năm anh em Pandava phải chung sống với nàng Đrôpadi.

4


Trong buổi lễ, người ta đọc một bản kinh riêng chứng nhận năm anh em chính là bộ
phận của một ông thần. Vì vậy, Đrôpadi lấy chung năm anh em là hợp lệ.
Sau việc này, Đritaratra và anh em Kôrava được biết năm anh em Pandava vẫn còn
sống và trở thành đồng minh của một nước láng giềng hùng mạnh. Theo lời khuyên
của trưởng lão Bhisma, Đritaratra cho mời anh em Pandava trở về vương quốc và chia
cho họ một nửa đất đai. Yudihititra là anh cả được tôn làm vua vương quốc Indraprasa
cạnh vương quốc Haxtinapura của dòng họ Kôrava.
Mặc dầu lãnh thổ của anh em Pandava là vùng đất xấu nhưng nhờ tài năng và đức
độ mà vương quốc của anh em Pandava trở nên thịnh vượng. Một lần nữa làm cho anh
em Kôrava ghen tị lại tìm cách tiêu diệt.
Yudihititra vốn say mê cờ bạc cho nên bị Đuryodana lôi kéo vào cảnh sát phạt trên
bàn xúc xắc. Đuryodana nhờ một tay chơi cờ có tà thuật đánh cho Yudihititra thua bại,
phải đem vương quốc nhường lại cho Đuryodana như đã giao ước. Anh em Pandava
một lần nữa đem mẹ già và vợ con vào ẩn dật ở rừng sâu mười ba năm trời. Hết hạn
đó họ trở lại vương quốc của mình, nhưng lần này Đuryodana lật lọng không chịu trao
trả lãnh thổ lại cho anh em Pandava. Thậm chí Yudihititra chỉ đòi lại một làng nhỏ để
chung sống làm ăn trong cảnh hòa bình nhưng Đuryodana cự tuyệt. Điều đó làm cho
anh em Pandava tức giận buộc họ pjair gây chiến với anh em Kôrava.
Cuộc chiến tranh giữa anh em dòng họ Bharata nổ ra, lôi cuốn các vương quốc lân
cận tham chiến, hàng triệu người xông ra trận mạc với hàng vạn ngựa xe cung kiếm.
Chiến trường Curusetơra mù mịt khói lửa trong vòng mười tám ngày, hàng triệu xác
chết chất thành núi, máu đổ thành sông. Kết thúc trận chiến chỉ còn mười một người
sống sót.Anh em Pandava tuy chiến thắng vẻ vang nhưng vô cùng đau xót vì phải
chém giết anh em cùng huyết thống với mình. Sau khi làm lễ giết ngựa tế thần

(Ashvamedha) để tỏ lòng sám hối, Yudihititra lên ngôi trị vì trong ba mươi sáu năm
ròng.

( Một trang diễn tả Trận chiến Kurukshetra trong Mahabharata )

5


Câu chuyện kết thúc bằng cuộc hành hương của năm anh em Pandava và nàng
Đrôpadi lên đỉnh Mêru của ngọn núi Hymalaya hùng vĩ, nơi đó là Cõi Trời. Dọc
đường nàng Đrôpadi và bốn anh em lần lượt bỏ xác ở trần gian, riêng Yudihititra và
con chó mà chàng gặp dọc đường nhận làm bạn đồng hành là lên được đỉnh núi. Bấy
giờ thần Indra hiện ra tiếp đón nhưng không chịu cho con chó đi vào Cõi Trời.
Yudihititra quyết định xin ở ngoài Cõi Trời với con chó trung thành của mình. Lúc ấy
con chó biến thành thần Đácma và cho biết đây là hành động thử thách đạo đức của
Yudihititra. Thế là Yudihititra được vào Cõi Trời. Đầu tiên Yudihititra toàn gặp kẻ
thù cũ, sau đó được đưa tới hỏa ngục gặp các em và bạn bè của chàng. Yudihititra xin
với các thần: “Tôi xin ở lại chốn này vì những người thân của tôi ở đâu thì nơi đó là
thiên đường của tôi”.
Nhưng đến đó vẫn là sự thử thách cuối cùng, trước sau Yudihititra vẫn thể hiện
lòng trung thành của mình, cho nên anh em Pandava đều được vào chốn vĩnh hằng bất
diệt.
II.Nội dung và nghệ thuật của sử thi Mahabharata:
1. Nội dung:
 Chiến tranh và tôn giáo:
-

Chiến tranh:

Nền tảng lịch sử của Mahabharata là một thời đại đầy những xung đột.

• Xung đột giữa chế độ thị tộc dựa trên cơ sở huyết thống với chế độ chiếm hữu
nô lệ mới manh nha trên cơ sở tư hữu và thể chế nhà nước.
• Xung đột giữa hai đẳng cấp BRAHMANA (tăng lữ) và KSHATRIYA (Võ sĩ
quí tộc) trong cuộc chiến đấu giành quyền lực tối thượng giữa thần quyền và
vương quyền.
• Xung đột giữa nội bộ đẳng cấp KSHATRIYA trong những cuộc chiến tranh
giành đất đai, mở rộng bờ cõi giữa các vương quốc, các tiểu vương quốc, các
bộ lạc cổ đại.
Các xung đột này thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau và thể hiện ra thành những cuộc
chiến tranh có qui mô to lớn, sức huỷ diệt khủng khiếp của thời kì cổ đại.
Mahabharata là kí ức lịch sử về những cuộc chiến tranh như vậy. Tác phẩm kể về
cuộc chiến tranh cốt nhục giữa hai chi thuộc cùng dòng họ Bharata. Pandava tấn công
Kaurava để giành lại vương quốc của họ đã bị chiếm đoạt một cách bất công.

