Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Một số vấn đề về công tác thu và quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.78 KB, 34 trang )

Lời nói đầu
Hiện nay, ở Việt Nam cũng nh các nớc trên thế giới, bảo hiểm xã hội
(BHXH) là một chính sách vô cùng quan trọng và có ảnh hởng mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội đất nớc. Từ năm 1961, theo Nghị định 218/CP, hệ thống
BHXH Việt Nam đã chính thức ra đời. Và đặc biệt sau Nghị định 12/CP (ngày
26/1/1995), hệ thống BHXH Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Sau thời gian hơn 5
năm đổi mới, hệ thống BHXH Việt Nam đã đạt đợc một số thành tựu đáng kể.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, hệ thống BHXH vẫn cần tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện để hoàn thành nhiệm vụ là góp phần ổn định cuộc sống cho ngời lao động.
Trong các công tác toàn ngành BHXH thì công tác thu và quản lý thu là một
chính sách đầu vào quan trọng có ảnh hởng đến các công tác khác của ngành
cũng nh đến việc hoàn thiện ngành BHXH. Để đáp ứng đợc yêu cầu nhiệm vụ do
Nhà nớc giao phó cho ngành BHXH, đồng thời để phù hợp với xu hớng phát triển
chung của thế giới, công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH cần đợc nhìn nhận,
đánh giá lại và đa ra những định hớng phát triển phù hợp.
Sau một thời gian tìm tòi nghiên cứu và tham khảo ý kiến của thầy cô, bạn
bè, em xin lựa chọn trình bày một số vấn đề về công tác thu và quản lý thu quỹ
BHXH Việt Nam.
Nội dung đề án ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận đợc kết cấu thành
3 phần, gồm 5 biểu
Phần 1: Khái quát về quỹ BHXH Việt Nam
Phần 2: Tình hình thu và quản lý thu quỹ BHXH Việt Nam
Phần 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH
Việt Nam.

1


Phần một: Khái quát về quĩ BHXH Việt Nam.

1.



Nguồn quĩ BHXH và phơng thức quản lý quĩ theo ILO

Xuất phát từ nhu cầu của ngời lao động là bù đắp một phần thu nhập khi
họ gặp rủi ro làm mất hoặc giảm thu nhập, BHXH đã ra đời từ rất sớm. Năm
1883, nớc Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm
đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Theo quá trình phát
triển của xã hội, cho đến ngày nay, BHXH đã trở thành một trong những quyền
cơ bản của con ngời và đợc xã hội thừa nhận. Trong Tuyên ngôn nhân quyền
ngày 10/12/1948 của Liên hợp quốc đã ghi: Tất cả mọi ngời với t cách là thành
viên của xã hội có quyền hởng BHXH, quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự thoả mãn
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát
triển của con ngời. Và hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện
chế độ BHXH.
Tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labor Organization) - một tổ
chức quốc tế đợc thành lập để bảo vệ quyền lợi của ngời lao động trên toàn thế
giới đã định nghĩa về BHXH nh sau: BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các
thành viên của mình thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho
họ nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập gây ra bởi mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm góp phần ổn
định hoạt động đời sống của gia đình và bản thân. Nh vậy, theo qui định của tổ
chức ILO thì mọi ngời lao động đều có quyền tham gia BHXH, không phân biệt
giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo hay tính chất của quá trình lao động. Những
ngời tham gia bảo hiểm xã có nghĩa vụ đóng góp một khoản tiền để hình thành
một quĩ gọi là quỹ BHXH. Bên cạnh đó, ngời sử dụng lao động cũng có trách
nhiệm đóng góp vào quĩ BHXH để bảo vệ cho ngời lao động mà họ đang thuê mớn. Nhà nớc cũng đóng góp vào quĩ BHXH. Tuỳ theo qui định của từng quốc gia
mà Nhà nớc có thể đóng góp theo một tỷ lệ nào đó, đóng góp định kỳ hay đóng
bù thiếu cho quĩ. Ngoài chế độ BHXH bắt buộc, ILO còn khuyến khích thực hiện

2



BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam, chế độ BHXH vẫn cha đợc áp dụng cho tất cả mọi ngời lao động.
Mức đóng góp của ngời lao động là một tỷ lệ nhất định so với tiền lơng hay
thu nhập của họ. Tại các nớc phát triển, do có chế độ quản lý tiền lơng và thu
nhập chặt chẽ, nên tiền lơng của ngời lao động cũng xấp xỉ thu nhập thực tế của
họ. Điều này sẽ giúp cho việc chi trả BHXH phù hợp với mức sống của ngời lao
động.
Đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao động, Nhà nớc tạo thành
một quĩ - quĩ BHXH. Quĩ BHXH là một quĩ tài chính độc lập. Quĩ hoạt động theo
nguyên tắc tự cân đối thu chi, nhằm mục đích chia sẻ rủi ro giữa những ngời lao
động. Hầu hết ở các nớc, chế độ BHXH đảm bảo cho ngời lao động về mặt thu
nhập và y tế. Tuy nhiên, BHXH Việt Nam vẫn cha có đủ khả năng thực hiện kết
hợp cả hai chức năng này.
Quĩ BHXH sẽ do một cơ quan độc lập do chính phủ chỉ định quản lý. Tuỳ
theo cách thức quản lý tài chính của từng nớc mà quĩ BHXH đợc quản lý theo
những cách khác nhau.
Hiện nay, Việt Nam cha ký kết công ớc quốc tế về BHXH của ILO, do vậy,
những qui định chung về thu và quản lý thu quĩ BHXH không phải là bắt buộc
đối với baỏ hiểm xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, những qui định này vẫn là phần cơ
sở, phần khung đồng thời là mục tiêu để BHXH Việt Nam hoàn thiện thêm để
đáp ứng nhu cầu chính đáng của ngời lao động.
2.

Quĩ BHXH Việt Nam - phơng thức thu và quản lý thu

BHXH Việt Nam chính thức ra đời theo nghị định 218/CP năm 1961. Sau
đó để phù hợp với Bộ luật Lao động đã đợc thông qua tại kỳ họp khoá 5 Quốc hội
khoá 9 ngày 23/6/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày

26/1/1995. Nghị định này đã đánh dấu những bớc tiến cơ bản của ngành BHXH
Việt Nam. Đây cũng là điểm mốc quan trọng về tình hình thu và quản lý thu quĩ
BHXH Việt Nam.

