Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng, xu thế của quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.12 KB, 34 trang )

GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường

LỜI MỞ ĐẦU
Ở các nước có thị trường Bảo hiểm- ngân hàng phát triển mạnh trên thế
giới như Đức, Pháp, Tây Ban Nha…hoạt Trong sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế toàn cầu ngày nay có sự đóng góp không nhỏ của thị trường tài
chính tín dụng nói chung, đặc biệt là sự đóng góp ngày càng to lớn của 2
ngành tài chính- dịch vụ Ngân hàng, Bảo hiểm nói riêng. Theo xu hướng vân
động chung của thế giới, sự giao thoa giữa các ngành tài chính dịch vụ ngày
càng trở nên phổ biến. Điển hình phải kể tới là sự xích lại gần nhau hơn của
hệ thống ngân hàng-bảo hiểm. - đó là sự liên kết trong hoạt động kinh doanh
giữa hai lĩnh vực theo hướng tạo ra sự thuận tiện nhất cho khách hàng khi sử
dụng dịch vụ.
động liên kết đã trở nên rất phổ biến. Nó được coi là kênh phân phối sản
phẩm hàng đầu của các doanh nghiệp bảo hiểm và đóng góp chủ yếu vào
doanh thu phí của thị trường.
Ở những thị trường Bảo hiểm còn chưa phát triển mạnh như Việt Nam
hiện nay. Hoạt động liên kết còn khá mới mẻ, chưa được thị trường áp dụng
rộng rãi và mức đóng góp vào thị trường còn hạn chế. Tuy nhiên, trước xu thế
mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, khi thị trường
bảo hiểm đang đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt nó đòi hỏi các
doanh nghiệp bảo hiểm phải có sự thay đổi trong chiến lược Marketing, đặc
biệt là chiến lược kênh phân phối phù hợp hiệu quả. Từ thành công của các
nước trên thế giới, có thể khẳng định: Bán bảo hiểm qua ngân hàng sẽ là một
trong những kênh phân phối hiệu quả, thúc đẩy bán hàng và doanh thu phí
bảo hiểm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng mà Chính phủ Việt Nam đặt ra cho
các công ty bảo hiểm trong nước.
Xuất phát từ thực tế này và qua quá trình học tập, tìm hiểu về ngân hàngbảo hiểm, em đã quyết định chọn đề tài “Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng, xu
thế của quá trình hội nhập” cho đề án môn học của mình. Mặc dù đã có nhiều
1



GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
cố gắng trong quá trình tìm hiểu, song do đây là một đề tài khá mới, thời gian
và trình độ còn hạn chế nên đề án không thể tránh khỏi những điểm còn
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của cô
để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo TS. Nguyễn
Thị Hải Đường đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Linh

2


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường

PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. LIÊN KẾT BẢO HIỂM - NGÂN HÀNG LÀ XU HƯỚNG TẤT YẾU
1. Sự cần thiết phải liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng
Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là một xu hướng tất yếu vì:
Do nhu cầu về dịch vụ tài chính một cửa và sự thay đổi nhu cầu của
khách hàng. Chẳng hạn, khách hàng có thể mua bảo hiểm ngay tại Ngân hàng
hoặc có thể sử dụng hợp đồng bảo hiểm để vay vốn ngân hàng, hoặc có thể
nộp phí cho các hợp đồng bảo hiểm thông qua hệ thống Ngân hàng: Thẻ
ATM, thẻ tín dụng …
Do nhu cầu đầu tư của khách hàng chuyển từ sản phẩm tiết kiệm đơn
giản sang sản phẩm phức tạp
Do tác động của cạnh tranh làm giảm biên lợi tức của Ngân hàng cũng
như của Doanh nghiệp Bảo hiểm, điều này đòi hỏi Ngân hàng và các Doanh
nghiệp Bảo hiểm phải đa dạng hoá các kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm

để tạo thêm lợi nhuận, năng suất để tạo ưu thế cạnh tranh đặc biệt là các công
ty gia nhập sau. Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng sẽ giúp thực hiện được điều
này.
Do yêu cầu tiết kiệm chi phí hoạt động
Chính sách tự do hóa hoạt động tài chính và xu hướng phi trung gian hóa
dẫn tới sự giao thoa giữa Bảo hiểm và Ngân hàng
2. Các khái niệm liên quan
2.1 Khái niệm Bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, mặc dù đã rất cố gắng để đề phòng nhưng con người vẫn luôn
gặp phải những rủi ro bất ngờ.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các rủi ro
nhưng bất kể do nguyên nhân nào những rủi ro này thường dẫn đến những tổn
thất không thể lường trước được.Đó có thể là những thiệt hại về giảm thu
nhập, phá hoại nhiều tài sản, ngưng trệ sản xuất và kinh doanh, đó có thể liên
3


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
quan đến sức khỏe tính mạng của con người…và làm ảnh hưởng đến đời sống
xã hội nói chung. Để khắc phục hậu quả, từ xa xưa đến nay người ta đã sử
dụng nhiều bịên pháp như : tự tích luỹ, đi vay, hình thành các quỹ tương hỗ…
và dần dần xuất hiện một hình thức mới đó là bảo hiểm. Như vậy, xuất phát từ
mục đích hình thành một loại quỹ tài chính tập trung nhằm hỗ trợ cho những
người không may gặp một loại rủi ro tương tự nhau mà bảo hiểm ra đời.
Nhưng cho đến nay, người ta chưa xác định được chính xác thời điểm bảo
hiểm ra đời cũng như đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác về bảo hiểm.
Tuỳ theo từng khía cạnh và theo từng quan điểm người ta đưa ra các khái
niệm khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm sau đây được cho là mang tính chung
nhất của bảo hiểm : “ Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết
bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong

trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia
phải nộp một khoản phí nhất định cho chính anh ta hay cho người thứ ba”.
Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm
bằng cách nộp một khoản phí để hình thành nên quỹ dự trũ. Khi người tham
gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc
bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo
hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm
2.2 Khái niệm Ngân hàng
Ngân hàng là loại tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh
tiền tệ , dịch vụ ngân hàng.căn cứ tính chất , mục tiêu hoạt động có
các loại :
+ Ngân hàng thương mại
+ Ngân hàng đầu tư , phát triển
+ Ngân hàng chính sách
+ Ngân hàng hợp tác