6


Hiện thực xã hội và lịch sử Ấn Độ được đưa vào Mahabharata vô cùng hỗn độn,
mênh mông như một đại dương với tất cả các phong tục, lễ nghi của tất cả các tầng
lớp xã hội, tất cả núi sông đồng bằng thành thị đều có mặt ở đây. Ấn Độ là một đất
nước to lớn và phức tạp như một châu lục hơn là một quốc gia, đề tài sử thi Ấn Độ
cũng phức hợp. Nhưng trong các nổi dung có lẽ nổi lên trên cả chính là vấn đề chính
tranh.
Mahabharata trước hết là một tập hợp rộng lớn và hỗn tạp các truyền thống cổ xưa.
Cốt truyện trung tâm là cốt truyện chiến trang, một cuộc chiến trang theo truyền
thuyết diễn ra vào thế kỉ 14 TCN nhằm mục đích tranh giành quyền bá chủ vùng Bắc
Ấn. Tác phẩm bao quát toàn bộ những sự kiện, những biến cố xảy ra trong cuộc đời
của các nhân vật.
Mặc dù chỉ chiếm ¼ dung lượng tác phẩm. Song câu chuyện chiến tranh vẫn chiếm
vị trí quan trọng. Câu chuyện về cuộc chiến tranh đẫm máu huynh đệ tương tàn giữa

hai anh em Pandava và Korava thuộc cùng một dòng họ. Cuối cùng là sự hủy diệt của
dòng họ Korava đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử, trong tâm thức con người.
Mahabharata không chỉ không thể hiện xung đột DHARMA –ADHARMA thành
cuộc giao tranh giữa hai phe Pandava –Korava trên chiến trường mà còn chủ quan hoá
xung đột đó trong sự đấu tranh và khắc phục giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ánh
sáng và bóng tối trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Trong Mahabharata có câu: “Không
một người đức hạnh nào lại đủ kiên cường để suốt đời giữ vững phẩm hạnh, cũng như
không một kẻ tội lỗi nào lại quá xấu xa để sống trọn vẹn cuộc đời trong vũng bùn tội
lỗi. Đời là một cuộn chỉ rối tung và trên thế gian này, không có ai không làm cả việc
thiện lẫn điều ác. Mỗi người và mọi người đều phải gánh chịu lấy hậu quả những hành
động của mình” . Với lối tư duy biện chứng như vậy, sử thi này không phân tuyến
nhân vật một cách giản đơn theo cực thiện –ác.
Mahabharata không chỉ tập trung vào 18 ngày chiến trận mà bao trùm gần như toàn
bộ cuộc đời của các anh hùng từ khi sinh ra cho tới tận kết thúc, khi họ từ bỏ trần gian
này sang thế giới bên kia. Trong khi lí tưởng anh hùng là lí tưởng duy nhất đối với

7


Iliad thì lí tưởng anh hùng chỉ là một phương diện trong hệ thống các lí tưởng đạo đức
- xã hội của Mahabharata mà thôi.
Chú ý soi rọi những hành động bên trong, xung đột bên trong giữa DRAMA và
ADHARMA của mỗi nhân vật sử thi Mahabharata cho thấy các anh hùng trong quan
niệm Ân Độ không bao giờ tách rời các tiêu chuẩn đạo đức, nó bao hàm cái cao
thượng, vị tha, yêu chuộng hòa bình. Sức mạnh của người anh hùng không chỉ thể
hiện trong khả năng hành động mà nhiều khi ở chính sự kiên nhẫn, sức chịu đựng,
quyêt định lùi bước trước những hành động không xứng đáng.
Những anh hùng nửa trần tục - nửa thần linh của sử thi Mahabharata: Qua 18 ngày
chiến trận, chúng ta thấy biểu dương tầng tầng, lớp lớp những dũng sĩ anh hùng chia
xẻ khát vọng sống hào hùng: cuộc sống đẹp nhất là cuộc sống với những võ công

oanh liệt, cái chết đáng mơ ước nhất là cái chết trên chiến trường như một chiến binh
dũng cảm. Chết, đối với các chiến sĩ, không phải là hết, mà là sự hoàn thành bổn
phận. (DHARMA đồng thời còn có nghĩa là Bổn phận cá nhân. Theo quan niệm
Hindu giáo, mỗingười, tùy theo đẳng cấp của mình mà có một chức năng xã hội riêng
và anh ta phải phục vụ và duy trì xã hội như một tổng thể bằng cách thực hiện đầy đủ
tinh thần bổn phận nhiệm vụ đó của mình. DHARMA của đẳng cấp KSHATRIYA là
chiến đấu).Khi nói về thời đại đầy xung đột của Mahabharata chúng ta còn phải nhấn
mạnh xung đột này nữa: xung đột giữa DHARMA và MOKSHA, bổn phận và giải
thoát, nhập thế và xuất thế. Với người Ấnn, con người vừa là một sinh vật xã hội vừa
là một sinh vật duy nhất có đời sống tâm linh. Là một sinh vật xã hội, nó phải hoàn
thành DHARMA của mình (tức bổn phận duy trì, bảo vệ trật tự thế giới trần gian, thế
giới vật chất nói chung và xã hội con người nói riêng). Là một sinh vật duy nhất có
đời sống tâm linh, nó tìm kiếm MOKSHA (tức khát khao giải thoát khỏi thế giới vật
chất, giải thoát khỏi vòng sinh từ luân hồi).
Cách kết thúc chiến tranh của Mahabharata lại là một kết thúc khá xa lạ với các sử
thi anh hùng khác trên thế giới. Theo người Ân Độ đạt đến chiến thắng trên chiến
trường hoàn toàn chưa phải đã đến đích, thậm chí, còn đã là xa đích. Nên họ còn phải
tiếp tục lên đường. Sử thi Mahabharata vì thế không thể dừng sau chiến thắng của
Pandava như Iliad có thể chấm dứt sau khi kể về chiến công của Achille. Tác phẩm
tiếp tục theo dõi các anh hùng của mình: ba mươi sáu năm cai trị đất nước vẫn không
nguôi ân hận, cuối cùng họ đã từ bỏ vương quốc mà cuộc chiến tranh trước đó họ lấy
làm mục đích, hành hương lên cao, cao mãi trên những đỉnh núi Hymalaya. Từ bỏ
hoàn toàn cuộc sống gia đình, từ bỏ xã hội, từ bỏ mọi dục vọng, ly viễn cái tinh thần
thuần khiết, trong sáng khỏi bản chất vật chất của thế giới. Từ người trẻ nhất trong