3


2.1. Quĩ BHXH Việt Nam trớc năm 1995 :
Vào khoảng thời gian trớc năm 1995, đối tợng tham gia BHXH chỉ giới
hạn là cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nớc và lực lợng
vũ trang. Việc đóng góp của ngời lao động là rất nhỏ, nên nguồn quĩ chủ yếu là
do ngân sách Nhà nớc bao cấp. Quĩ BHXH thực sự là một gánh nặng của ngân
sách Nhà nớc. Vấn đề cấp bách đặt ra là cải cách phơng thức thu và quản lý thu
quĩ BHXH cũng nh các vấn đề khác liên quan nh các chế độ chi trả, qui định mức
hởng trợ cấp của từng chế độ.
2.2. Quỹ BHXH Việt nam sau năm 1995:
Sau Nghị định 12/CP năm 1995, chính sách BHXH mới đã có nhiều cải
tiến mang lại tác dụng nhiều mặt trong việc bảo đảm an toàn xã hội. Đối tợng
tham gia BHXH mở rộnh hơn thể hiện ở chỗ áp dụng đối với mọi ngời lao động
trong cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Quĩ BHXH
chủ yếu đợc hình thành trên cơ sở đóng góp của ngời lao động và ngời sử dụng
lao động, Nhà nớc chỉ hỗ trợ thêm. Chính phủ thành lập cơ quan BHXH Việt
Nam có chức năng và nhiệm vụ quản lý quĩ BHXH, thực hiện thu, chi trợ cấp cho
các đối tợng tham gia BHXH. Nh vậy, quĩ BHXH là một quĩ tài chính độc lập,
thực hiện tự cân đối thu chi và đang giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nớc.
Thực hiện cơ chế mới, quĩ BHXH đã dần dần đảm bảo ổn định cuộc sổng của
ngời lao động và gia đình họ, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nớc.
3.


Nội dung thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam

3.1.

Các nguồn thu quĩ BHXH Việt Nam

Quĩ BHXH Việt Nam đợc hình thành từ các nguồn sau: do ngời lao động
đóng góp, do ngời sử dụng lao động đóng góp, do Nhà nớc bù thiếu và một số
nguồn thu khác nh: tiền nộp phạt của các doanh nghiệp chậm nộp tiền bảo hiểm,
lãi đầu t, giúp đỡ của các tổ chức từ thiện và quốc tế.
a. Do ngời lao động đóng góp
Ngời lao động - với t cách là ngời tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng 5%
so với tổng tiền lơng tháng để chi các chế độ hu trí và tử tuất. Tiền lơng tháng

4


làm căn cứ đóng BHXH gồm lơng theo ngạch bậc, chức vụ, hợp đồng và các
khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lu (nếu
có).
Các đối tợng tham gia đóng BHXH bắt buộc nh sau:
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nớc
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Ngời lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu t
nớc ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nớc ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Ngời lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lợng vũ trang.

Ngời giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý
Nhà nớc, Đảng, đoàn thể từ Trung ơng đến cấp huyện (hiện nay đã mở
rộng đến cấp xã, phờng).
Công chức viên chức Nhà nớc làm việc trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp, ngời làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ơng
đến cấp huyện.
Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác, điều dỡng trong và ngoài nớc
mà vẫn hởng tiền lơng hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tợng đóng BHXH bắt
buộc.
Nh vậy, những đối tợng đợc tham gia BHXH theo Nghị định 12/CP năm
1995 bao gồm ngời lao động trong mọi thành phần kinh tế và ngời lao động trong
hầu hết các ngành. Tuy nhiên, cũng theo Nghị định này, đời sống của một lực lợng lao động đông đảo là nông dân nông thôn vẫn cha đợc bảo đảm bởi hệ thống
BHXH. Ngoài ra, còn có thợ thủ công, tiểu thơng, ngời lao động trong các doanh
nghiệp sử dụng ít hơn 10 lao động vẫn cha đợc tham gia BHXH. Vì vậy, vấn đề

5


mở rộng đối tợng tham gia BHXH là cấp thiết đối với hệ thống BHXH Việt Nam.
Giải quyết đợc vấn đề này không những nhằm đảm bảo ổn định đời sống của toàn
bộ xã hội mà còn là biện pháp để tăng nguồn thu quĩ BHXH.
b.

Do ngời sử dụng lao động đóng góp

Khi thuê mớn ngời lao động, ngời sử dụng lao động cũng có nghĩa vụ đóng
góp BHXH cho ngời lao động. Cụ thể là ngời sử dụng lao động đóng bằng 15%
so với tổng quĩ tiền lơng của những ngời tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó
10% để chi các chế độ hu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Ngời sử dụng lao động có thể là các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nớc cũng tham gia đóng góp vào quĩ
BHXH với t cách là ngời sử dụng lao động tại các cơ quan hành chính sự nghiệp,
cơ quan Đảng, đoàn thể, các tổ chức thuộc lực lợng vũ trang. Nh vậy, tỷ lệ đóng
góp của ngời sử dụng lao động gấp 3 lần tỷ lệ đóng góp của ngời lao động.
Thông thờng, ở các nớc thì ngời sử dụng lao động đóng góp xấp xỉ gấp hai lần so
với tỷ lệ đóng góp của ngời lao động.
c.

Nhà nớc bù thiếu

Ngoài việc tham gia đóng góp vào quĩ BHXH với t cách ngời sử dụng lao
động, ngân sách Nhà nớc còn bù thiếu cho quĩ BHXH để giúp cho việc chi trả các
chế độ hu trí, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp mất sức lao động, bảo hiểm
y tế, tử tuất đối với ngời đang hởng BHXH trớc Nghị định 43/CP năm 1993 và hỗ
trợ để chi trợ cấp cho công nhân, viên chức nghỉ hu sau Nghị định 43/CP. Nh vậy,
quĩ BHXH hạch toán độc lập nhng vẫn chịu sự bao cấp một phần từ ngân sách
Nhà nớc, đợc sự bảo hộ của Nhà nớc. Qui định này góp phần ổn định thu chi quĩ
BHXH cũng nh ổn định tình hình kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xu hớng của quĩ
BHXH Việt Nam là giảm dần bao cấp của ngân sách Nhà nớc và tiến tới tự cân
đối thu chi.
Bên cạnh các nguồn thu cơ bản từ ngời lao động, ngời sử dụng lao động và
Nhà nớc, quĩ BHXH còn đợc bổ sung bằng các nguồn khác tuy không ổn định
nhng cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu quĩ BHXH.
d.