4


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
2.3 Khái niệm Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng
Từ khi ra đời cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau về liên kết Bảo hiểm
– Ngân hàng:
Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là sự phân phối các sản phẩm của Bảo
hiểm qua hệ thống Ngân hàng, đây là khái niêm được sử dụng khi liên kết
Bảo hiểm – Ngân hàng ra đời, và nó đã và đang là đặc điểm chính của liên kết
này. Mặc dù vậy nó không phải là đặc trưng duy nhất.
Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng là một chiến lược được các công ty Bảo
hiểm và các Ngân hàng sử dụng nhằm nâng cao hoạt động của mình trong thị
trường tài chính theo cách thức hợp nhất dịch vụ ở mức độ nào đó. Theo cách

hiểu này nó mang nghĩa theo một bên, tức là nó ra đời chỉ do ý chí chủ quan
của một tổ chức là Công ty Bảo hiểm hoặc Ngân hàng mà thôi, chưa bao hàm
được sự hợp tác.
Liên kết Bảo hiểm Ngân hàng là việc cung cấp sản phẩm Bảo hiểm và
Ngân hàng thông qua hoặc cùng cơ sở khách hàng( Munich Re ).
Từ các khái niệm trên, liên kết Bảo hiểm Ngân hàng có thể hiểu một
cách đơn giản nhất theo hai khía cạnh chủ yếu là: sự phân phối các sản phẩm
Bảo hiểm của các Ngân hàng và sự phân phối các dịch vụ tài chính ngân hàng
của các công ty Bảo hiểm.
3. Tác dụng liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng
Bảo hiểm Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng ra đời như một yếu tố tất yếu
khi mà thị trường phát triển. Và tác dụng của nó mang lại lợi ích cho cả Công
ty Bảo hiểm, Ngân hàng và khách hàng. Cụ thể là:
Tạo ra nguồn khách hàng mới , cơ hội cho các sản phẩm mới và tiết kiệm
được chi phí nhờ quy mô lớn , chia sẻ nguồn dữ liệu về khách hàng.Mở rộng
được mạng lưới khai thác, thực hiện đa dạng hoá kênh phân phối sản phẩm,
làm cho hiệu quả khai thác ngày càng cao hơn. Có thể thấy, những khách
hàng của ngân hàng là những khách hàng tiềm năng lớn đối với các Công ty
bảo hiểm vì họ thường có thu nhập trung bình khá trở lên và ít nhiều có thói
5


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
quen sử dụng dịch vụ tài chính. Còn khách hàng của các công ty Bảo hiểm là
thường là các cá nhân , tổ chức , doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, có nguồn
vốn nhàn rỗi hoặc đang hoạt động trên thị trường tài chính và đối mặt với
nhưng rủi ro vì vậy nhu cầu của họ về các dịch vụ tài chinh là rất lớn, đặc biệt
là nhu cầu về vốn. Vì vậy đây cũng là nguồn khách tiềm năng lớn của Ngân
hàng.
Có thêm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, qua đó tăng cường khả năng

cạnh tranh của mình, tăng khả năng duy trì khách hàng và thu hút hơn nhiều
khách hàng mới sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng
doanh thu từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng mua bảo
hiểm. Tăng thu nhập không phải từ lãi thông qua việc thu phí các dịch vụ
ngân hàng (phí chuyển khoản, ATM, thẻ tín dụng…), cho thuê mặt bằng giao
dịch, hoa hồng từ bán bảo hiểm…
Khách hàng được sử dụng các dịch vụ tài chính “trọn gói” với chi phí
thấp hơn và thuận tiện hơn. Khách hàng có thể quản lý rủi ro tốt hơn và hoạch
định tài sản hiệu quả hơn. Đồng thời, khách hàng có thể được hưởng các dịch
vụ gia tăng khác. Bên cạnh đó, khi mua bảo hiểm tại ngân hàng, khách hàng
có thể có thêm niềm tin vì có thêm một người nữa để “bảo lãnh uy tín” cho
Công ty bảo hiểm. Khách hàng cũng có thể được hưởng lợi từ chính sách ưu
đãi thuế của Nhà nước.
Sự liên kết giữa Bảo hiểm và Ngân hàng sẽ tạo ra một liên minh tài chính
vững mạnh, năng động tạo thành kênh huy đông vốn hữu hiệu cho nền kinh
tế. Một trong những đặc thù riêng của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm là “ sự
đảo ngược chu kỳ sản xuất kinh doanh ’’. Việc tiêu thụ sản phẩm dựa theo
quy trình : Phí Bảo hiểm – tiền bán sản phẩm Bảo hiểm được thu trước, còn
cam kết bồi thường , trả tiền bảo hiểm – giá trị sử dụng của sản phẩm chỉ
được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định nào đó.Như vậy từ phí bảo
hiểm , các DNBH có trong tay một quỹ tài chính rất lớn. Nhưng quỹ này sẽ
không được sử dụng dể bồi thường , chi trả hết ngay , nên DNBH có thể sử
6


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
dụng lượng “ tiền nhàn rỗi “ này để đầu tư. Những DNBH trở thành những
khách hàng lớn của Ngân hàng.Sự tham gia của DNBH trong lĩnh vực huy
động vốn cũng tạo ra một sức ép không nhỏ cho các Ngân hàng. Hơn thế
nữa , cùng với quá trình phát triển của mình , các Ngân hàng cũng ngày càng

nhận thức được những rủi ro mà mình có thể gặp phải vì thế họ cũng trở thành
những khách hàng quen thuộc của các DNBH. Chính những lí do trên đã làm
cho mối liên kết giữa Bảo hiểm và Ngân hàng ngày càng chở nên chặt chẽ
4.Các mô hình liên kết
4.1 Mô hình Công ty Bảo hiển trong Ngân hàng:
Là mô hình các Công ty Bảo hiểm được thành lập bởi các Ngân hàng
mà Ngân hàng này trước đó đã tham gia phân phối sản phẩm bảo hiểm cho
một hoặc một số công ty Bảo hiểm khác trên thị trường. Sau khi thành lập thì
nó hoạt động như một công ty Bảo hiểm thông thường, hạch toán độc lập với
Ngân hàng mẹ.
4.2 Mô hình Ngân hàng trong các Công ty Bảo hiểm :
Các Công ty Bảo hiểm lớn, tiềm lực tài chính mạnh hoạt động trong một
phạm vi rộng, có nhiều chi nhánh, mạng lưới rộng khắp thương có xu hướng
thành lập các Ngân hàng trực thuộc, và ngân hàng sẽ là một trong những công
ty thành viên của Công ty Bảo hiểm. Hoạt động của các Ngân hàg này như
một Ngân hàng thương mại thông thường, nhưng trước hết tập trung phục vụ
nhu cầu tín dụng, các dịch vụ thanh toán … cho bản thân Tập đoàn Bảo hiểm,
sau đó mới hướng đến khách hàng ngoài hệ thống.
4.3 Mô hình Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác thành lập các công ty liên
doanh:
Công ty liên doanh là nơi mà cả hai bên Ngân hàng và Bảo hiểm đều
phải góp vốn và chia sẻ trách nhiêm quản lý. Bên nào chiếm nhiều ưu thế hơn
sẽ chịu trách nhiệm điều hành liên doanh.