8


nhóm, Pandava lần lượt ngã xuống trên đường hành hương. Cuối cùng chỉ còn một
mình Yudhisthira tới được cõi trời. Chàng phẫn nộ khi trên thiên đường chàng gặp

toàn kẻ thù cũ, còn ở địa ngục lại là các anh em, bè bạn của chàng đang chịu trăm
chiều cơ cực. Nhưng đó cũng chỉ ảo ảnh, là thử thách cuối cùng. Yuahisthira phải đi
qua cả ba tầng thế giới để tỉnh ngộ rằng trên thiên giới không có chỗ cho lòng hận thù.
Anh ta phải vượt trên đối cực của yêu –ghét, thành –bại, hạnh phúc –đau khổ, cũng có
nghĩa anh ta phải đi tới giác ngộ bản chất biến đổi, đoản mệnh của thế giới và định
mệnh của con người là vượt qua nó. Nghĩa là phải đi tới tuyệt đích MOKSHA (tức từ
bỏ, cũng tức là giải thoát).
-

Tôn giáo:

Tôn giáo trong sử thi Mahabharata là Hindu giáo
• Con người như là cái nghiệp:
Tôn giáo coi cuộc sống con người như là Karma ( nghiệp ), chỉ có cái chết mới là
vĩnh cửu, linh hồn mới chính chứ không phải thể xác, cái kiếp sau mới là vô tận chứ
kiếp này chỉ là phù du.
Yudihititra khi còn sống làm vua mà chẳng cảm thấy vui sướng, chỉ khi hình hài đã
mất được lên cõi cực lạc mới tìm thấy yên vui thực sự.
Bhisma “Thân thể Bhisma không đụng tới đất vì những mũi tên đang cắm khắp
mình ông. Thân thể ông càng sáng hơn bao giờ hết khi nằm như vậy, như chiếc
giường danh dự. Quân đội hai bên thôi khi còn giao chiến nữa, tất cả chiến binh chạy
tới đứng quanh bậc anh hùng vĩ đại đang nằm trên chiếc giường bằng các mũi tên.
Các bậc vua chúa trên cõi trần đứng cúi đầu quanh ông chẳng khác các thần chầu,
quanh đấng Balamon”, ông đã “lấy máu mình khiến cho các bãi chiến trường thành
nơi vinh hiển”

Ngay cả Duryodhan, người mà bao nhiêu sinh linh đã vì y bỏ mạng thì khi y chết
“các chư tầng tung hoa xuống người dũng sĩ đang hấp hối, người nhà trời tấu nhạc và
bầu trời rực sáng”, “bấy giờ ta chết, các chết mà các dũng sĩ cho là cái tột đỉnh trong


9


cuộc sống của người Kshatriya. Ta về trời, còn người ( nói với Krisna ) và bạn bè của
ngươi sẽ sống trong cõi đời này và chịu đựng đau khổ, sầu não… thử hỏi có ai hạnh
phúc hơn ai?”.
• Số phận con người:
Sử thi Ấn Độ kế thừa kho tàng thận thoại phong phú của Rig Veda nhưng là thần
thoại giai đoạn sau, đã được biên soạn lại bởi các nhà thần học. Thần thoại đã trở
thành yếu tố cầu thành của hệ tư tưởng tôn giáo nên những yếu tố thế tục hồn nhiên
của các chất người phàm tục và cao thượng, anh hùng và hèn nhát vốn gần gũi với
cuộc sống trong thần thoại bị thân lọc đi, bị đưa ra ngoài biên chế của tôn giáo. Tôn
giáo chỉ giữ lại sự sỡ hãi, sung bái những kiếp nhược và cam chịu của con người
trước thần thánh.
Tôn giáo can thiệp thô bạo đến số phận con người. Tất cả đều do thần linh định
đoạt “định mệnh mạnh hơn cố gắng của con người”
Các thần có mặt trong những hoạt động của con người nhiều
hơn hay trong một trận đánh, một tình huống hay trong suốt
cuộc chiến tranh những anh hùng Padava đều có thần giúp đỡ.
Krishna, hiện thân thứ 8 của thần Visnu ( thần bảo vệ ) luôn
theo sát Arjuna và là người đánh xe cho Arjuna trong chiến trận
Kurukshetra. Chính người Ấn Độ là hóa thân của các vị thần
hay con cái của các vị thần. Như vậy thế giới thần linh trong sử
thi Ấn Độ đã chi phối sâu sắc đến đời sống con người.
• Chịu đựng trắc ẩn:
Sự chịu đựng là trắc ẩn, là chân lý, là hi sinh, là danh tiếng của tôn giáo, toàn vũ trụ
dựa trên sự chịu đựng.
Yudihititra chấp nhận lưu đầy, Arjuna khi chiến thắng đã cầm chắc trong tay vẫn
thiết tha kêu gọi giảng hòa. Yudihititra đau buồn và ăn năn hội hận vì việc giết chết
những người anh như bà con đến mức quyết định rời bỏ cuộc đời trần tục, đi vào

rừng sám hối tội lỗi.
Tôn giáo Ấn Độ đều hướng vào sự vô vị nhẫn nhục. Các thuyết luân hồi vô thường
vô ngã cũng như nhân quả nhân duyên của đạo phật đều cho rằng cuộc đời là vô
ngã,cũng như nhân quả nhân duyên của đạo phật cho rằng cuộc đời là vô ngã, vô sơ,
nhân sinh là vô thường. Mọi cái kể cả kiếp người đều trôi qua trong nháy mắt, mọi
công danh phú quý đều nhanh chóng tiêu tan chỉ có nghiệp Karna là vĩnh viễn tồn tại,