Các nguồn khác

6



Do tham gia BHXH là bắt buộc nên cũng nh nộp tiền bảo hiểm y tế, các
loại thuế ..., tiền BHXH của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế do
Nhà nớc qui định tài khoản nộp, thời hạn nộp. Vì vậy, Nhà nớc cũng có chế tài
phạt doanh nghiệp nào chậm nộp tiền BHXH. Những doanh nghiệp chậm nộp
tiền BHXH, ngoài tiền BHXH truy thu còn phải nộp thêm tiền lãi và tiền nộp phạt
theo qui định của Nhà nớc. Nguồn thu này ngoài tác dụng tăng thu cho quĩ
BHXH còn là điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đúng hạn để
đảm bảo thu chi của quĩ BHXH.
Một nguồn thu không thờng xuyên khác của quĩ BHXH là viện trợ không
hoàn lại, viện trợ nhân đạo của các tổ chức trong nớc và quốc tế. Tuy là nguồn
thu không thờng xuyên, nhng nguồn thu này cũng góp phần bổ sung đáng kể cho
quĩ BHXH, giúp quĩ thực hiện chức năng đảm bảo đời sống cho ngời lao động và
gia đình họ.
Một nguồn thu khác cũng hết sức quan trọng, đó là lãi thu đợc từ hoạt động
đầu t nguồn vốn nhàn rỗi của quĩ BHXH. Do quĩ BHXH hoạt động theo nguyên
tắc thu trớc, chi sau nên quĩ cần phải đợc bảo toàn và phát triển. Theo qui định
của Nhà nớc thì một lợng vốn nhàn rỗi nhất định của quĩ BHXH có thể đợc đem
đầu t để thu lãi nhng phải bảo đảm nguyên tắc an toàn, có lãi và đảm bảo lợi ích
kinh tế xã hội. Hiện nay, quĩ BHXH nhàn rỗi đợc phép cho vay để thu lợi nhuận
theo chỉ định của Nhà nớc, cụ thể là do Bộ Tài Chính chỉ định. Nh vậy, việc quản
lý đầu t quĩ BHXH cha đợc tập trung, thống nhất. Tổ chức BHXH Việt Nam quản
lý hoạt động sự nghiệp của hoạt động BHXH, chịu trách nhiệm bảo toàn và tăng
trởng nguồn quĩ nhng lại không đợc phép quyết định hoạt động đầu t quĩ. Một
điểm hạn chế nữa, danh mục đầu t quĩ BHXH Việt Nam rất nghèo nàn và đều là
các lĩnh vực có lãi suất thấp:
Đầu t vào các dự án phát triển kinh tế xã hội đất nớc
Đầu t mua trái phiếu, công trái
Gửi vào ngân hàng Nhà nớc
3.2. Tổ chức thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam


7


Theo Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống
BHXH Việt Nam đợc thành lập đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ,
sự quản lý Nhà nớc của bộ Lao động - thơng binh và xã hội và các cơ quan
quản lý Nhà nớc có liên quan, sự giám sát của các tổ chức công đoàn. Theo
Nghị định này, cơ quan BHXH Việt Nam là đơn vị tổ chức thu và quản lý
thu quĩ BHXH Việt Nam. Về mặt tổ chức, BHXH Việt Nam hình thành
một hệ thống dọc từ Trung ơng đến địa phơng và đợc chia thành 3 cấp: cấp
Trung ơng ; cấp tỉnh, thành phố ; cấp quận, huyện. Vì vậy thu và quản lý
thu quĩ BHXH cũng đợc phân cấp cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của
BHXH Việt Nam. Nhiệm vụ của từng cấp quản lý nh sau:
* BHXH cấp huyện có nhiệm vụ :
Tổ chức thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại địa bàn
huyện gồm:
- Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý
- Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động trở lên
- Các xã, phờng, thị trấn
- Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu
Lập kế hoạch thu BHXH trên địa bàn huyện cho năm sau và gửi cho
BHXH tỉnh
Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh
Lập báo cáo tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn huyện hàng
tháng, quí, năm và gửi cho BHXH tỉnh
Kiểm tra, thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa
bàn huyện
* BHXH cấp tỉnh
Tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn
tỉnh gồm:

- Các đơn vị do Trung ơng quản lý

8


- Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý
- Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
- Các đơn vị, tổ chức quốc tế
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn
- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đa lao động Việt Nam đi làm
việc có thời hạn ở nớc ngoài
- Các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều
kiện thu
Lập kế hoạch tổng hợp thu BHXH trên địa bàn tỉnh cho năm sau
Chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam
Lập báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn tỉnh
hàng tháng, quí, năm và gửi cho BHXH Việt Nam
Kiểm tra thẩm định số liệu thu của các đơn vị sử dụng lao động trên địa
bàn tỉnh và của BHXH huyện cấp dới
* BHXH Việt Nam
Thu BHXH của BHXH bộ Quốc phòng, bộ Công an, ban cơ yếu Chính
phủ
Lập kế hoạch thu BHXH trong toàn bộ hệ thống BHXH, giao kết kế
hoạch thu BHXH cấp dới
Kiểm tra thẩm định số liệu thu của BHXH cấp dới
Báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống BHXH lên Chính phủ, bộ
Lao động - thơng binh và xã hội và các cơ quan quản lý Nhà nớc có liên
quan
Các đơn vị, doanh nghiệp có ngời lao động tham gia BHXH phải có trách
nhiệm báo cáo cho BHXH cấp tơng ứng về số lao động tham gia BHXH và quỹ

tiền lơng của doanh nghiệp; trích và nộp tiền BHXH vào tài khoản thu BHXH tại
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc tại Kho bạc Nhà nớc theo
đúng thời hạn quy định .
9


Theo cơ cấu thu trên, các cấp quản lý thu BHXH đợc phân công, phân
nhiệm rõ ràng, không có sự trùng lắp ở các cấp. Ngoài ra, hệ thống quản lý thu
theo chiều dọc giúp cho việc kiểm tra, thẩm định hoạt động của các cấp đợc dễ
dàng.
Hiện nay, mô hình quản lý thu nh trên đang đợc áp dụng trong hệ thống
BHXH Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân mà tình hình thu và quản lý thu quĩ
BHXH Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Sau đây chúng ta hãy xem
xét tình hình thu và quản lý thu quĩ BHXH Việt Nam.

10


Phần hai: Tình hình thu và quản lý thu quĩ
BHXH Việt Nam những năm gần đây (1995 - 2000)
1.

Tình hình số ngời tham gia BHXH tại Việt Nam (1995 - 2000)

Theo Nghị định 12/CP năm 1995, ngoài những ngời lao động đợc tham gia
BHXH đã nêu ở trên, còn một lợng lớn lao động trong lực lợng lao động ở nớc ta
cha tham gia BHXH nh lao động nông nghiệp ở nông thôn, những ngời lao động
làm việc tự do, không ổn định (thợ thủ công, tiểu thơng, lao động làm việc theo
mùa vụ ngắn hạn ...). Số lao động cha tham gia BHXH này không phải là nhỏ,
chiếm khoảng 40% lực lợng lao động ở nớc ta. Tuy nhiên, số lao động thuộc diện

tham gia BHXH thuộc các thành phần kinh tế cũng vẫn cha tham gia BHXH đầy
đủ. Tình hình thực tế nh sau:
Bảng 1: Số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam giai đoạn (1995-2000)
Năm

Tổng số

Tốc độ tăng

KV t nhân -

Tốc độ

DN vốn n-

Tốc độ

(ngời)

liên hoàn (%)

ngoài quốc
doanh (ngời)

tăng (%)

ớc ngoài

tăng(%)


(ngời)

1995 2275998

-

30063

-

78791

-

1996 2961444

30,1

56280

87,2

125889

59,8

1997 3162352

6,78


84058

49,4

214596

70,5

1998 3355589

6,1

122685

46

242108

12,8

1999 3579427

6,7

125279

37

361522


49,3

(Nguồn : Tạp chí BHXH 5/2000)
Xét về số lao động tham gia BHXH tại Việt Nam, theo bảng trên ta thấy,
sau khi đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam, số lao động tham gia BHXH liên tục
tăng lên với tốc độ cao. Năm 1995, số ngời lao động tham gia BHXH là 2,2 triệu,
đến năm 1999, con số này đã tăng đến 3,6 triệu, nh vậy là tăng khoảng 60%. Cha
kể hàng năm có khoảng 15 vạn lao động về hu không đợc liệt kê vào bảng số liệu
trên.