7


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
4.4 Mô hình Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm,
dịch vụ liên kết:

Mô hình này tập trung và thiết kế các sản phẩm, cải thiện, mở rộng các
kênh phân phối sản phẩm Bảo hiểm.
Bancassurance là việc ngân hàng và Công ty bảo hiểm hợp tác với nhau
để phát triển và phân phối một cách hiệu quả các sản phẩm ngân hàng và bảo
hiểm thông qua việc cung cấp các sản phẩm cho cùng một cơ sở khách hàng.
II. MỤC ĐÍCH CÁC SẢN PHẨM LIÊN KẾT NGÂN HÀNG – BẢO
HIỂM

Giúp cho công ty Bảo

hiểm tiết kiệm được rất nhiều chi phí như: thiết lập văn phòng, khâu thanh
toán, khâu đào tạo… Do có thể sử dụng hệ thống cung cấp dịch vụ của Ngân
hàng, và đội ngũ nhân viên của Ngân hàng thương có trình độ cao, am hiểu về
tài chính.
Tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường trong việc sử
dụng uy tín và thương hiệu của ngân hàng, vì trên thực tế hệ thống ngân hàng
thường có uy tín rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội.
Bán các sản phẩm ngân hàng cho khách hàng tham gia bảo hiểm, qua
đó giúp giảm thiểu rủi ro phát sinh từ việc giao dịch bằng tiền mặt, giải quyết
tốt bài toán thu phí, thanh toán quyền lợi bảo hiểm bằng tiền mặt. Đối với các
nước mà người dân có thói quen sử dụng tiền mặt cao như ở Việt Nam, điều
này rất có ý nghĩa. Thực tế cho thấy, các Công ty bảo hiểm chịu rủi ro lớn
trong việc quản lý tiền mặt trong quá trình thu phí, giải quyết quyền lợi bảo
hiểm (mất cắp, tiền giả, nhầm lẫn…) và giải quyết bài toán rất lớn về tổ chức
lực lượng thu phí bảo hiểm. Rõ ràng, liên kết Bảo hiểm - Ngân hàng giúp
giảm bớt sự lệ thuộc của Công ty bảo hiểm vào hệ thống đại lý và môi giới.
III. LIÊN KẾT NGÂN HÀNG – BẢO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI
1. Liên kết bảo hiểm ngân hàng trên thế giới
1.1 Sự ra đời của liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng trên Thế giới


8


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng lần đầu tiên xuất hiện chính thức ở Pháp
vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, nó ra đời như là một kết quả tất yếu của
hàng loạt sự thay đổi các yếu tố kinh tế - xã hội. Lúc này nền kinh tế của các
nước phát triển có sự thay đổi rất lớn, đặc biệt là sự thay đổi thường xuyên
của lãi suất, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế phương tây bị khủng hoảng.
Từ sự biến động lãi suất đó, các sản phẩm bảo hiểm truyền thống có các yếu
tố tính phí cố định không còn phù hợp ở cả dưới góc độ khách hàng và công
ty Bảo hiểm. Xét về phía Công ty Bảo hiểm, khi lãi suất đầu tư luôn biến
động để đảm bảo thu được lợi nhuận và chi trả cho khách hàng thì các Công
ty Bảo hiểm phải sử dụng lãi suất kỹ thuật để tính phí hết sức thận trọng, vì
thế phí bảo hiểm luôn có xu hướng tăng lên. Nếu công ty Bảo hiểm sử dung
lãi suất kỹ thuật để tính phí cao thì họ sẽ chiu thiệt khi lãi suất giảm xuông
quá thấp. Xét từ phía khách hàng, lãi suất biến động cũng ảnh hưởng nhiều
đến khả năng mua các sản phẩm Bảo hiểm của họ, vì họ không còn ưa thích
các sản phẩm truyền thống với lãi suất cố định, họ muốn nhận được nhiều hơn
khi lãi suất tăng, và họ quan tâm nhiều hơn đến yếu tố đầu tư của sản phẩm
Bảo hiểm nhân thọ, một yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất Ngân hàng.
Công ty Bảo hiểm trực thuộc Ngân hàng lần đầu tiên được thành lập tại
Pháp và giữa những năm 1980 với việc kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ. Đến đầu năm 1990, thế giới chứng kiến sự xâm nhập chính thức của
các công ty này vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ cũng ở thị
trường Pháp. Ở Pháp, với chỉ khoảng 5 năm chính thức hoạt động nhưng đến
năm 1990 các công ty Bảo hiểm trực thuộc Ngân hàng đã chiếm 39% thị phần
phí thu, đến năm 2000 tỷ trọng này là 61%, số lượng Công ty Bảo hiểm trực
thuộc Ngân hàng không ngừng tăng lên theo thời gian.
Với mô hình công ty bảo hiểm thành lập ngân hàng thì trên thế giới có

thể kể tên một số Ngân hàng như: tại Nhật Bản có Ngân hàng Ashasi trực
thuộc Công ty Bảo hiểm nhân thọ Daido, ở Hàn Quốc có Công ty Bảo hiểm

9


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
nhân thọ TongYang Life với Ngân hàng trực thuộc Kookmin… Tất cả các
Ngân hàng này đều đạt doanh thu phí Bảo hiểm rất cao.
Ngân hàng và Bảo hiểm hợp tác thành lập công ty liên doanh, tại châu Á
mô hình này chiếm 17% trong số các loại mô hình kiên kết Ngân hàng - Bảo
hiểm. Tại khu vực châu Mỹ La Tinh, đây lại là hình thức đầu tiên khi xuất
hiện liên kết Ngân hàng và Bảo hiểm. một liên doanh sẽ được hình thành bởi
một Ngân hàng địa phương và một công ty Bảo hiểm nước ngoài, phát triển
và hình thành theo mô hình công ty cổ phần. Và hầu như là các Ngân hàng
chiếm quyền điều khiển liên doanh.
Hình thức đầu tiên trong liên kết giữa Ngân hàng và Bảo hiểm là Ngân
hàng và Bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm và dịch vụ liên kết. Mô
hình này, tại thị trường châu Á chiếm 69% tổng các hình thức liên kết.
1.2 Thị trường bảo hiểm nhân thọ Châu Âu:
+ Thị trường bảo hiểm nhân thọ Đức:
Đức là thị trường bảo hiểm lớn, đứng hàng thứ tư trên thế giới và các nhà
bảo hiểm nhân thọ Đức có vẻ chuộng kênh phân phối “Bán bảo hiểm qua
ngân hàng”
Kênh phân phối
Kênh truyền thống
Kênh ngân hàng
Kênh trực tiếp
Bảng số liệu năm 2002