10


nghiệp ấy bền là do quá trình tu thân tích đức, tránh ác phục thiện của con người. Con
người nhẫn nhục là mẫu người lý tưởng mà sử thi Ấn Độ hướng đến.
Như vậy, đối với người Ấn Độ đức nhẫn là gốc rễ là ngọn nguồn để có một cuộc
sống tốt đẹp.
 Đạo lý Dharma ( bổn phận)
• Khát vọng hòa bình, giải thoát lý tưởng công bằng bác ái:
Chiến thắng của anh hùng Panđava được xem là sự chiến thắng của đạo đức và
công lý Dharma đề ra.
Chiến trường Kurukshetra vừa là thánh địa biểu dương sức mạnh hùng cường của
những chiến binh lẫm liệt, vừa là một sự kiện vĩ đại của bi tráng và hào hùng là nơi
đạo đức bị tha hóa ánh sáng và bóng tối đang đấu tranh quyết liệt. Yudlhisthira khóc
than đến xé lòng tác động sâu sắc vào tâm linh người đọc.
Trong cuộc hành hương lên cõi trỡi người anh hùng dần nguôi quên đi đau oán hận,
trút bỏ mọi ràng buộc trần thế, đạt đến đọ siêu thoát thanh tịnh. Nhưng khi cõi tục lụy
đã lùi xa, người anh hùng tưởng đã rũ sạch bụi trần mà vẫn chưa mở được cánh cửa
của trời. Thần Dharma vẫn còn thử thách con trai mình. Và nơ chốn thannh cao yên
tĩnh ấy vẫn là một Yudhisthira đạo cao đức trọng.
• Hành động vô cầu:
Hành động vô cầu là hành động không có mục đích và lý tưởng vì nó nằm trong
Dharma. Đó là hành động vị kỉ, không vì lợi ích cá nhân và những kết quả vật chất

tầm thường.
Hành động quên nỗi hiểm nguy của bản thân để tiêu diệt cái ác cứu đời của Bhisma
mang lại cho nhân vật vẻ dẹp cao cả. Hành động của Bhisma mang tính nghĩa hiệp là
sự thực thi bổn phận của đẳng cấp chiến binh Kshatriya. Nhân vật hành động theo số
phận luôn nuôi sống với bổn phận bị ràng buộc bởi lời nguyền, hành động của người
Ấn Độ không được tự do. Bhisma “ Ông không phải là người tự do hoạt động, ông bị
ràng buộc vì lời thề với đức vua và phải chiến đấu bên cạnh anh em Kaurava. Bhisma
không thể phản bội Duryodhana để về với anh em ruột thịt vì đã nguyện sống có lý
tưởng bên người con trưởng chi Kaurava.
• Cái chết:
Cái chết là hành động bổn phận theo quan điểm của Hindu giáo cho mỗi người tùy
theo đẳng cấp của mình mà có một chủ nghĩa xã hội riêng và phải phục vụ và duy trì
xã hội như một tổng thế bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần bổn phận, nhiệm vụ đó
của mình. Chúng ta hiểu vì sao mà thương tổn, hi sinh luôn được miêu tả đẹp đẽ, mơ
11


mộng, thậm chí sáng ngời trong khi cảm hứng hiếu chiến hoàn toàn không phải là cảm
hứng chủ đạo của sử thi này.
Từ kinh “Rig Veda” cho đến sử thi Mahabharata, người Ấn Độ cho rằng sau khi
chết người ta lên trời. Ở đó “Muốn gì được náy, mặt trời sáng chói, hoa quả dồi dào,
rượu, sữa, mật, tiếng đàn sáo ca hát không ngừng” ( Thần thoại Ấn Độ ). Như vậy,
chết đi là con người được về với cõi cực lạc, xứ sở của thần tiên, nơi đó không có chỗ
cho lòng hận thù.
Như vậy, có thể khẳng định bộ sử thi không phải chỉ là cuộc chiến giành giật đất
đai và mở rộng và cõi mà nó đã đề cao lý tưởng và đạo đức của thời đại; chiến thắng
của đạo đức và công lý, hoàn thiện bổn phận và danh dự mà Đacma đề ra. Sử thi còn
mang những ý nghĩa thuần túy, mang những giá trị của nhân sinh và lý tưởng sinh
sống của con người. Và ở đây hi vọng xây dựng một xã hội bình yên, xóa đi mọi thù
hận, lòng tham, ích kỷ của con người.

2. Nghệ thuật:
 Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật :
Mỗi nhân vật trong tác phẩm Mahabharata mang một tính cách, một đời sống tinh
thần riêng chứ không phải là nhân vật mang tính chất ước lệ, có khuôn mẫu sẵn đã
từng thấy ở một số truyện dân gian khác.Yuhi đức độ, sáng suốt; Acgiuna dũng cảm
kiêu hùng; Bhima xông xáo, sôi nổi quyết giữ trọn lời thề cho đến chết; Kacna hùng
dũng và kiêu căng; Krishna tài trí siêu việt; còn Đơrita tuy mù nhưng vẫn oai nghiêm
trong cốt cách của một ông vua vừa gian hùng vừa xảo quyệt;…
Mỗi nhân vật đều để lại một ấn tượng khó quên trong tâm hồn người đọc. Rômet
Đơt – Nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét rằng: “Trừ tác phẩm Iliat ra không có
tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu tả nhân vật phong phú và chân thực như
Mahabharata. Nhân vật không đau khổ dằn vặt như nhân vật của Đantê, không say mê
cực độ như nhân vật của Sêcxphia, trái lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy
nghiêm, trầm lặng của sức mạnh tinh thần chẳng khác gì những hình tượng bất hủ
bằng cẩm thạch từ thời xa xưa để lại mà các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào
mô phỏng lại.”
Mahabharata không chỉ không thể hiện xung đột giữa Dharma – Adharama thành
cuộc giao tranh giữa hai phe Pandava – Kôrava trên chiến trường mà còn chủ quan
hóa xung đột đó trong sự đấu tranh và khắc phục giữa cái cao thượng và cái thấp hèn,
ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Sử thi này khôngphân tuyến
nhân vật một cách đơn giản theo cực thiện – cực ác.

12


Sử thi Mahabharata cho thấy cái anh hùng trong quan niệm Ấn Độ không bao giờ
tách rời các tiêu chuẩn đạo đức, nó bao hàm cái cao thượng, vị tha, yêu chuộng hòa
bình. Sức mạnh của người anh hùng không chỉ thể hiện trong khả năng hành động mà
nhiều khi ở chính sự kiên nhẫn, sức chịu đựng, quyết định lùi bước trước những hành
động không xứng đáng.