11


Năm 1995 là năm gốc của đổi mới, số lao động tham gia BHXH mới chỉ
đạt 2.275.998 ngời. Sang năm 1996, sau khi có đầy đủ số liệu về số lao động
thuộc diện tham gia BHXH, quĩ lơng... một số lợng lớn lao động ở các doanh
nghiệp có vốn nớc ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 10 lao động
trở lên đã tham gia BHXH. Số ngời tham gia BHXH năm 1996 tăng lên 685.446
nghĩa là tăng 30,1% so với năm 1995. Các năm sau 1997, 1998, 1999, số ngời lao
động tham gia BHXH liên tục tăng tốc độ hơn 6%/năm.
Tuy nhiên, khi so sánh lợng tăng tuyệt đối trung bình của giai đoạn 1995 2000 là khoảng 300.000 ngời với 1.200.000 lực lợng tăng tự nhiên hàng năm của
Việt Nam thì số ngời tham gia bảo hiểm tăng thêm chiếm 1/4 số ngời lao động
tăng thêm. Tất nhiên, trong 1,2 triệu lao động tăng thêm hằng năm còn bao gồm
cả thất nghiệp, ngời làm việc ở khu vực t nhân, tiểu thơng, thợ thủ công... Mặt
khác, Việt nam hiện nay có khoảng 38 triệu lao động ,nhng chỉ 14% trong số đó
tham gia BHXH. Vậy trong những năm tới, Nhà nớc cũng nh ngành bảo hiểm xã
cần có những giải pháp tích cực để tăng số ngời tham gia BHXH .
Nh vậy, nhìn chung là số ngời tham gia BHXH tăng liên tục với tốc độ cao
qua các năm. Tuy nhiên tỉ lệ số ngời tham gia BHXH so với tổng số lao động còn
thấp, đặc biệt là khi so sánh với các nớc trên thế giới: tỉ lệ này là xấp xỉ 95% ở

các nớc kinh tế phát triển .
Tình hình chung là nh vậy, nhng để tìm ra nguyên nhân của thực trạng và
giải pháp thích hợp để tăng số ngời tham gia BHXH, chúng ta cần xem xét tình
hình ngời lao động tham gia BHXH ở từng khối - loại hình kinh tế. Đối với khối
hành chính sự nghiệp và lực lợng vũ trang, do lơng của ngời lao động đợc ngân
sách Nhà nớc cấp nên số lao động tham gia hoạt động trong khu vực này đảm bảo
tham gia BHXH đầy đủ. Cũng nh vậy, trong khối doanh nghiệp Nhà nớc - những
doanh nghiệp do Nhà nớc cấp vốn thành lập và quản lý - do hệ thống quản lý lao
động, tiền lơng chặt chẽ nên ngời lao động tại các doanh nghiệp này tham gia
BHXH cũng đầy đủ. Cụ thể là, năm 1999, số ngời lao động tham gia BHXH khối
hành chính sự nghiệp là 1.367.341 ngời; khối doanh nghiệp Nhà nớc là 1.521.256
ngời. Số ngời lao động tham gia BHXH ở hai khối ngành này chiếm hơn 3/4 số
ngời lao động tham gia BHXH cả nớc. Trong những năm tới, ở hai khối ngành

12


này, do hầu hết lao động đều tham gia BHXH đầy đủ nên số ngời lao động tham
gia bảo hiểm sẽ tăng không mạnh.
Ngợc với xu hớng của 2 khối ngành trên, số ngời lao động tham gia BHXH
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số ngời lao động tham gia BHXH cả nớc
cũng nh so với số ngời tham gia lao động trong lĩnh vực này.
Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bảng 1 cho chúng ta thấy, số
ngời tham gia BHXH liên tục tăng mạnh trong các năm từ 1995 đến 1999. Số lao
động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1995 tăng từ 30.063 đến 125.279 ngời, nghĩa là tăng gấp 4 lần. Đây cũng là khu vực có số lao động tham gia BHXH
tăng mạnh nhất so với các loại hình kinh tế khác với tốc độ tăng bình quân
60%/năm. Tuy nhiên, khi so sánh với số lao động tham gia hoạt động trong khu
vực thì số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm hơn 10%. Hơn thế nữa, số lao
động tham gia BHXH này chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn nh Hà Nội,

Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài lý do là đối tợng tham gia BHXH chỉ
giới hạn là lao động ở các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên, thực
trạng trên bắt nguồn từ nhiều phía: Nhà nớc, ngời sử dụng lao động, ngời lao
động:
Về phía Nhà nớc: Nhà nớc, chính quyền địa phơng còn cha quan tâm
đúng mức đến khu vực lao động này, cha có chế độ kiểm tra, quản lý,
xử lý cũng nh chế tài thoả đáng để đảm bảo nghĩa vụ cũng nh quyền lợi
của ngời lao động. Ngoài ra, còn do sức ép về việc làm của khu vực này
mà các cơ quan chức năng nhiều khi lúng túng trong việc thực hiện các
biện pháp chế tài của pháp luật.
Về phía ngời sử dụng lao động: Do đặc điểm của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chủ yếu là các đơn vị kinh tế nhỏ, hoạt động sản xuất
kinh doanh còn cha ổn định, số đầu doanh nghiệp nhiều nhng các yếu
tố nh lao động, địa bàn, hoạt động... lại thờng xuyên thay đổi dẫn đến
quan hệ lao động lỏng lẻo. Đây chính là yếu tố gây tâm lý né tránh
nghĩa vụ nộp BHXH của ngời chủ sử dụng lao động ở khu vực này. Mặt
khác, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lãi ít, thu

13


nhập ngời lao động thấp nên đóng BHXH cũng gây khó khăn cho cuộc
sống ngời lao động.
Về phía ngời lao động: Ngời lao động ít hiểu biết về pháp luật, cha có
khái niệm về BHXH hoặc ít quan tâm đến BHXH nên cũng không yêu
cầu chủ thực hiện BHXH cho mình.
Hiện nay, các khu vực ngoài quốc doanh còn 86% lao động cha tham gia
BHXH. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nớc và cơ quan BHXH Việt Nam có các
biện pháp giải quyết để hoàn thiện hệ thống BHXH và đảm bảo ổn định cuộc
sống cho ngời lao động.