Tỷ trọng (%)
72
23
05

+ Thị trường bảo hiểm nhân thọ Pháp:
Pháp là thị trường bảo hiểm lớn, đứng hàng thứ năm trên thế giới (sau
Đức) và các nhà bảo hiểm nhân thọ Pháp phát triển kênh phân phối “Bán bảo
hiểm qua ngân hàng” rất tốt (năm 1990 tỷ trọng chiếm 39% thì năm 2000 đã
là 60%).
Kênh phân phối
Kênh truyền thống
Kênh ngân hàng

Tỷ trọng (%)
34
60
10


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Kênh trực tiếp
Bảng số liệu năm 2001

06

+ Thị trường bảo hiểm nhân thọ Ý:
Thành công vượt bậc của các nhà bảo hiểm Ý trong việc phát triển kênh
“Bán bảo hiểm qua ngân hàng” là đưa tỷ trọng doanh thu kênh phân phối này
từ 3% (năm 1990) lên 70% (năm 2002).


Kênh phân phối
Kênh truyền thống
Kênh ngân hàng
Kênh trực tiếp
Bảng số liệu năm 2002

Tỷ trọng (%)
30
70
0

1.2 Thị trường bảo hiểm nhân thọ Châu Á:
Trong những năm gần đây hầu hết các nhà bảo hiểm châu Á đều nổ lực
phát triển kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng”. Tuy kết quả đạt được không
bằng các nhà bảo hiểm châu Âu, nhưng nhìn chung rất khả quan (Nhật Bản một ví dụ điển hình), là một trong những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng phí bảo
hiểm nhân thọ ở châu Á sau đợt khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã ảnh hưởng
không nhỏ đến thị trường bảo hiểm.
Tỷ trọng đơn bảo hiểm được cung cấp bởi kênh “Bán bảo hiểm qua ngân
hàng” ở một số quốc gia châu Á chiếm khoảng 5% - 10%. Riêng Hàn Quốc
sau 2 tháng đẩy mạnh phát triển kênh “Bán bảo hiểm qua ngân hàng”, số đơn
bảo hiểm nhân thọ được bán ra đã tăng gấp 3 lần so mức bình quân những
tháng trước đó.
Hiện nay, liên kết Bảo hiểm – Ngân hàng đang rất phát triển trên thế giới và
đặc biệt là ở Pháp, tỷ lệ phí thu qua các liên kết Ngân hàng - Bảo hiểm ở Pháp
là 70% tổng phí thu, tỷ lệ này ở Hongkong là 45% và ở Singapore là 18%...
2. Kinh nghiệm đối với Việt Nam
11



GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Năm 2008 chứng kiến sự thay đổi trong quá trình liên kết Bảo hiểm Ngân hàng. Tuy vậy Thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển liên kết
Bảo hiểm – Ngân hàng một cách chính quy, chuyên nghiệp. Qua kinh nghiệm
triển khai của các nước trên thế giới có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt
Nam :
Đa số khách hàng là người dân Việt Nam đều chưa có thói quen mua bán
trao đổi hàng hoá, nhất là hàng hoá, dịch vụ vô hình (chẳng hạn sản phẩm bảo
hiểm) qua điện thoại và qua mạng internet. Chưa có thói quen sử dụng các
dịch vụ ngân hàng không liên quan đến tiền mặt như rút tiền hoặc thanh toán
bằng thẻ tín dụng cá nhân, mở tài khoản cá nhân. Ngoài ra, tại Việt Nam,
trong các tầng lớp dân cư cũng chưa hình thành nên thông lệ vay tiền ngân
hàng để mua trả góp nhà hoặc ôtô.
Trong nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ đa số khách hàng là cá nhân, khi
tham gia bảo hiểm nhân thọ chưa quan tâm đến yếu tố rủi ro, lại tập trung vào
yếu tố tiết kiệm (lãi suất) trong bảo hiểm nhân thọ. Hiện tại, Nhà nước Việt
Nam chưa có nhiều chính sách ưu đãi cho các công ty bảo hiểm nên các công
ty bảo hiểm khó cạnh tranh với ngân hàng về lãi suất. Điều này có nghĩa là,
cùng một số tiền đóng cho công ty bảo hiểm hoặc gửi ngân hàng thì lãi suất
tiền gửi của ngân hàng bao giờ cũng cao hơn lãi suất đầu tư của công ty bảo
hiểm. Vì thế các sản phẩm bảo hiểm liên kết mang tính chất nhân thọ khó có
khả năng cạnh tranh với các sản phẩm Ngân hàng. Để giải quyết vấn đề này
cần có sự can thiệp của Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho các công ty Bảo
hiểm, đồng thời các công ty bảo hiểm cũng cần tăng cường khả năng cạnh
tranh cũng như làm tốt công tác tuyên truyền, quảng bá cho các sản phẩm của
mình
Một số ngân hàng chưa tin tưởng vào sự thành công liên kết bảo hiểm
qua ngân hàng nên “kiên quyết” bảo mật cơ sở dữ liệu khách hàng của mình
khiến công ty bảo hiểm không thể sử dụng khi bán bảo hiểm qua ngân hàng.

12



GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Đây là một rào cản lớn cho quá trình liên kết mà muốn thực hiện thành công
doanh nghiệp Bảo hiểm phải vượt qua.
Sau khi triển khai liên kết , cần phải thiết kế được những sản phẩm đơn
giản mang lại hiệu quả cao.Ngoài ra một trong những đặc trưng của liên kết
Bảo hiểm – Ngân hàng là tạo ra một kênh phân phối mới, để phát triển bền
vững phải giải quyết được các mâu thuẫn giữa kênh bán hàng mới này với
những kênh bán hàng cũ, chẳng hạn như kênh bán hàng qua đại lý.
Bán bảo hiểm qua ngân hàng thực hiện dưới hình thức như ngân hàng
điện tử (e-banking), gửi thư trực tiếp (direct mail), điện thoại (telemarketing),
tin nhắn điện thoại di động (mobile sale)… Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam,
các chi phí bưu chính viễn thông còn cao, như cước phí điện thoại di động.
Đây cũng là một khó khăn làm chậm tiến trình phát triển của Liên kết Bảo
hiểm – Ngân hàng tại Việt Nam.