Sử thi này xây dựng hệ thống nhân vật của nó mà ngay cả những anh hùng mẫu
mực nhất cũng không phải luôn luôn chiến thắng trong cuộc chiến tâm hồn giữa
Dharma và Adharma của bản thân. Ở đây hiện tượng hàng loạt anh hùng suy thoái,
tha hoá qua tiến trình chiến tranh. Khiến cho cuộc chiến lúc đầu tuân theo những luật
lệ cao nhưng càng về cuối các luật lệ đó càng bị vi phạm.
Yudihititra, người anh cả trong năm anh em Pandava, người anh hùng nổi tiếng đạo
cao đức trọng đến ngày thứ 14 của cuộc chiến tranh cũng bị dục vọng lôi cuốn để sa
xuống con đường người trần tục.
Trong sử thi, các nhân vật được xây dựng theo kiểu nửa trần tục – nửa thần linh, ở
đây chúng ta nói đến những anh hùng được xây dựng theo kiểu nửa trần tục – nửa
thần linh, không chỉ vì họ là con của một người cha thần thánh và một bà mẹ trần tục.
Mà chủ yếu vì Mahabharata đã thể hiện họ vừa cao thượng vừa thấp hèn, luôn luôn
trong cuộc đấu tranh bản thân giữa Dharma và Adharma – Đạo lý và phi lý, vừa chịu
lực hút mãnh liệt của trái đất trần tục này vừa hướng tới thiên giới tâm linh vời vợi
cao trên kia. Dù rằng, việc các anh hùng đôi khi đắm chìm trong suy tư, chiêm nghiệm
hơn là thể hiện nhiệt tình hành động cũng bộc lộ bản tính “yếu đuối” không dễ dàng
biện hộ của họ. Mahabharata đã cống hiến cho gia tài chung các anh hùng ca cổ điển
của thế giới kiểu mẫu “anh hùng suy tư” “anh hùng – đạo sĩ” rất Ấn Độ, rất phương
Đông.
 Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Đọc Mahabharata, người đọc còn bị lôi cuốn vào quang cảnh chiến tranh tràn ngập
hào khí, sôi động. Người đọc sẽ say mê đến mức hồi hộp theo dõi những trận giao
tranh ác liệt xảy ra trong 18 ngày liền. Cảm xúc càng tăng lên khi chiến tranh tiến dần
đến ngày kết thúc, khi những tướng lĩnh dũng mãnh nhất dần dần ngã gục ở chiến
trường.
Một nhà Ấn Độ học phương Tây cho rằng: “Trong văn học thế giới, có lẽ khó tìm
thấy những đoạn văn miêu tả cảnh chiến tranh đặc sắc như vậy.”Cuộc đua tài đọ sức
khá sôi nổi giữa các dũng sĩ khắp bốn phương đến cầu hôn Đrôpadi, cuộc đụng độ nảy
lửa giữa hai dũng sĩ Acgiuna và Kacna được ví như cuộc giao chiến Achin va Herto
trong thần thoại và sử thi Hi-lạp, tình cảm và thái độ phản kháng mãnh liệt của nàng

13


Đrôpadi khi nàng bị anh em Kôrava định chiếm đoạt sau ván cờ bất hạnh của Yuhi
khiến cho cả thần linh cũng phải xúc động và ra tay can thiệp. Đó là những đoạn văn
có sức truyền cảm mạnh đối với người đọc.
Ấn Độ là nước tôn vinh tình yêu và niềm hoan lạc vô biên. Trong tác phẩm, tình
yêu được thể hiện trong mối quan hệ của nàng Draupadi với 5 anh em nhà Panda và
những gắn bó khác nhau.
 Nghệ thuật miêu tả cái chết
Cái chết trong sử thi Mahabharata được miêu tả rõ nét, mang lại hai chiều hướng
cảm xúc khác nhau.
-

Cảm quan ngợi ca, tôn kính

Gắn với chiến trận Kurukshetra có 85 cái chết được miêu tả một cách cụ thể, 54 cái
chết không được nêu rõ họ tên, 31 cái chết có tên tuổi rõ ràng. Sau chiến trận,
Mahabharata còn tiếp tục miêu tả cụ thể 10 cái chết nữa của những nhân vật anh hùng.
• Sự sống và cái chết là mối quan tâm lớn mang tính thời đại
Thường thì các sử thi anh hùng kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết để ngợi ca, tôn
vinh lòng dũng cảm chiến binh. Với Mahabharata, kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết
còn để diễn tả ý nghĩa đạo đức và xác lập cơ sở cho sự siêu thoát của người anh hùng.
Ảnh hưởng tư tưởng luân hồi - nghiệp báo (karma - samsara) của Hindu giáo, người
Ấn Độ cho rằng cuộc đời hiện tại của mình chỉ là mắt khâu gần nhất trong một chuỗi
xích dài những cuộc đời kế tiếp nhau vô hạn, từ quá khứđến hiện tại và tới tương lai.
Vậy nên, nếu cái chết trên chiến trận đối với người anh hùng Hy Lạp là để đạt tới
tuyệt đích vinh quang lưu danh cho hậu thế thì với người chiến binh Ấn Độ là để
"mởđược cánh cửa trời" tiếp tục sống một kiếp khác trong niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Bởi, người Ấn quan niệm cái chết thuộc phạm trù của cái bất tử. Quan điểm đó chi

phối bút pháp nghệ thuật. Mahabharata đã lựa chọn những hình ảnh, biểu tượng sinh
động để miêu tả cái chết, thể hiện cảm quan tươi sáng thi vị về một sự giải thoát. Cái
chết được miêu tả như cây rừng trong gió bão bị bật gốc, cán cờ lớn sau ngày hội vui
hay một ngôi sao lạc...; cái chết sống lại trong tâm trí người đọc gợi bao niềm tiếc
nuối, hoặc linh thiêng, huyền thoại như một sự hiển thánh… Với những biểu hiện
phong phú khác thường, cái chết của người anh hùng trong Mahabharata được soi rọi
dưới hai góc nhìn: võ sĩ và tu sĩ, chứa đựng ý nghĩa mỹ học và triết lý nhân sinh. Kỳ
diệu hóa trong miêu tả cái chết vừa để diễn tả vẻ đẹp hùng tráng của người chiến binh
Kshatriya, vừa để ngợi ca nét đẹp tâm linh siêu thoát của người anh hùng Ấn Độ.
• Kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết của bậc chiến binh lão thành