Khu vực có số ngời tham gia BHXH tăng nhanh kế tiếp là các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài gồm: doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài và doanh
nghiệp liên doanh với nớc ngoài. Số lao động tham gia BHXH ở khu vực này tăng
rất nhanh từ 78.791 ngời năm 1995 lên đến 361.522 ngời năm 1999. Tốc độ tăng
bình quân cao khoảng 40%/năm. Duy chỉ có năm 1998, do cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ châu á, mức độ vốn đầu t vào Việt Nam giảm hẳn, ngoài ra còn do
khó khăn về tài chính, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài phải giảm bớt
số lợng công nhân, nên mức độ tăng tuyệt đối của số ngời tham gia BHXH đột
ngột giảm, mức độ tăng tuyệt đối là 27.512 ngời so với mức độ tăng tuyệt đối các
năm là hơn 100.000 ngời. Sang năm 2000, nền kinh tế châu á đã hồi phục, lợng
vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng vì vậy số nhân công đợc thuê mớn
sẽ tăng lên. Trong những năm tới, số ngời lao động tham gia trong lĩnh vực này
sẽ có tốc độ tăng cao. Đây sẽ là nguồn thu lớn cho quĩ BHXH do số lợng lao
động tham gia hoạt động trong các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài khá
đông và tiền lơng thu nhập của lao động trong khu vực này thờng cao hơn hẳn
các khu vực khác.
Nh vậy, nhìn chung, số ngời lao động tham gia BHXH có xu hớng tăng
mạnh, liên tục qua các năm, trong cả nớc cũng nh trong tất cả các thành phần
kinh tế. Tuy nhiên, khi so sánh số ngời đã tham gia BHXH với số ngời thuộc diện
tham gia BHXH thì tỷ lệ này còn rất nhỏ, đặc biệt là tại các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh. Đóng góp của những ngời lao động tham gia BHXH và chủ của họ
sẽ là nguồn hình thành chủ yếu của quĩ BHXH. Tình hình thu quĩ BHXH nh sau:

14


2.

Tình hình thu quĩ BHXH Việt Nam (1995 - 2000)


Biểu 1: Thực tế số thu của BHXH Việt Nam (1995 - 1999)
Đơn vị: triệu đồng
4500000

4188382
3875956

4000000

3445611

3500000
3000000

2569733

2500000
2000000
1500000
1000000

778486

500000
0
1995

1996

1997


1998

1999

(Nguồn : Tạp chí thị trờng tài chính tiền tệ số 3 năm 2000)

Số liệu bảng trên cho ta thấy số thu BHXH tăng lên liên tục qua các năm.
Tổng thu BHXH qua năm năm đạt gần 15.000 tỷ đồng. Nh đã nêu ở phần trớc,
năm 1996, số ngời lao động tham gia BHXH tăng mạnh so với năm 1995. Chính
vì thế, số thu BHXH năm 1996 là 2.569.733 triệu ngời tăng gấp 3 lần số thu năm
1995 (778.486 triệu ngời). Các năm 1997, 1998, 1999, số thu BHXH tăng lên liên
tục với tốc độ cao. Hai quý đầu năm 2000, số thu BHXH đạt khoảng 2.500 tỷ
đồng.
Chúng ta sẽ nhận thấy những thành tựu vợt bậc của BHXH Việt Nam nếu so
sánh số thu BHXH giai đoạn 1995 - 2000 với số thu BHXH những năm trớc khi
đổi mới hệ thống BHXH Việt Nam. Lấy năm 1994 làm mốc, số thu BHXH năm
1994 là 420 tỷ đồng. Nh vậy, năm 1995, số thu BHXH là 778 tỷ đồng, tăng gần
gấp đôi so với năm 1994. Năm 1999, số thu BHXH là 4.188 tỷ đồng, tăng gấp 10

15


lần năm 1994. Nh vậy, chỉ qua năm năm đổi mới hệ thống thu và quản lý thu,
BHXH Việt Nam đã tăng gấp 10 lần.
Số thu BHXH tăng nhanh, liên tục qua các năm chứng tỏ cơ chế thu và quản
lý quỹ BHXH Việt Nam đã đi đúng hớng, đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, số thu
BHXH Việt Nam vẫn còn thấp, cha xứng đáng với tiềm năng lao động lớn ở nớc
ta. Nguyên nhân của tình trạng này nh sau:
Thứ nhất, số thu BHXH thấp do tỷ lệ đóng góp của ngời lao động và ngời sử

dụng lao động là 20% so với tổng quỹ lơng. Tỷ lệ này còn thấp so với các nớc
trong khu vực và trên thế giới. Tại các nớc kinh tế phát triển nh Bỉ, tỷ lệ đóng góp
của ngời lao động và ngời sử dụng lao động là 30% đến 40% so với tổng quỹ lơng. Mặt khác, không những tỷ lệ đóng góp thấp mà mức lơng để trích nộp
BHXH cũng thấp và không đồng đều giữa các thành phần kinh tế. Ngời tham gia
BHXH có mức lơng trích nộp thấp nhất là ngời lao động tại các doanh nghiệp
làm ăn không có hiêụ quả hoặc đang lỗ, hoạt động sản xuất cầm chừng. Mà số
doanh nghiệp này hiện nay không phải là nhỏ. Ngời tham gia BHXH có mức lơng trích nộp cao thờng là ngời lao động có vốn đầu t nớc ngoài. Ngời tham gia
BHXH trong khối hành chính sự nghiệp có mức lơng trích nộp bằng mức lơng tối
thiểu nhân hệ số cấp bậc, chức vụ cộng các khoản phụ cấp. Từ 1/1/2000, mức lơng tối thiểu bằng 180.000 đồng. Trớc đó, tiền lơng tối thiểu bằng 144.000 đồng.
So với Indonesia - một nớc nằm trong khu vực Đông Nam á, mức đóng góp tối
thiểu bằng 1000Rp một ngày (quy đổi )
Thứ hai: số thu BHXH thấp nhng tỷ lệ nợ đọng tiền đóng BHXH còn cao.
Nhìn chung, tiền BHXH nợ bình quân 500 tỷ đồng, chiếm từ 11 đến 12% diện
thu đã quản lý đợc. Nếu gọi tổng mức phải nộp BHXH là 100% trong một năm
12 tháng thì mức nợ một tháng chiếm 8,33% (tơng ứng với 30 ngày). Số nợ tiền
BHXH qa các năm nh sau:

16


Bảng 2: Số nợ tiền BHXH các năm 1995 1999

Tính đến ngày

Số nợ/số phải nộp (%)

Số ngày nợ tơng ứng(ngày)