13


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường

PHẦN HAI : THỰC TRANG LIÊN KẾT BẢO HIỂM NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT
ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ ĐẶC BIỆT LÀ NGÂN HÀNG ,BẢO HIỂM
1. Điều kiện kinh tế chính trị xã hội
+ Về dân số và nhu cầu đào tạo: Hiện nay dân số Việt Nam là 85 triệu
người-

đứng hàng thứ 13 trên thế giới, với mức tăng hàng năm khoảng 1


triệu người. Điểm đáng chú ý, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với 52 triệu
người trong độ tuổi lao động, chiếm hơn 60% tổng dân số; tuổi thọ trung bình
không ngừng được cải thiện (từ 50 tuổi trong những năm 1960 tăng lên 65,2
tuổi năm 1995 và 71,3 tuổi vào năm 2005). Với dân số trẻ cùng với truyền
thống hiếu học cộng với yêu cầu rất lớn về nguồn nhân lực có trình độ cao sau
khi Việt Nam hội nhập vào kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu đào tạo của Việt
Nam ngày càng cao, đặc biệt là nhu cầu đào tạo chất lượng cao cả ở trong và
ngoài nước kéo theo yêu cầu tài chính cho đào tạo ngày càng lớn.
+ Về kinh tế: Từ khi thực hiện chính sách “đổi mới”, nền kinh tế Việt
Nam đã có sự tiến bộ vượt bậc và theo dự đoán Việt Nam tiếp tục đạt được
tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong thời gian tới (dự báo trên 7%/năm);
đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Theo dự báo của Ngân hàng Thế
giới năm 2010 GDP/người sẽ đạt 1.000 USD, và hơn thế nữa, người Việt
Nam có truyền thống tiết kiệm và có mức tiết kiệm/thu nhập vào hàng cao
nhất thế giới. Đáng chú ý, sự phát triển kinh tế đã làm cho tầng lớp trung lưu
ngày càng đông đảo, tạo ra nhu cầu cao về bảo hiểm nhân thọ. Xin nhắc lại, tỷ
trọng người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ hiện nay ở Việt Nam mới chỉ
chiếm 4,5% dân số (trong khi ở Nhật Bản tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm
nhân thọ là 90%, Singapore 50%, và ngay tại Indonesia tỷ lệ này cũng trên

14


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
10%) và số tiền tiết kiệm được người dân dùng mua bảo hiểm nhân thọ mới
chiếm 3,45% tổng số tiền tiết kiệm trong khu vực dân cư.
Nhu cầu hoạch định kế hoạch tài chính và độc lập tài chính ngày càng
cao hơn. Theo đà phát triển kinh tế - xã hội và sự hình thành gia đình hạt nhân
(bố mẹ và con), làm cho nhu cầu hoạch định tài chính và nhu cầu độc lập tài

chính ngày càng cao, nhằm tạo lập một cuộc sống ổn định, tự chủ và có mức
hưởng thụ cao. Chẳng hạn, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” của người
Việt Nam đến nay đã có nhiều thay đổi, đặc biệt ở các thành phố lớn. Các cá
nhân đã quan tâm nhiều hơn đến nguồn tài chính khi nghỉ hưu, hết sức lao
động để có thể sống độc lập về tài chính, không phải lệ thuộc hoặc dựa vào
con cái, người thân
+ Về hệ thống an sinh xã hội
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế của Việt Nam chưa hoàn
thiện. Theo một nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế, đến nay mới chỉ
có khoảng 11% dân số Việt Nam, chủ yếu thuộc khu vực kinh tế nhà nước và
công chức được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của nhà nước. Đáng chú ý, thu
nhập từ tiền lương bảo hiểm xã hội ngày càng không đáp ứng nhu cầu cuộc
sống ngày càng cao và sự tăng giá tiêu dùng. Thực trạng trên tạo cơ sở cho sự
phát triển của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí. Trên thực tế, ở Việt Nam đã
hình thành một số quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện, như bảo hiểm hưu trí của
nông dân
Tương tự bảo hiểm xã hội, hệ thống bảo hiểm y tế cũng trong tình
trạng bất cập. Cụ thể, đến nay chỉ có khoảng gần 20% dân số được bảo vệ bởi
bảo hiểm y tế, trong đó chủ yếu là người nghèo và học sinh (với chính sách hỗ
trợ của Nhà nước). Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm y tế còn khá hẹp, còn có
sự phân biệt trong điều trị giữa bệnh nhân hưởng bảo hiểm y tế và bệnh nhân
dịch vụ. Tuy nhiên trên thực tế, phần lớn bệnh nhân có bảo hiểm y tế và thuộc
tầng lớp trung lưu trở lên khi khám chữa bệnh đều không sử dụng quyền lợi
từ bảo hiểm y tế để được tiếp cận chất lượng dịch vụ y tế cao hơn. Thực trạng
15


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
này cũng là cơ sở cho sự ra đời của các sản phẩm bảo hiểm y tế, đặc biệt cho
tầng lớp có thu nhập từ trung bình trở lên

+ Sự phát triển của thị trường tài chính một mặt cho phép nâng cao hiệu
quả đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời tạo là cơ sở cho sự ra đời
của các sản phẩm bảo hiểm gắn với đầu tư, tích hợp sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ với các sản phẩm bảo hiểm tài chính khác (chẳng hạn, có thể kết hợp sản
phẩm bảo hiểm với các sản phẩm tín dụng ngân hàng…). Bên cạnh đó, sự lên
xuống của thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy nhu cầu uỷ
thác đầu tư cho nhà đầu tư chuyên nghiệp (chẳng hạn, các quỹ đầu tư) ngày
càng cấp thiết, tạo tiền đề cho sự phát triển của sản phẩm liên kết đơn vị (unit
Linked)
+ Về quản lý nhà nước : sự ủng hộ của Nhà nước Việt Nam mạnh mẽ
đối với sự phát triển của thị trường thông qua việc tạo môi trường pháp lý,
môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành cũng như thực thi chính sách hội
nhập nhằm tiếp thu công nghệ kinh doanh, công nghệ quản lý tiên tiến cho sự
phát triển của ngành
Từ những phân tích ở trên một lần nữa có thể khẳng định rằng, trong
thời gian tới cơ hội phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam là rất lớn tuy
nhiên cũng đi cùng là những thách thức không nhỏ. Để thành công, doanh
nghiệp cần có chiến lược sản phẩm, phân phối và công nghệ phù hợp.
2 Cam kết của Việt Nam
2.1 Một số cam kết của Việt Nam khi ra nhập WTO
+ Doanh nghiệp Bảo hiểm tại nước ngoài được phép cung cấp vào Việt
Nam các dịch vụ bảo hiểm cho các Doanh nghiệp Bảo hiểm có vốn đầu tư
nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra họ còn được cung
cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới Bảo hiểm, tư vấn, tín toán,
đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam.
+ Cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn ĐTNN kể từ khi gia
nhập và không bị hạn chế về số lượng chi nhánh trong nước, phạm vi cung
16



GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
cấp dịch vụ và bỏ quy định tái bảo hiểm 20% cho Công ty Tái bảo hiêm Việt
nam (Vinare).
+ Doanh nghiệp Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài kể từ ngày 1 tháng 1
năm 2008 sẽ được kinh doanh loại hình bảo hiểm bắt buộc tại Việt Nam như
bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm người kinh doanh vận
tải hành khách và hàng dễ cháy nổ trên đường thủy nội địa, tới đây là bảo
hiểm cháy nổ, bảo hiểm người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế…
Cho phép thành lập chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài sau 5
năm đối với dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
Theo cam kết trên có thể hiểu Doanh nghiệp Bảo hiểm liên doanh và Bảo
hiểm nhân thọ không bị hạn chế đối xử quốc gia ( Doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam làm gì thì họ được làm cái đó ).
2.2 Tác động của cam kết đối với hoạt động của thị trường
Theo đánh giá sơ bộ việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về
cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của
ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong
nước thể hiện qua các điểm như:
Môt là, việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc
biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hoá và khiến thị trường
sôi động hơn. Sự tham gia của công ty có vốn đầu tư nước ngoài góp phần
thức tỉnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước; đồng thời, phá vỡ thế độc
quyền bằng việc gia tăng nhanh chóng số lượng nhà cung cấp dịch vụ, đẩy thị
trường bảo hiểm tiến gần hơn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh; kích
thích việc mở rộng danh mục sản phẩm, giúp ngành bảo hiểm thực hiện tốt
hơn chức năng huy động vốn và bảo vệ các đối tượng trong nền kinh tế trước
rủi ro.
Hai là , mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức
và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các
công ty bảo hiểm trong nước. Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện

17


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
tiếp thu ở một mức độ nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành
của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh lớn hơn
buộc các công ty bảo hiểm trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và
chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm
tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo
hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và
khả năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thể hiện rõ nét ở những điểm
sau:
+ Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất
ở mọi nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường.
+ Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn
ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng
nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công
ty bảo hiểm. Do đó, nếu các công ty bảo hiểm trong nước không có những
điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới sẽ bị mất lợi
thế quan trọng trước các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.
+ Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép
đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo
quyền lợi người tiêu dùng ; khả năng giải quyết tranh chấp ; thị trường bị chia
cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ
thống
+ Về khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý Nhà nước, các quy định
điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiên hành về cơ bản đã khá hoàn
chỉnh, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số các cam kết còn lại và

đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra
về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:

18


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Để thực hiện các cam kết, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp
của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các qui định mang tính
bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách
hàng, các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn
thiện các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ
chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể.
+ Bổ sung, sửa đổi một số qui định nhằm tăng khả năng giám sát tài
chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán,
hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn
được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát
triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập
WTO. Các qui định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều
hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát
của các cơ quan chức năng.
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị
trường, bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy
định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo
tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối
tượng liên quan (đại lý, môi giới bảo hiểm), Cần có các quy định cụ thể và
đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng
và lành mạnh trên thị trường ngành bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc
thù và nhạy cảm
II. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT BẢO HIỂM – NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

1. Mô hình Công ty Bảo hiểm thành lập các Ngân hàng
Lợi thế của các công ty bảo hiểm có ý định thành lập ngân hàng là kinh
nghiệm thị trường đã có, mạng lưới đại lý rộng khắp, năng lực tài chính đủ
mạnh - đặc biệt là nguồn vốn dài hạn – và lượng khách hàng tiềm năng lớn từ
các đối tượng tham gia bảo hiểm hiện có. Việc công ty bảo hiểm thành lập
ngân hàng là một điều hoàn toàn bình thường
19


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Trong mô hình Ngân hàng trong Bảo hiểm thì Bảo Việt là tập đoàn đi
tiên phong. Với vốn tự có khoảng 3.000 tỷ, dự trữ cũng có hàng chục nghìn tỷ
và quỹ dự phòng rủi ro, ngày 29 tháng 9 năm 2008 chính thức Thủ tướng đã
thông báo quyết định đồng ý cho phép việc thành lập Ngân hàng Bảo Việt với
mức vốn điều lệ 1500 tỷ đồng.Đây là tín hiệu tốt cho xu hướng Doanh nghiệp
Bảo hiểm thành lập Ngân hàng trực thuộc để có thể mở rộng hoạt động trong
lĩnh vực tài chính, mặc dù đang còn rất nhiều khó khăn vướng mắc. Việc
Ngân hàng Bảo Việt được thành lập đã nâng cao uy tín của Bảo Việt, đưa Bảo
Việt thành tập đoàn tài chính mạnh với sự hoạt động trên cả ba lĩnh vực tài
chính nổi bật là: Bảo hiểm, Ngân hàng và Chứng khoán.
Ngoài Bảo Việt , Bảo Minh và một số DNBH lớn khác cũng được đánh
giá là hoàn toàn có khả năng thành lập Ngân hàng trong tương lai gần.
Ngày 5 thánh 5 năm 2008 Ngân hàng Tiên Phong đã được cấp phép
thành lập, ngân hàng có vốn điều lệ 1.000 tỷ, được sáng lập bởi 3 tên tuổi lớn
trên thị trường : Công ty Cổ phần Phát triển đầu tư công nghệ (FPT), Tổng
công ty Cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE), Công ty Thông
tin di động (VMS). Ngân hàng Tiên Phong có thời gian hoạt động là 99 năm.
Theo nội dung của giấy phép thành lập và hoạt động, lĩnh vực kinh doanh của
ngân hàng này là huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và
ngân quỹ, các hoạt động khác theo quy định.