14


Nếu trong Iliad mọi cái chết trên chiến trận đều đáng ngợi ca như nhau, thì trong
Mahabharata cái chết được miêu tả với nhiều cung bậc, sắc thái, mang ý nghĩa đạo
đức. Mahabharata sử dụng hình ảnh thiêng liêng, huyền diệu để bất tử hóa người anh
hùng qua cái chết.
Nổi bật trong muôn vàn cái chết kiểu đó là cái chết của lão tướng Bhisma - tổng
thống lĩnh quân đội Kaurava, được miêu tả trong suốt một chương sách Bhisma qua
đời. Đây không phải là cái chết đầu tiên trên chiến trường Kurukshetra bởi chiến trận
đã diễn ra đến ngày thứ mười, trước đó đã có bao người ngã xuống. Thế nhưng, đây là
cái chết làm kinh động nhất đến thần linh và đất trời, tác động sâu sắc đến lòng người.
Bỗng chốc "quân đội hai bên thôi không giao tranh nữa, tất cả các chiến binh chạy
đến vây quanh Bhisma vĩđại... Các thần linh chứng kiến đều đứng khoanh tay cung
kính chào ông, một ngọn gió nồm sực nức hương thơm phe phẩy thổi và những giọt
mưa mát lạnh thấm ướt chiến địa". Không gian lung linh huyền ảo nửa thực, nửa hư,
chính là vòng nguyệt quế vinh quang của sự bất tử vĩnh hằng. Nó lớn hơn tất cả mọi
lời ngợi ca.
Trên chiến trận Kurukshetra, các chư thần hiện ra 12 lần cả thảy, có khi là để chứng

kiến người trần thi đấu, tỏ thái độ lên án hoặc cổ vũ khích lệ, có khi là để chứng kiến
cái chết của các chiến binh dũng cảm... Ởđây, sự hiện diện của thần linh như dấu hiệu
báo trước "cửa trời đã mở", sẵn sàng đón nhận "người anh hùng xứng đáng làm khách
của Indra".
Kết tinh cao nhất của sự kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết của người anh hùng là
hình ảnh Bhisma ngã xuống trên chiến địa: "Thân mình tên cắm chi chít đến nỗi
không còn kẽ hở nào cho một mũi tên khác lọt vào nữa. Bhisma từ trên xe ngã xuống,
nhưng thân thể không chạm đất vì nằm trên một chiếc giường bằng mũi tên, gối trên
một chiếc gối bằng mũi tên và uống dòng nước mát dâng lên từ mũi tên cắm sâu vào
lòng đất”. Bộ ba hình ảnh giường tên, gối tên, nước uống dâng từ mũi tên đan dệt bầu
không khí huyền thoại, hoành tráng, ngợi ca tầm vóc vũ trụ lớn lao, ý nghĩa thiêng
liêng bất tử của người anh hùng vĩđại. Những hình ảnh độc đáo kỳ vĩđó khiến Bhisma
đứng cao hơn mọi người. Bằng cái chết xứng đáng của một Kshatriya lý tưởng,
Bhisma đã đạt tới đỉnh cao của cuộc sống chính đáng và là “hiện thân của chính sự
thanh khiết”. Cái chết đó đã triệt tiêu khoảng cách giữa cõi trần và cõi trời, tạo nên ảo
ảnh về cõi thiên đường giữa trần gian.
• Kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết của tầng lớp chiến binh non trẻ
Bên cạnh cái chết của các bậc lão tướng cao niên, Mahabharata còn thể hiện những
cái chết của tầng lớp chiến binh trẻ tuổi mà trước mắt họ là tất cả lạc thú yêu thương,
15


đã để lại trong lòng người đọc một mối thương cảm sâu sắc. Đó là Uttara, Sveta,
Sangia, Iravan, Santanika, Panchalya, Lasmana, Abhimanyu, Vikarna, Ghatotkacha...
Trong ngày giao chiến đầu tiên diễn ra cái chết của hai vị hoàng tử trẻ tuổi con vua
Virata. Uttara giao tranh ác liệt với Salya và bị chết tức thì bởi một mũi lao. Chàng
thiếu niên dũng cảm và trung thực ấy chết trong khúc độc hành của tiếng voi rống,
một cái chết oai phong lẫm liệt xứng đáng với đẳng cấp chiến binh: "Lao bay vút,
xuyên thủng ngực Uttara, cây đòng nhọn thúc voi tuột khỏi tay chàng và chàng ngã
nhào xuống chết". Một cái chết làm nổi bật phẩm chất anh hùng và ý nghĩa cao cả của

sự sống Uttara.
Sveta là hoàng tử con thứ hai của nhà vua Virata, là người đầu tiên chết bởi tay lão
tướng lừng danh Bhisma. Điều đó đã đem đến cho chàng niềm vinh quang rất lớn. Cái
chết của chàng diễn ra kỳ vĩ tức thì: Sveta trúng tên ngã vật xuống. Uttara và Sveta là
những con người chưa kịp sống, đại diện cho thế hệ tương lai. Chiến tranh thật khủng
khiếp. Cái chết của họ trở thành hình ảnh thu nhỏ toàn bộ cuộc chiến. Họ ra đi để hậu
chiến chỉ còn lại người già nua, mù lòa, phụ nữ... khóc than cho người thân đã bị vùi
chôn dưới nấm mồ của chiến tranh tàn khốc. Người kể Mahabharata biểu lộ thái
độđồng cảm với những mất mát của chiến tranh, thể hiện khát vọng tha thiết với hòa
bình.
Là hoàng tử trẻ tuổi nhất trong số các Kaurava, Vikarna thấu hiểu sâu sắc lẽ
dharma, sống chính trực gan dạ. Cái chết của chàng rất đặc biệt, bởi nó gieo vào lòng
đối thủ - người giết chàng - một nỗi dày vò khủng khiếp, vì đạo lý bị hủy diệt tàn
khốc. Lời đánh giá cao nhất, đem lại vinh quang lớn nhất cho Vikarna nằm ngay trong
tiếng than khóc của kẻ giết chàng: Bhima đặt Vikarna ngang với Bhisma lão thành,
thể hiện hứng thú ngợi ca tuyệt đối của Mahabharata.
Trong số những cái chết của các chiến binh trẻ tuổi, cái chết của Abhimanyu để lại
nhiều ấn tượng hơn cả. Mahabharata miêu tả cái chết ấy vẻn vẹn chỉ có ba từ: Chàng
tắt thở, nhưng nó ngưng đọng trong tâm trí của độc giả một nỗi xót xa về cái thiện, cái
đẹp, cái đạo lý bị hủy diệt quá sớm. Cái giản dị của ngôn từ mang ý nghĩa rất sâu, bởi
trước đó Mahabharata đã miêu tả rất sinh động quá trình giải thoát của nhân vật. Tắt
thở chỉ có nghĩa thông báo cái chết về thể xác, còn sự siêu thoát về linh hồn đã diễn ra
từ bên trên, khi “chàng nhanh nhẹn đến nỗi trông tưởng chừng nhưđôi chân không
bám trên mặt đất mà đang bay liệng trên không”. Bằng sự kỳ diệu hóa, Mahabharata
đã chắp cho chàng thiếu niên dũng cảm, sáng chói tài năng đôi cánh, để bàn chân
chàng không chạm mặt đất tràn ngập tội lỗi, xấu xa của những suy đồi đạo lý.