31/12/1995


11,3

40

31/12/1996

8,3

30

31/12/1997

11,2

40

31/12/1998

10,0

36

31/12/1999

9,0

32

Nguồn: Tạp chí BHXH tháng 5/2000
Qua số liệu trên, ta thấy, hệ thống thu BHXH đã có nhiều phấn đấu, điều

chỉnh thích hợp để rút ngắn số ngày chiếm dụng tiền BHXH từ 40 ngày xuống32
ngày. Nh vậy là giảm đợc 8 ngày. Mục tiêu của các năm tới là tiếp tục giảm số
ngày chiếm dụng xuống mức phù hợp có thể chấp nhận đợc.
Tình hình nợ đọng ở từng khối loại hình nh sau:
- Khối hành chính sự nghiệp: Do có nguồn tiền lơng và tiền đóng BHXH ổn
định, đợc ngân sách Nhà nớc cấp nên mức chiếm dụng chỉ trong 7 ngày (ứng với
chu kỳ phát lơng)
- Khối doanh nghiệp Nhà nớc là khối có mức độ chiếm dụng lớn nhất trong
các khối với mức độ trên 2 tháng do có khó khăn về việc làm, thu nhập, phơng
thức tính và trả lơng.
- Các khối khác nói chung duy trì mức chiếm dụng trong vòng một tháng.
Nh vậy là trong công tác quản lý thu nợ đọng phải tập trung sự chú ý vào
khối doanh nghiệp Nhà nớc nhiều hơn các khối khác.
Số nợ đọng ở các tỉnh thành phố cũng có mức độ nợ đọng khác nhau. Tình
hình nợ đọng ở một số tỉnh, thành phố năm 1999 nh sau:

17


Bảng 3: Số tiền chiếm dụng BHXH ở một số tỉnh, thành phố:
Tên tỉnh

Số nợ/số phải nộp

Số ngày chiếm dụng

Số thực tế(tỷ đồng)

Tỷ lệ (%)


tơng ứng (ngày)

Phú Thọ

18/73

24

90

Hoà Bình

13/120

20

73

Thái Bình

7,7/38

15

54

Thanh Hoá

6,6/44


16

58

16,6/102

16

58

Gia Lai

Nguồn: Tạp chí BHXH, số 5/2000
Các tỉnh khác có mức nợ khoảng hơn một tháng
Trong mỗi tỉnh, số nợ của các đơn vị sử dụng lao động cũng có mức chiếm
dụng ít nhiều khác nhau . Nguyên nhân của tình trạng tiền BHXH nợ đọng nh đã
trình bày ở trên xuất phát từ hai phía: Nhà nớc và các doanh nghiệp đóng BHXH:
Về phía Nhà nớc:
- Hành lang pháp lý và những chế tài pháp luật Nhà nớc cho việc thu
nộp BHXH cha cụ thể và cha đủ mạnh để buộc các chủ sử dụng lao động nộp
BHXH đúng thời hạn, đủ số lợng. Chính vì vậy mà còn có nhiều doanh nghiệp cố
tình chiếm dụng quỹ BHXH một cách trái pháp luật mà vẫn không bị xử lý. Theo
Nghị định 38/CP của Chính phủ quy định: Xử phạt hành vi trốn tránh trách
nhiệm nộp BHXH hoặc chậm nộp BHXH song thẩm quyền xử phạt thuộc về
Thanh tra Nhà nớc về lao động và UBND các cấp. Nh vậy là không có sự đồng
bộ trong việc thu BHXH và xử phạt dẫn đến những khó khăn trong việc kết hợp
thu BHXH và xử phạt để đạt hiệu qủa thu BHXH cao nhất.
- ở nhiều địa phơng, các cơ quan quản lý Nhà nớc, đoàn thể, quần
chúng, cơ quan bảo vệ pháp luật cha tích cực phối hợp cùng các cơ quan BHXH
thực hiện các biện pháp cỡng chế các chủ sử dụng lao động đóng BHXH theo quy

định.
- Do quy định quy trình tính lơng và phát lơng của hầu hết các đơn vị
lĩnh lơng tháng đều hoàn thành vào tháng sau. Dẫn đến việc nộp BHXH của
tháng trớc, tháng sau mới nộp đợc.

18




Về phía các đơn vị sử dụng lao động:

- Nhiều đơn vị thực hiện trả lơng cho ngời lao động theo sản phẩm.
Việc trả lơng không những phụ thuộc vào số sản phẩm làm ra mà còn phụ thuộc
vào việc sản phẩm có tiêu thụ đợc hay không. Vì vậy, tiền BHXH cũng phải đợi
đến khi thanh toán lơng cho ngời lao động mới nộp. Tình trạng này thờng xảy ra
ở các đơn vị sản xuất hàng thủ công, các nông, lâm trờng còn phụ thuộc vào cơ
chế giao khoán đất đai.
- Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã trực tiếp ảnh hởng đến tình
hình sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Do sản xuất không ổn định,
nhiều doanh nghiệp thiếu việc làm cho ngời lao động, kinh doanh thua lỗ, thậm
chí còn nợ cả tiền lơng của ngời lao động kéo theo nợ tiền nộp BHXH. những
doanh nghiệp này tập trung ở một số ngành nh du lịch, thơng mại dịch vụ...
- Do chủ sử dụng lao động thiếu ý thức, cha thực sự quan tâm đến việc
nộp BHXH, mặc dù khả năng của các đơn vị này đủ sức thực hiện việc trích nộp
đúng quy định, điều đó dẫn đến nợ giả tạo. Những doanh nghiệp thuộc dạng này
tập trung ở các ngành điện, nớc, bu chính viễn thông, hàng không...
- Một số doanh nghiệp cho rằng việc trích nộp 20% BHXH hàng tháng
(trong đó, ngời lao động đóng 5%, ngời sử dụng lao động đóng 15%) là quá lớn,
do đó đã trốn nộp BHXH hoặc cố tình chiếm dụng quỹ BHXH để sử dụng trong

sản xuất kinh doanh mà không chịu một biện pháp xử lý nào đáng kể. Các doanh
nghiệp thuộc dạng này tập trung ở các ngành giao thông vận tải và xây dựng.
- Một nguyên nhân khác cũng khá phổ biến là số nợ tồn đọng trớc đây
tồn tích lại, đơn vị sử dụng lao động cha có nguồn hoặc cha đủ cơ sở để xử lý hay
nộp, hoặc giải trình xin xử lý xoá nợ, nên vẫn phải treo nợ trên sổ sách.
Tình hình thu quỹ BHXH và chiếm dụng tiền BHXH các năm trớc đây nh
vậy, nhng năm 2000, thu BHXH lại có những khó khăn riêng. Do tiền lơng tối
thiểu đợc điều chỉnh từ 144.000 đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng kể từ ngày
1/1/2000, nên kế hoạch thu BHXH năm 2000 cũng phải điều chỉnh lên tơng ứng.
Nhng một điều bất cập là: theo Nghị định 175/1999/NĐ - CP, ngày15/12/1999
của Chính phủ về việc điều chỉnh mức lơng tối thiểu, chỉ quy định phạm vi thực
hiện ở các đơn vị hành chính sự nghiệp và các đơn vị thụ hởng tiền lơng do ngân
19


