Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

pHÂN TÍCH mối QUAN hệ GIỮA CHI đầu tư PHÁT TRI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.66 KB, 28 trang )

 PHẦN MỞ ĐẦU 
Chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước là một bộ phận trong tổng
nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu
vốn đầu tư, được sử dụng vào các công trình có tính chất trọng điểm quốc gia, các công
trình có khả năng thu hồi vốn thấp, các công trình mang tính chất chiến lược dài hạn. Đây
là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn
với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ
vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu phát
triển của nền kinh tế. Nói cách khác, việc chi cho đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà
nước nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận động của
các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng trưởng.
Hiệu quả chi đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước không những là chỉ tiêu phản
ánh lợi ích về mặt kinh tế - xã hội thu được thông qua hoạt động đầu tư mà còn là chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Nhà nước. Tuy nhiên, chi đầu tư phát triển có
mối quan hệ tương quan như thế nào đến và lạm phát? Sử dụng nguồn vốn đầu tư như thế
nào để đạt hiệu quả cao nhất, kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định nhưng tỷ lệ lạm phát vừa
phải, đạt mục tiêu phát triển. Đây là vấn đề không chỉ các cơ quan chức năng Nhà nước mà
cả toàn xã hội quan tâm.
Do nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm
phát nên chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài : “Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát
triển và lạm phát”. Hy vọng để tài sẽ là một gợi ý hữu ích cho những nhà hoạch định chính
sách của Việt Nam.
Đề tài gồm 3 chương:
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 1


Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát
Chương 3: Giải pháp


----------

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Chi đầu tư phát triển
1.1 Khái niệm
Chi đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng
một phần vốn tiền tệ từ quỹ Ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển sản xuất và dự trữ vật tư hàng hóa của Nhà nước, nhằm thực hiện
mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
1.2 Nội dung chi đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước
Để phục vụ cho công tác quản lý, người ta dựa vào những tiêu thức nhất định để xác
định nội dung chi đầu tư phát triển cụ thể của NSNN như sau:
1.2.1. Dựa vào mục đích các khoản chi
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả
năng thu hồi vốn bao gồm: các công trình giao thông, các công trình đê điều, hồ đập, kênh
mương, các công trình bưu chính viễn thông, các công trình giáo dục, khoa học-công
nghệ, y tế, cơ quan nhà nước, phúc lợi công cộng…nhằm phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
- Chi đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính
của Nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 2


có sự tham gia của Nhà nước theo quy định pháp luật. Khoản chi này có vai trò dẫn dắt,

điều chỉnh và định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế.
- Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hóa vật tư dự trữ nhà nước có tính
chiến lược của Quốc gia, hoặc mang tính chất chuyên ngành. Chi dự trữ có vai trò quan
trọng để ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân khi nền kinh tế gặp những
biến cố bất ngờ.
- Chi đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước như xóa đói
giảm nghèo, trồng rừng, trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa…
1.2.2. Dựa vào tính chất của các hoạt động đầu tư phát triển
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách Nhà nước là đầu tư xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do Trung ương quản
lý.
- Các khoản chi không có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản như chi cấp vốn ban đầu,
cấp bổ sung vốn pháp định hay vốn điều lệ cho các doanh nghiệp Nhà nước; hỗ trợ các
doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, chi trợ cấp, trợ giá…
1.3. Đặc điểm của chi đầu tư phát triển
- Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn của NSNN nhưng không có tính ổn định.
Chi đầu tư phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất phục vụ
và vật tư hàng hóa dự trữ cần thiết của nền kinh tế; đó chính là nền tảng bảo đảm sự phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, đồng thời nó cũng là vốn để tạo môi trường đầu tư
thuận lợi nhằm thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước. Quy mô và tỷ trọng chi đầu tư
phát triển trong từng thời kỳ phụ thuộc vào chủ trương, đường lối phát triển kinh tế- xã
hội và khả năng nguồn vốn.
- Chi đầu tư phát triển mang tính chất chi cho tích lũy.
Chi đầu tư phát triển là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng
lực sản xuất phục vụ, tăng tích lũy tài sản của nền kinh tế quốc dân. Cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất phục vụ được tạo ra thông qua các khoản chi đầu tư phát triển của
Ngân sách Nhà nước là nền tảng vật chất bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội, làm tăng tổng sản phẩm quốc nội.
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát


Trang 3


- Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước luôn gắn liền
với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng
thời kỳ.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng kế hoạch
chi đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước trong từng thời kỳ có ý nghĩa quyết định lớn đến mức độ và thứ tự ưu tiên chi Ngân
sách Nhà nước cho đầu tư phát triển. Chi đầu tư phát triển của Ngân sách Nhà nước gắn
với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm phục vụ tốt nhất việc thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và hiệu quả chi đầu tư phát triển.
2. Lạm phát
2.1. Khái niệm
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền
kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền.
Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại
tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là
lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa
thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn
cầu.
2.2. Các loại lạm phát
- Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán
được.
- Lạm phát phi mã: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai
hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu
lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực
hiện cải cách.

Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 4


nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người
có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các
ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy
của cải.
- Siêu lạm phát: có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1) người dân
không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn
tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức
mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn
với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
2.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
- Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng
cung ở mức tòan dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ
đồ AD - AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức
giá và sản lượng cùng tăng.

Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung,
người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó, có
lạm phát.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi
giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp
chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát


Trang 5


nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm
phát do chi phí đẩy”.
- Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần
tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh
doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho
người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi
phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành
sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
- Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt
hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có
người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà
không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không
giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá
chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng
cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom
cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong
nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân
bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
- Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu
tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng
lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
- Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do
Ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so
với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm
cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.

-Lạm phát sinh ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy
lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không
ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 6


trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên => gây
ra lạm phát.
3. Mối quan hệ giữa chi đầu tư và lạm phát
● Về nguyên tắc, để một nền kinh tế hoạt động bình thường và có tăng trưởng thì
lượng tiền và mức giá hàng năm vẫn phải tăng lên ở một mức độ nào đó. Nhưng điều kiện
tiên quyết là đồng tiền phải được đưa vào những nơi sử dụng hiệu quả nhằm có được mức
tăng trưởng GDP cao, nhưng lạm phát chỉ ở mức phải chăng. Nếu không lạm phát cao là
điều tất yếu.
Trừ một số ít trường hợp có tính ngoại lệ, vốn đầu tư của khu vực tư nhân thường
hiệu quả vì hầu hết các doanh nghiệp đều vay vốn. Nếu không có được suất sinh lợi tài
chính (dựa trên suất sinh lợi kinh tế) cao hơn lãi suất vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp
sẽ mất dần phần vốn của mình và cuối cùng sẽ rơi vào tình trạng phá sản.
Đầu tư nhà nước là tối quan trọng và cần thiết vì một số dịch vụ hay cơ sở hạ tầng
thiết yếu như: giáo dục, y tế công cộng hay hạ tầng giao thông là đặc biệt quan trọng cho
một xã hội, nhưng tư nhân thường không có động cơ làm nếu không có trợ cấp của Nhà
nước vì suất sinh lợi tài chính không như mong đợi. Sự gia tăng quy mô chi tiêu công cao
cho đầu tư, nhưng không kiểm soát được hiệu quả của nguồn vốn đầu tư công; tình trạng
thất thoát, lãng phí vốn đầu tư cao, làm cho nhu cầu chi đầu tư phát triển càng gia tăng
không thực chất, cao hơn mức cần thiết.
Khi chi đầu tư phát triển cao và kém hiệu quả sẽ khiến cho Nhà nước phải vay
mượn nhiều. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lãi suất thị trường tăng
cao, đồng nội tệ bị mất giá và lạm phát tăng. Đến đây có thể thấy rằng, những khoản đầu

tư phát triển kém hiệu quả là nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát dai dẳng và
gánh nặng nợ công ngày một tăng cao. Do đó sự tồn tại mối quan hệ giữa chi đầu tư phát
triển và lạm phát là tất yếu.
● Giải thích theo kinh tế học ta có công thức tổng cầu: AD=C+I+G+X-M
Trong đó:
G: Chi tiêu chính phủ
C: Chi tiêu hộ gia đình
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 7


I: Chi tiêu đầu tư khu vực tư nhân
NX=X-M: xuất khẩu ròng
Khi chi tiêu chính phủ (G) tăng còn các yếu tố khác không đổi dẫn đến tổng cầu
(AD) tăng. Khi tổng cầu AD tăng mà tổng cung không đổi hoặc tăng ít hơn tổng cầu dẫn
đến mức giá tăng cao liên tục => gây ra lạm phát.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 8


CHƯƠNG 2:

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN VÀ LẠM PHÁT
1. Sự tồn tại của mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát
● Trong tổng chi Ngân sách Nhà nước có 4 phần chính: Chi thường xuyên, chi bổ
sung quỹ dự trữ tài chính, chi trả nợ và viện trợ và chi đầu tư phát triển. Trong đó chi đầu

tư phát triển chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi ngân sách. Vậy chi đầu tư phát triển là một
phần nhiệm vụ chi Ngân sách Nhà nước, nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chi đầu tư phát triển bao gồm hai khoản mục chính:
(1) Đầu tư trực tiếp của Chính phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu
cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học, bệnh viện...;
(2) Đầu tư gián tiếp của Chính phủ qua việc cấp vốn, vay nợ thay cho những công
ty, tập đoàn quốc doanh.
Đầu tư trực tiếp là nguồn đầu tư chính yếu trong việc xây dựng đất nước.
Đầu tư gián tiếp của Chính phủ vào các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng giúp tạo nên
những công ty công nghiệp lớn hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực và thiết
yếu của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, tham nhũng và lãng phí, đặc điểm phổ biến của
các khoản đầu tư công nào tại nhiều quốc gia, là nguyên nhân không nhỏ làm hạn chế
hiệu quả - và thành quả - của đầu tư công.
Như vậy, chính sự lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư công nói chung cũng như
chi đầu tư phát triển nói riêng đã trở thành tác nhân chính gây ra lạm phát. Hệ lụy từ việc
đầu tư phát triển kém hiệu quả cho nền kinh tế không phải là nhỏ. Nhiều nghiên cứu chỉ
ra mối quan hệ của chi đầu tư phát triển đối với lạm phát và tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng
tiền tệ, kinh tế.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 9


● Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm
tăng mức bội chi Ngân sách Nhà nước. Việc bội chi Ngân sách Nhà nước sẽ tác động đến
kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào nhiều cách bù đắp bội chi. Mỗi cách bù đắp đều làm ảnh
hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô.
- Thứ nhất, Nhà nước phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi Ngân sách Nhà nước

(mà chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân sách) sẽ làm cho
lượng cung tiền vào chi đầu tư tăng , điều đó dẫn đến giá cả các công trình sẽ tăng lên, giá
trị đồng vốn giảm đi tương ứng dẫn đến hệ quả là đồng tiền bị mất giálạm phát tăng.
Mặt khác, mặt tích cực khi Chính phủ phát hành thêm tiền để chi đầu tư phát triển sẽ
tạo được thêm công ăn việc làm cho người dân, làm tăng thu nhập xã hội, dẫn đến cầu
hàng hóa tăng, tuy nhiên khi cầu tăng cũng tất yếu làm cho giá cả hàng hóa tăng cũng sẽ
dẫn đến tăng lạm phát .
- Thứ hai, nếu Nhà nước vay nước ngoài quá nhiều, điều đó sẽ trực tiếp làm tăng
cung tiền đối với thị trường tiền tệ trong nước (lượng ngoại tệ đổ vào nhiều đòi hỏi Ngân
hàng Nhà nước phải phát hành nhiều tiền hơn để nội tệ hóa)lạm phát tăng.
- Nếu Chính phủ vay nợ quá nhiều trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ trả lãi – bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng đồng thời dẫn đến nguy cơ
lạm phát của chu kỳ sau (khi lãi suất tăng thì chính phủ sẽ phải trả lãi caolượng tiền đưa
vào lưu thông nhiều hơn).
Như vậy, chi đầu tư phát triển và lạm phát có mối quan hệ đồng biến với nhau
trong điều kiện kinh tế bình thường, thông qua các biện pháp tìm kiếm nguồn bù đắp
thâm hụt Ngân sách.
2. Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát
2.1. Sự tác động cuả chi đầu tư phát triển đến lạm phát
2.1.1 Tác động theo chiều hướng tích cực của chi đầu tư phát triển tới lạm phát
Đầu tư trực tiếp của Chính phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu
cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học, bệnh viện..là nguồn đầu tư chính
yếu trong việc xây dựng đất nước. Cơ sở hạ tầng của đất nước được nâng cấp, hiện đại
hóa, mở rộng đến tận vùng nông thôn xa xôi, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, trở thành
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 10


nền tảng vững chắc cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm suy thoái, đầu tư phát triển là nguồn lực