16



Ghatotkacha, con trai Bhima và một Asura, có một tâm hồn nhân hậu ẩn dưới một
bộ mặt kỳ dị. Cái chết của Ghatotkacha không được Mahabharata chú trọng ở góc độ
mỹ cảm, mà được nhìn nhận ở giá trịảnh hưởng: "Ghatotkacha đang từ lưng chừng
trời phóng những mũi tên chết người vào quân đội Kaurava, rơi xuống chết, dìm quân
Pandava vào nỗi đau buồn tang tóc". Cái chết của chàng thiếu niên trẻ tuổi tạo nên
một nỗi thương tiếc khôn nguôi đối với một tài năng đầy hứa hẹn. Giá trị lớn nhất của
cái chết này là đã thế mạng cho Arjuna, cứu sống một bậc dũng sĩ anh tài. Vậy là, một
đối sánh ngầm được thiết lập, đẩy sự ngợi ca lên đến tột đỉnh: Ghatotkacha ngang với
Arjuna về mọi mặt.
-

Cảm quan phê phán, hạ bệ

Bên cạnh những cái chết được thể hiện với một thái độ ngợi ca tôn vinh nhằm bất
tử hóa người anh hùng, còn có những cái chết thể hiện sự vô vị, tầm thường của cuộc
sống nhân vật. Qua sự miêu tả cái chết người đọc cảm nhận rất rõ dụng ý của tác giả:
ngợi ca hay phê phán, tôn vinh hay hạ bệ đối với nhân vật.
• Cái chết méo mó, biến dạng, không đạt được sự giải thoát
Kichaka là một dũng tướng, tổng chỉ huy quân đội của triều đình Virata, một trong
ba võ sĩ nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Nhưng, kiêu căng và dục vọng đã làm lu mờ trí
tuệ, hạ thấp nhân phẩm của Kichaka. Nhân vật phải trả giá cho hành động vô đạo đức
của mình bằng cái chết nhục nhã: chết trong bóng tối, không biết mặt kẻ giết mình,
chết không giữđược nguyên vẹn thi thể…Đây là cái chết đến hai lần cả về thể xác lẫn
linh hồn, phản ánh lối sống méo mó, phẩm hạnh đạo đức loang lổ của nhân vật.
Cái chết của Kichaka gợi nhớ cái chết của Yavakrida trong câu chuyện đạo sĩ
Lomasa kể cho Yudhisthira vào thời kỳ lưu vong mười hai năm trong rừng. Yavakrida
là một người thông tuệ, nhưng rốt cục lại chết trong một cơn khát - khát nhận thức, bị
tước mất phép màu nhiệm và sức mạnh. Đây chính là sự trả giá cho hành động vô đạo
đức, cho dục tính bản năng trong Yavakrida.
• Cái chết sự trả giá cho tội ác

Dữ dội và khủng khiếp là cái chết của Dussasana độc ác qua hình ảnh thi thể tả tơi,
tương xứng với tư cách và nhân phẩm đồi bại của hắn. Kết cục số phận Dussasana là
một minh chứng rõ nét cho tư tưởng nhân quả nghiệp báo.
• Cái chết tầm thường của kẻ mưu lừa, mẹo lọc
Cái đầu gốc rễ của mọi hành vi tội lỗi lăn lông lốc trên đất... là hình ảnh về cái chết
của Sakuni gợi cho ta một cảm giác ghê rợn. Mahabharata kết luận: "Cái đầu đó chính
là gốc rễ của mọi hành vi tội lỗi của họ Kaurava". Mưu mô ván bài oan nghiệt là

17


nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh khốc liệt, làm suy đồi đạo lý dharma.
Cái chết cho ta lần ngược lại ý nghĩa sự sống của nhân vật.
Sử thi Mahabharata là một câu chuyện lớn và kỳ diệu mang đậm màu sắc tôn giáo
đạo đức: "Những đau buồn của cuộc sống nhân gian được mô tả với một vẻđẹp cao cả
và nó diễn ra trên một toàn cảnh lớn. Đằng sau câu chuyện về những lầm lạc và đau
khổ, nhà thơ giúp chúng ta có một ảo tưởng về cõi thực và cõi thiên tiên".
Kỳ diệu hóa trong miêu tả cái chết cho thấy nhân vật anh hùng của sử thi này một
mặt chịu sự ràng buộc chặt chẽ với những đam mê trần thế mãnh liệt, một mặt không
nguôi vươn tới những khát vọng tâm linh huyền bí cao đẹp. Vì thế, Mahabharata vừa
mang vẻđẹp truyền thống lại vừa mang nét độc đáo riêng biệt. Chính cảm quan nghệ
thuật ấy đã làm nên chiều sâu giá trị của tác phẩm, để Mahabharata vượt ngoài dòng
chảy của thời gian, đăng quang cho cái đẹp, cái thiện trên cõi đời. Sử thi như một thể
loại văn học đã một đi không trở lại, nhưng cảm hứng sử thi hướng tới sự cao cả,
thiêng liêng và kỳ diệu thì mãi mãi là nhiệt hứng sáng tạo nghệ thuật muôn đời.
III.