sách Nhà nớc cấp. Và đến ngày 27/3/2000 mới có Nghị định 12/2000/NĐ - CP
quy định về tiền lơng tối thiểu trong các doanh nghiệp ở khu vực sản xuất. Nh vậy
là thời gian thực hiện kế hoạch thu năm 2000 chỉ còn 8 tháng do nhiều doanh
nghiệp 4 tháng đầu năm vẫn chờ văn bản hớng dẫn thực hiện việc điều chỉnh mức
lơng tối thiểu nên cha đóng BHXH. Chính vì vậy, việc hoàn thành kế hoạch thu sẽ
gặp nhiều khó khăn. Một khó khăn khác là : năm 2000 và 2001, lao động trong
khu vực hành chính sự nghiệp giảm 10%, vì vậy, số lao động trong các khu vực
khác tham gia và đóng BHXH phải tăng lên để các bù đắp đủ số thu BHXH. Nhng vấn đề thu BHXH ở các khu vực khác (doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh
nghiệp Nhà nớc) vẫn là vấn đề khó giải quyết từ những năm trớc. Mặt khác, do có
chính sách u đãi tạo điều kiện cho ngời lao động về hu trớc tuổi nên số lao động
về hu và thôi việc một lần năm 2000 có chiều hớng tăng lên đột ngột cũng làm
giảm nguồn thu của quỹ. Dự kiến năm 2000, thu quỹ BHXH cả nớc khoảng 5000
tỷ đồng, cao hơn năm 1999 là 20%. Trong đó, chỉ gần 10% tăng là do tăng tiền l ơng tối thiểu làm căn cứ thu BHXH (do tiền lơng ở các doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài cũng rất lớn). Còn lại hơn 10% kế hoạch thu BHXH là do số ngời
tham gia BHXH tăng và truy thu nợ quỹ BHXH. Với những khó khăn đã nêu ở

trên, để hoàn thành kế hoạch thu, BHXH phải có những biện pháp thích hợp cùng
với nỗ lực của toàn ngành.
Nguồn thu chủ yếu của quỹ BHXH là đóng góp của ngời lao động và ngời
sử dụng lao động. Bên cạnh đó, tiền nộp phạt của các doanh nghiệp nộp chậm
tiền BHXH cũng đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn quỹ. Hiện nay, tiền
nộp phạt khi nộp tiền BHXH chậm do Bộ Tài chính quy định theo khung nộp
phạt chung là: phạt mỗi năm không quá hai lần, mỗi lần không quá 1.5 triệu
đồng, giống nh quy định nộp chậm thuế VAT và bảo hiểm y tế. Số tiền nộp phạt
này chỉ mang tính chất cảnh cáo mà không có tác dụng thúc đẩy các doanh
nghiệp nộp tiền BHXH đúng thời hạn quy định. Một nguồn thu khác cũng rất
quan trọng của quỹ BHXH là lãi đầu t vốn nhàn rỗi quỹ BHXH. Mặc dù lãi suất
của các lĩnh vực đầu t thấp, khoảng 5 đến 6%/năm, tổng số tiền sinh lời của quỹ
từ năm 1995 đến 1999 là 1.400 tỷ đồng. Riêng năm 1999, tiền nhàn rỗi của quỹ
là 12.000 tỷ đồng (lớn nhất từ trớc đến nay) và bổ sung cho quỹ BHXH đợc 631
tỷ đồng. Ngoài ra, năm 1999, quỹ BHXH đã mua 500 tỷ đồng công trái Nhà nớc

20


với lài suất 50%/5 năm. Đây là nguồn vốn dài hạn cho quỹ, đông thời góp phần
hỗ trợ tài chính cho Nhà nớc.
Từ những nguồn thu ở trên: đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao
động, các khoản thu khác, BHXH Việt Nam chi trả trợ cấp cho ngời lao động.
Trong thời gian qua, để đảm bảo chi trả trợ cấp nhằm ỏn định cuộc sống của ngời
lao động và gia đình họ, Nhà nớc vẫn phải bổ sung liên tục nguồn quỹ BHXH.
3. Tình hình ngân sách Nhà nớc cấp cho quỹ BHXH
Để đảm bảo nguồn kinh phí lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH, Nhà nớc
quy định: ngân sách Nhà nớc trợ cấp hu trí cho cán bộ, công chức, quân nhân đã
nghỉ việc trớc năm 1995 đang hởng lơng hu và các loại trợ cấp hàng tháng khác.
Nh vậy là quỹ BHXH không phải chi một khoản trợ cấp khá lớn cho ngời lao

động trong một thời gian dài. Quỹ BHXH chỉ chịu trách nhiệm chi trả các loại trợ
cấp cho cán bộ, công chức, quân nhân hởng trợ cấp sau năm 1995. Tuy nhiên,
trong 5 năm qua, khi so sánh tổng số chi BHXH hơn 24.000 tỷ đồng và tổng số
thu BHXH gần 4.200 tỷ đồng, chúng ta thấy thu BHXH không thể bù đắp cho chi
BHXH. Chính vì vậy, những năm qua, ngân sách Nhà nớc luôn phải hỗ trợ quỹ
BHXH. Tình hình cụ thể nh sau:

21


Biểu 2: Nguồn vốn ngân sách Nhà nớc trong quỹ BHXH Việt Nam
(1995 - 1999)
6700.31

7000
5691.66

6000

5759

4771.05

5000
4000
3000
2000
1000

1153.98


0
1995

1996

1997

1998

1999

(Nguồn : Tạp chí thị trờng tài chính tiền tệ số 3 năm 2000)

Qua biểu trên ta thấy: ngợc với xu hớng tăng lên của tổng chi BHXH qua
các năm 1995 - 1999, nguồn vốn ngân sách Nhà nớc trong quỹ BHXH có xu hớng giảm dần từ 96,19% năm 1995 xuống 84,90% năm 1999. Nh vậy, giai đoạn
1995 - 1999, tỷ lệ ngân sách Nhà nớc cấp cho quỹ BHXH giảm bình quân
3%/năm. So với giai đoạn 1990 - 1994 trớc khi đổi mới hệ thống BHXH, nguồn
vốn ngân sách Nhà nớc trong quỹ BHXH là khoảng hơn 90% và luôn có xu hớng
tăng lên.
Vậy là trong thời gian qua, công tác thu quỹ BHXH đã đạt đợc một số thành
công nhất định. Tuy vẫn còn phụ thuộc phần lớn vào ngân sách xã hội, quỹ
BHXH đã dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nớc, giảm nhẹ gánh nặng của ngân
sách Nhà nớc và hoà hệ thống tài chính quốc gia. Để đạt đợc những thành tựu
trên, BHXH Việt Nam đã có nhiều cải tiến trong hệ thống quản lý BHXH nói
chung và quản lý thu BHXH nói riêng.
4. Quản lý thu BHXH
Yêu cầu của ngành BHXH nói chung và yêu cầu của công tác quản lý thu
BHXH nói riêng là cập nhật và lu trữ trong một thời gian dài các thông tin về đối
tợng tham gia BHXH nh họ tên, năm sinh, giới tính, thời gian tham gia BHXH...