2. Mô hình Bảo hiểm trong Ngân hàng
Mọi việc có vẻ tiến triển mạnh mẽ hơn khi đã có khá nhiều các Ngân
hàng đứng ra thành lập các công ty Bảo hiểm đặc biệt là Bảo hiểm nhân thọ
bên cạnh những công ty Bảo hiểm đã có như :
+ Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tên viết
tắt BIC) ra đời trên cơ sở chiến lược thành lập Tập đoàn tài chính mang
thương hiệu BIDV thông qua việc BIDV mua lại phần vốn góp của Tập đoàn
Bảo hiểm và Tái bảo hiểm QBE (Australia) trong Liên doanh Bảo hiểm
Việt - Úc (là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được thành lập và hoạt
20


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
động tại Việt Nam từ năm 1999) và chính thức đi vào hoạt động với tên gọi
mới kể từ ngày 01/01/2006.
+ Ngày 8/8/2007, Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn (Agribank) đã chính thức ra mắt thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
Công ty cổ phần bảo hiểm Agribank có tổng vốn điều lệ 160 tỷ đồng và
các cổ đông sáng lập gồm Ngân hàng Agribank với 47,81% cổ phần, Tổng
công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia 10% cổ phần, Công ty cho thuê tài
chính I và II của Agribank mỗi công ty 6,56% cổ phần và 11 cổ đông khác.
voi số lượng trên 20.000 doanh nghiệp và trên 9 triệu hộ gia đình có quan hệ
tind dụng và thanh toán với Agribank, đây là nguồn khách hàng tiềm
năng lớn. Ông Đỗ

Minh

hoàng


-

Quyền

Giám đốc

Công

ty

bảo

hiểm Agribank tuyên bố: "Mục tiêu trong 3 năm đầu, dựa trên cơ sở khách
hàng của các cổ đông chiến lược công ty sẽ phấn đấu đạt doanh thu phí bảo
hiểm trên 150 tỷ đồng. Sau 5 năm, phấn đấu trở thành một trong top 10 của
thị trường bảo hiểm trong nước".
Ông Hoàng cho biết, ngoài những sản phẩm bảo hiểm như các doanh
nghiệp khác trên thị trường, Công ty bảo hiểm Agribank có đặc điểm riêng là
sẽ tập trung vào những sản phẩm mới phục vụ nông dân và thị trường nông
thôn như bảo hiểm cho tàu đánh bắt xa bờ, bảo hiểm con giống, gia súc.v.v. một thị phần bảo hiểm còn bị bỏ ngỏ nhưng lại là lợi thế riêng của Công ty
bảo hiểm Agribank. Điều nãy sẽ góp phần vào thực hiện chiến lược đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2010 ngành bảo hiểm đạt doanh thu
40.000 tỷ đồng, trong đó bảo hiểm nông thôn chiếm 9.000 tỷ đồng, chiếm
4,2% GDP.
+ Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội có tên viết tắt là MIC (Military
Insurance Company), thành lập 8 tháng 10 năm 2007 vốn điều lệ khi thành
lập là 300 tỷ đồng, thời hạn hoạt động là 99 năm kể từ ngày được cấp giấy
phép. Bên cạnh MB là cổ đông chính, các cổ đông sáng lập của MIC bao gồm
21



GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VP Bank), Công ty Cổ phần Hóa dầu Quân
đội, Công ty Xây dựng 319, Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, Công ty Cổ
phần Đức Hoàng, Công ty Cổ phần Thanh Bình Hà Nội…
Cùng với lĩnh vực kinh doanh chính là bảo hiểm sức khỏe và tai nạn
con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại, bảo hiểm hàng hóa, xe cơ
giới, cháy nổ, bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm cho chủ tàu; bảo hiểm tín
dụng và rủi ro tài chính…, công ty này dự kiến sẽ thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ và những dịch vụ và hoạt động đầu tư tài
chính, đầu tư bất động sản
+ Sáng 23/10/2008, tại Hà Nội, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm
nhân thọ Vietcombank Cardif (VCLI) chính thức được Bộ Tài Chính trao
giấy phép thành lập và hoạt động.
VCLI là công ty bảo hiểm nhân thọ được thành lập dựa trên cơ sở hợp
tác giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng
Đông Nam Á (SeAbank) và Công ty BNP Paribas Assurance (Cardif) - công
ty bảo hiểm nhân thọ thuộc tập đoàn tài chính hàng đầu Châu Âu BNP
Paribas - một trong 15 ngân hàng lớn nhất thế giới về tổng tài sản và qui mô
thị trường.
Với mức vốn điều lệ 600 tỷ đồng theo tỷ lệ góp vốn: VCB 45%; BNP
Paribas Assurance: 43%; SeAbank: 12%, VCLI sẽ cung cấp các sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ truyền thống và các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ gắn liền với
các hoạt động của ngân hàng.
Và còn rất nhiều các Ngân hàng đã và đang lên dự án để thành lập Công
ty bảo hiểm. Điều này chứng tỏ xu hướng này đang dược mở rộng và hứa hẹn
sẽ thành công trong tương lai.
3. Mô hình Ngân hàng ký thoả thuận phân phối sản phẩm với công ty
bảo hiểm
Một số sản phẩm liên kết Ngân hàng - Bảo hiểm ( bancassurance ) đã

được triển khai trong thời gian qua:
22


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
+ Bancassurance xuất hiện ở nước ta được đánh dấu bằng sự kiện Cty
TNHH Bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA Việt Nam) ký hợp đồng hợp tác với Ngân
hàng Hồng Kông-Thượng Hải (HSBC) vào tháng 6-2001, đến năm 2006, AIA
Việt Nam tiếp tục phối hợp với các ngân hàng Đầu tư-Phát triển (BIDV),
Công thương (Incombank), Quốc tế (VIB Bank) đưa ra sản phẩm An nghiệp
bảo tín. Theo đó, khách hàng đến những ngân hàng có quan hệ hợp tác với
AIA vay tiền có thể mua sản phẩm “An nghiệp bảo tín” để bảo đảm cho
khoản vay của mình. Nếu có rủi ro, AIA Việt Nam sẽ thanh toán cho ngân
hàng số dư còn lại của khoản vay.
+ Ngày 12/5/2005 Prudential và Ngân hàng á châu ACB đã chính thức
công bố với báo chí sản phẩm của họ: Phú Bảo Tín, Phúc An Mỹ Thành Tài.
Phú Bảo Tín là sản phẩm bảo hiểm của Prudential Việt Nam chỉ dành cho
khách hàng vay tín dụng trung và dài hạn của ACB. Đặc điểm của sản phẩm
tín dụng này là nếu người được bảo hiểm tử vong hoặc thương tật toàn bộ và
vĩnh viễn, người thụ hưởng (do người mua chỉ định) sẽ nhận được bảo hiểm
từ Prudential. Số tiền được nhận từ Công ty bảo hiểm sẽ tương ứng với số dư
nợ cần phải trả cho Ngân hàng. Như vậy, khi tham gia Phú Bảo Tín, khách
hàng sẽ yên tâm khi xảy ra rủi ro đối với bản thân, gia đình họ vẫn có khả
năng hoàn trả các khoản vay cho Ngân hàng mà không phải mất tài sản thế
chấp.Hay nói cách khác, khi khách hàng mua bảo hiểm tín dụng gặp rủi ro
không thể trả được nợ Ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ thanh toán hộ cho
khách hàng đó. Riêng với Prudential và ACB, trong vòng 3 năm qua đã có
trên 2800 hợp đồng bảo hiểm được bán ra với giá trị trên 20 tỷ đồng.
+ Sáng ngày 01/08/2006 tại Hội sở chính Ngân hàng Kỹ thương Việt
Nam (Techcombank), Techcombank và Bảo Việt Nhân Thọ long trọng tổ

chức lễ ra mắt hai sản phẩm Bancassurance là: Tài khoản Tiết kiệm Giáo dục
và Tín dụng cho Nhà mới và Ô tô xịn. Việc đưa ra thị trường 2 sản phẩm trên
là bước cụ thể hoá các nội dung trong Thoả thuận hợp tác được hai bên kí kết
ngày 28/02/2006. Theo đó, Techcombank và Bảo Việt Nhân Thọ cùng nỗ lực
23