Giá trị và ảnh hưởng của sử thi Mahabharata:

1. Giá trị văn hóa:

Với tư tưởng yên chuộng hòa bình cũng thấm đượm trong sử thi mahabharata. Mặc
dù tác phẩm diễn tả lại sự đến gần và bùng nổ của một cuộc chiến tranh khốc liệt,
nhưng sau đó phải làm cho con người phả suy nghĩ về tính chất của cuộc chiến tranh.
Đặc biệt đây là một trong hai sử thi tiếng phạn (sanskrit) vĩ đại nhất của sử thi Ấn Độ.
Người ta thấy ở mahabharata một tấm gương đa diện phản chiếu tất cả các mặt của
đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại. Ở đây các nhà nghiên cứu Ấn có thể tìm thấy rất nhiều
điều về đời sống với những tư ngưỡng của tầng lớp vũ sỹ ksatriya và bộ máy nhà
nước, luật pháp, chính trị, hành chính và ngoại giao cũng như những chỉ dẫn tộc học
về pbong tục, tập quán, hôn nhân, đời sống vật chất cũng nhưng đời sống tinh thần
của các tầng lớp nhân dân Ấn Độ. Một tục ngữ của người Ấn Độ đã xác nhận, sự đồ
sộ của tác phẩm: " Cái gì không thấy được ở mahabharata thì cũng không thể nào thấy
được ở Ấn Độ”.
2. Giá trị lịch sử:
Sử thi mahabharata là một bộ sử thi vĩ đại. trước hết vì nó phản ảnh toàn diện đời
sống, tình cảm và trí tuệ của người Ấn Độ trong buổi bình minh của lịch sử. Nhiều
nhà nghiên cứu Ấn Độ mahabharata là bức tranh thu nhỏ của chế độ lịch sử lúc bấy
giờ. Cho ta thấy được cái cốt lõi của các bộ tộc ở lưu vực sông Hằng trong giữa

18


khoảng thiên niên kỉ thứ II TCN. Trong quá trình hợp thành và tạo dựng những nhà
nước đầu tiên, của người A-Ry-An. Ngoài ra nó cũng phản ánh sự ra đời của chế độ
đẳng cấp cổ đại. Qua dử thi này có thể nhận thấy lúc đầu đẳng cấp của vũ sỹ ksa-triya. Vì vậy có thể nói về cơ bản, mahabharata là một tác phẩm có giá trị lịch sử nổi bậc
về sức mạnh toàn năng của dhác-ma, tức là về đạo đức, bổn phận. Bằng những câu
chuyện đầy hình tượng, mà tác phẩm đã tô đậm thêm các chân lí nhân gian của nhiều
dân tộc : " ở hiền gặp lành" " ác giả ác báo". đó còn là một phương châm sử thế cổ
điển. " cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác". Đằng sau những bài
học giáo huấn là một nền tảng tôn giáo vững chắc. ở đó thấp thoáng bóng dáng của
các vị thần linh, các đấng siêu nhiên, ban thưởng, trừng phạt.

3. Ảnh hưởng của sử thi Mahabharata:
Bộ sử thi đã tác động rất lớn đến đời sống tinh thần và tập tục của người dân Ấn
Độ.
Mahabharata có sự ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới đặc biệt là Đông Nam Á. Rất
nhiều cốt truyện được phóng tác từ sử thi này ở các nước Đông Nam Á. Ở
Campuchia, Mahabharata đã xuất hiện khá sớm bằng hình các phù điêu trên đền
AngCo và các đền khác.
Nó trở thành một báu vật quý giá trong kho tàng văn học của Ấn Độ lấy cảm hứng
sảng tạo cho hội họa, điêu khắc, thơ ca, điện ảnh,… Không chỉ vậy ảnh hưởng với văn
hóa, lịch sử và con người Ấn Độ mà còn ảnh hưởng ra thế giới.
KẾT LUẬN:
Ngạn ngữ Ấn Độ có câu: “Những gì không có trong Mahabharata thì không có trên
đất nước Ấn Độ”. Điều đó chứng tỏ sử thi Mahabharata đã bao trùm toàn bộ cuộc
sống của con người Ấn Độ. Đó là niềm tự hào của người dân Ấn Độ về pho sử thi. Và
điều này cũng nói lên tầm quan trọng to lớn của Mahabharata đối với đất nước và con
người Ấn Độ. Cho đến hôm nay, Mahabharata vẫn còn tác động rất lớn đến đời sống
tinh thần và tập tục của người dân Ấn Độ. Nó trở thành một báu vật quý trong kho
tàng văn học Ấn Độ, là cảm hứng sáng tạo cho hội họa, điêu khắc, thơ ca, điện ảnh,…
Mahabharata như bộ bách khoa toàn thư của người dân Ấn Độ. Tác phẩm cho thấy
người Ấn Độ đề cao tính nhân sinh, sự chính nghĩa và giá trị của cuộc sống.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bài viết Những anh hùng nửa trần tục – nửa thần linh và sự triển khai lí tưởng
về một kiểu mẫu anh hùng trong sử thi Mahabharata (Ấn Độ) trên web Văn học
và ngôn ngữ ( )
2. Luận văn “Chiến tranh và tôn giáo trong sử thi Mahabharata”
3. Bài viết “Nghệ thuật miêu tả cái chết trong sử thi Mahabharata” Theo TẠP CHÍ

VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
4. Website Cơ quan ngôn luận của hội nhà Văn Việt Nam ( )
5. Lưu Đức Trung, Văn học Ấn Độ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009, tr. 111, 112.
6. Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ - Nguyễn Thừa Hỷ

20


DANH SÁCH NHÓM VÀ PHÂN CÔNG THỰC HIỆN:
1. Mai Thị Phương Mai ( Nhóm trưởng )
-

Word + Power Point

-

Nội dung của sử thi Mahabharata

2. Lê Thị Thanh Tâm
-

Nghệ thuật của sử thi Mahabharata

3. Nguyễn Thị Ánh Ly
-

Vài nét về tác phẩm

4. Nguyễn Thị Thúy Mỹ
-


Nguồn gốc và ảnh hưởng của sử thi Mahabharata

5. Đặng Thị Diễn
-

Giá trị văn hóa và lịch sử của sử thi Mahabharata

6. Đinh Thị Thanh Vy
-

Nội dung của sử thi Mahabharata

21



×