và về các đơn vị sử dụng lao động nh tổng quỹ tiền lơng tham gia BHXH, số tiền
22


nộp BHXH kỳ này, số tiền nộp BHXH còn nợ đọng. Chính vì thế mà ngành
BHXH luôn cần lu trữ một số lợng lớn hồ sơ tài liệu. Trớc kia, công tác quản lý
thu BHXH thực hiện bằng phơng pháp thủ công trên giấy tờ vừa tốn kém, vừa khó
đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Trong thời đại công nghệ tin học phát triển nh
vũ bão và đợc áp dụng rộng rãi khắp nơi, BHXH Việt Nam đã từng bớc ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác thu BHXH.
Cho đến nay, cả 3 cấp BHXH: cấp Trung ơng, cấp tỉnh, cấp huyện đều đã đợc trang bị máy vi tính để thực hiện không những công tác thu mà còn các công
tác khác của ngành BHXH nh quản lý sổ BHXH, chi trả trợ cấp cho ngời lao
động. áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH đã có một số tác dụng
sau :


Giảm nhẹ sức lao động thủ công trong hoạt động thống kê báo cáo

thu BHXH, đồng thời đảm bảo tính chính xác, kịp thời của các báo cáo thu
hàng quý của BHXH các cấp.


Thúc đẩy các đơn vị sử dụng lao động quan tâm đến việc báo cáo số

ngời tham gia BHXH, mức lơng tham gia BHXH để phản ánh chính xác, kịp
thời tình hình thu nộp BHXH của đơn vị.


Tiết kiệm thời gian luân chuyển chứng từ, truyền đạt thông tin giữa


các cấp BHXH .
Tuy đã trang bị hệ thống máy vi tính cho các cấp BHXH, nhng các chơng
trình đợc sử dụng đều là những chơng trình riêng lẻ, không có sự liên kết giữa các
cấp BHXH và cha tạo điều kiện cho việc kết hợp công tác quản lý thu BHXH và
các công tác khác trong ngành. Hơn nữa, mỗi cấp BHXH lại sử dụng một chơng
trình khác nhau, đặc biệt có nơi vẫn còn sử dụng những chơng trình đã quá lạc
hậu, vì vậy, cũng không có khả năng liên kết BHXH các cấp. Trong thời gian tới,
để đảm bảo công tác thu BHXH cũng nh đảm bảo sự phát triển của toàn ngành,
BHXH Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin và nối mạng toàn
quốc.
Bên cạnh việc trang bị các thiết bị thông tin hiện đại, BHXH cũng luôn chú
trọng đến nâng cao nguồn lực con ngời. Hàng năm, cán bộ hoạt động trong
ngành đợc đào tạo mới hoặc đào tạo lại trong công tác quản lý quỹ BHXH, bảo
23


toàn và phát triển quỹ, các nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH, cơ sở khoa
học của việc hoạch định các chính sách, chế độ. Đặc biệt, ngành chú trọng vào
công tác phổ cập tin học cho cán bộ trong toàn ngành và có đội ngũ chuyên viên
kỹ thuật giỏi về xử lý những vấn đề trong quá trình áp dụng công nghệ thông tin
vào công tác quản lý thu BHXH.
Nh vậy là sau một thời gian ngắn áp dụng hệ thống thu và quản lý thu mới,
BHXH Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu đáng kể nh số ngời tham gia BHXH
tăng, số thu BHXH tăng qua các năm... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt đợc, BHXH Việt Nam còn vấp phải một số khó khăn nh: tình hình nợ đọng còn
nhiều, quỹ BHXH cha đủ khả năng chi trả cho ngời lao động, ngân sách Nhà nớc
vẫn phải bao cấp. Để khắc phục những khó khăn trên, trong những năm tới, các
ngành, các cấp sẽ đa ra những giải pháp hữu hiệu. Trong phạm vi bài viết này, tác
giả xin mạnh dạn đa ra một số giải pháp cấp thiết cho hệ thống thu và quản lý thu
quỹ BHXH Việt Nam.


24


Phần ba: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống thu và quản
lý thu quỹ BHXH Việt Nam.
Các giải pháp đa ra nhằm hoàn thiện hệ thống thu và quản lý thu quỹ BHXH
phù hợp với định hớng phát triển chung của ngành, xu hớng phát triển chung của
thế giới.
1. Một số định hớng phát triển chung.
- Coi trọng phát triển về chiều rộng bao gồm cả mở rộng các đối tợng tham
gia và các hình thức tham gia BHXH. Về mở rộng đối tợng tham gia BHXH:
BHXH thu hút tất cả các đối tợng lao động thuộc các thành phần kinh tế. Về hình
thức tham gia: gồm 2 hình thức tự nguyện và bắt buộc. Ngoài ra, cần có nhiều
loại hình BHXH tự nguyện để phù hợp với khả năng đóng góp của ngời dân.
- Dần cải tiến, hoàn thiện phơng pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ
nhằm thu đúng, thu đủ tiền đóng BHXH của ngời lao động, ngời sử dụng lao
động heo đúng pháp luật. Từ đó, thúc đẩy và cải thiện tình hình thu BHXH, đáp
ứng nhu cầu về BHXH của ngời lao động.
- Quỹ BHXH phải đợc quản lý nhằm bảo tồn và tăng trởng quỹ đồng thời,
giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà nớc.
- Từng bớc hiện đại hoá cơ chế thu và quản lý thu quỹ BHXH.
2. Những giải pháp cụ thể
2.1.

Tăng số ngời tham gia BHXH

Tăng đối tợng lao động thuôc diện tham gia BHXH
Hiện nay, dân số Việt Nam khoảng 78 triệu ngời, cơ cấu dân trẻ, số ngời lao
động trong độ tuổi lao động chiếm phần lớn dân số - khoảng 46 triệu ng ời. Hàng
năm, lực lợng lao động tăng tự nhiên khoảng 1,2 triệu ngời. Tuy nhiên, số ngời

lao động thuộc diện tham gia BHXH chỉ đạt 60% lực lợng lao động. Nh vậy, còn
40% lực lợng lao động cha đợc tham gia BHXH, cũng có nghĩa là cuộc sống của
những ngời này cha đợc đảm bảo bằng chế độ BHXH và có sự không công bằng
giữa những ngời lao động. Mặt khác, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII
cũng nêu rõ chủ trơng của Đảng là mở rộng chế độ BHXH đối với ngời lao động

25


×