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
hợp tác trong nghiên cứu phát triển, hoàn thiện các sản phẩm Bancassurance
nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đem lại lợi ích cho cả hai
bên. Tài khoản tiết kiệm giáo dục là một hình thức tài khoản tiết kiệm định kỳ
dài hạn bằng VND hướng tới mục tiêu tích luỹ để trang trải chi phí giáo
dục/đào tạo cho trẻ trong tương lai. Với sản phẩm Tín dụng nhà mới, ôtô xịn
khách hàng sẽ được vay tiền mua nhà, ôtô và được bảo hiểm luôn cả khoản
vay đó. Tiếp đó, ngày 8/10 Bảo việt và Techcombank giới thiệu thêm sản
phẩm thứ ba mang tên Tích luỹ bảo gia sản phẩm này là sự kết hợp giữa sản
phẩm Tích luỹ bảo gia của Techcombank và An tâm tiết kiệm của Bảo Việt
nhân thọ. Tài khoản Tích lũy Bảo gia là hình thức tài khoản tiền gửi VND có
kỳ hạn, hàng tháng khách hàng có thể nộp một số tiền nhất định để hưởng lãi
và hướng tới mục tiêu tích lũy dài hạn cho cuộc sống để đảm bảo cho khách
hàng “An tâm tận hưởng cuộc sống”. Tham gia sản phẩm này, ngoài việc
được hưởng lãi suất tiết kiệm ưu đãi, khách hàng sẽ được tặng bảo hiểm theo
sản phẩm An Tâm Tiết Kiệm của Bảo Việt Nhân thọ.
+ Ngày 11 tháng 06 năm 2007 - Tại Hội sở chính Ngân hàng TMCP Kỹ
thương Việt Nam (Techcombank), 70-72 Bà Triệu, Hà Nội, Techcombank và
Bảo Việt Nhân Thọ cùng ký kết “Phụ lục Thoả thuận hợp tác về việc liên kết
phân phối các sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng”. Trên cơ sở phụ lục này,
hai bên sẽ tiếp tục hợp tác để cùng phát triển thêm một sản phẩm liên kết Bảo
hiểm - Ngân hàng nữa mang tên Tích Luỹ Bảo Gia. Sản phẩm này là sự kết
hợp giữa hai sản phẩm tài khoản Tích luỹ Bảo Gia của Techcombank và An

Tâm Tiết Kiệm của Bảo Việt Nhân Thọ.
+ Ngày 20/11/2007, Ông Nguyễn Đức Vinh - Tổng giám đốc
Techcombank và ông Nguyễn Đức Tuấn - Tổng giám đốc Bảo Việt Nhân thọ
đã ký văn bản triển khai thêm hai sản phẩm liên kết ngân hàng – bảo hiểm
(Bancassurance) là,“Cho vay tiêu dùng trả góp” và “Cho vay trả góp mua
hàng hóa”.

24


GVHD: TS Nguyễn Thị Hải Đường
Cho vay Tiêu dùng Trả góp/Cho vay Trả góp mua hàng hóa của
Techcombank là hình thức cho vay tín chấp, không cần tài sản đảm bảo. Thời
gian vay đối với “Cho vay tiêu dùng trả góp” tối thiều là 12 tháng và tối đa là
36 tháng, đối với “Trả góp mua hàng hóa” tối đa là 24 tháng. Sử dụng hai sản
phẩm này khách hàng sẽ trả góp cố định lãi và gốc vay hàng tháng. Tiền lãi
được tính trên dư nợ vay thực tế, lãi suất được cố định trong suốt thời gian
vay.
+ Ngày 17/11/2008, Ngân hàng HSBC và Tập đoàn Bảo Việt đã chính
thức đưa ra thị trường hai sản phẩm mới là bảo hiểm tài sản và bảo hiểm nhân
sự chủ chốt dành cho các khách hàng doanh nghiệp.
Bảo hiểm tài sản giúp bảo vệ doanh nghiệp trước những mất mát hoặc
tổn thất tài sản bất ngờ xảy ra trong những tình huống rủi ro được bảo hiểm
như hỏa hoạn, trộm cắp và hư hỏng thiết bị, bên cạnh việc được bồi hoàn cho
nguồn thu nhập bị mất do việc kinh doanh bị gián đoạn.
Trong khi đó, bảo hiểm nhân sự chủ chốt được thiết kế nhằm bảo vệ một
doanh nghiệp khi xảy ra mất mát tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp: các
nhân sự chủ chốt.Thông qua việc xác định giá trị của các nhân sự quan trọng
của mình (chủ doanh nghiệp, giám đốc, kế toán trưởng...), doanh nghiệp có
thể mua sản phẩm bảo hiểm này để giảm bớt gánh nặng tài chính trong trường

hợp doanh nghiệp mất đi nhân sự chủ chốt.Trong trường hợp nhân sự chủ
chốt của doanh nghiệp không may bị bệnh hoặc tai nạn, một khoản tiền cố
định sẽ được chi trả để bồi thường và trang trải các khoản chi phí phẫu thuật,
với các lựa chọn khác nhau trong trường hợp thương tật bộ phận vĩnh viễn.
+ Từ ngày 18/6/2008, Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIC) sẽ triển khai bốn sản phẩm bảo hiểm qua kênh
Bancassurance tại gần 500 điểm giao dịch của BIDV trên toàn quốc. Bốn sản
phẩm bảo hiểm mà BIC đã phân phối qua hệ thống ngân hàng BIDV bao
gồm: bảo hiểm ôtô, bảo hiểm xe máy, bảo hiểm tai nạn con người 24/24 và
bảo hiểm nhà tư nhân. Tính đến thời điểm 31/10/2008, tổng doanh thu của
25


×