chính giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp, ngăn chặn sự suy giảm nhanh chóng của khối
cầu khả dụng nội địa và là đầu tàu vực dậy, lôi kéo sự tăng trưởng của các khu vực kinh tế
khác.
Bên cạnh đó, tăng đầu tư xây dựng cơ bản còn có tác động làm tích cực trong một số
trường hợp. Khi Chính phủ tăng chi tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng để tác động trực tiếp làm
tăng sản lượng của nền kinh tế cũng như hỗ trợ gián tiếp các ngành nghề kinh tế khác
phát triển thông qua hiệu ứng lan truyền, cải thiện sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa và
lượng cung tiền trong nền kinh tế. Tuy nhiên, tác động tích cực của tăng đầu tư xây dựng
cơ bản sẽ bị triệt tiêu nếu như đi kèm với nó là thâm hụt Ngân sách Nhà nước. Thâm hụt
Ngân sách Nhà nước có tác động ngay lập tức và kéo dài làm tăng lạm phát.
2.1.2 Điều chỉnh chi đầu tư phát triển để điều chỉnh lạm phát
Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục. Nghiên cứu của các nhà kinh tế dựa vào
mô hình tổng cung và tổng cầu đã chỉ ra, lạm phát có thể xảy ra do tổng cầu tăng (lạm
phát do cầu kéo) hoặc do tổng cung giảm (lạm phát do chi phí đẩy). Tăng đầu tư phát
triển và chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng làm tăng tổng cầu. Do
vậy, muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu
công, đặc biệt là chi đầu tư phát triển, chấp nhận hy sinh mục tiêu tăng trưởng trong ngắn
hạn để có được tăng trưởng cao, bền vững trong tương lai.
Tỷ trọng vốn đầu tư xã hội theo khu vực kinh tế (%)

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, ở các giai đoạn Chính phủ thực hiện cắt
giảm chi đầu tư phát triển, tỷ trọng trong tổng đầu tư toàn xã hội của khu vực nhà nước có
giảm xuống, nhường chỗ cho khu vực tư nhân. Nhưng ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế
thực thi chính sách kích cầu đầu tư, vốn đầu tư phát triển lại chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo
dõi số liệu trong khoảng 5 năm trở lại đây, về cơ bản khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng
khoảng gần 40% tổng đầu tư toàn xã hội; khu vực tư nhân khoảng 35% và FDI khoảng
25%.
2.1.3 Chi đầu tư phát triển cao dẫn tới lạm phát tăng
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát


Trang 11


Khi tăng chi Ngân sách Nhà nước để kích cầu tiêu dùng, kích thích đầu tư và tăng
đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho phép
của nền kinh tế, dẫn đến thâm hụt Ngân sách Nhà nước quá cao và để bù đắp thâm hụt
này phải đi vay từ hai nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài. Việc bù đắp thâm hụt
Ngân sách Nhà nước bằng nguồn huy động từ bên ngoài góp phần trực tiếp làm tăng cung
tiền vào thị trường trong nước (lượng tiền tệ đổ vào nhiều đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước
phải phát hành nhiều tiền hơn để nội tệ hóa). Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước phải cung
ứng một lượng tiền không nhỏ để xử lý thiếu hụt tạm thời Ngân sách Nhà nước, theo quy
định phải được hoàn trả trong năm ngân sách, nhưng trên thực tế thường không được
hoàn trả đúng hạn; phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, phát hành tiền ra để tăng vốn các
Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội. Điều đó dẫn đến sự tích
tụ tiền tệ qua các năm và góp phần làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng cao dẫn đến
lạm phát tăng.
Ta có thể thấy qua biểu đồ dưới sự tác động của chi đầu tư phát triển vào Ngân sách
nhà nước và lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế 2000 – 2010.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
2.1.4 Chi đầu tư phát triển không hiệu quả làm tăng lạm phát
Bằng việc chi tiêu đầu tư cho các dự án công cộng, chính phủ đổ một lượng tiền lớn
vào nền kinh tế, nhưng khi nguồn đầu tư đó không được sử dụng hiệu quả, có thể xuất
phát từ các lý do: trình độ quản lý yếu kém, tệ hành chính quan liêu, tham nhũng tràn lan
đã làm cho việc chi đầu tư này không thúc đẩy được nền kinh tế phát triển mà tạo ra sự
mất cân bằng trong thị trường tiền tệ. Một lượng lớn tiền được bơm vào thị trường vượt
xa khả năng “hấp thụ” của nền kinh tế sẽ dẫn đến dư thừa tiền tệ lưu chuyển trong nền
kinh tế. Sự lưu chuyển không theo quy luật thị trường, dòng vốn không chảy đến những
chỗ cần đến mà chảy vào tài khoản riêng của ai đó, đã làm biến dạng thị trường. Cùng với
những yếu tố khách quan như sự tăng giá ở cấp độ toàn cầu của những mặt hàng thiếu yếu
như: sắt, thép, dầu,… thì việc chi tiêu cho đầu tư phát triển cũng làm cho lạm phát ngày

càng trở nên trầm trọng hơn. Khi những đồng vốn Ngân sách Nhà nước được đầu tư vào
thị trường, nó trông đợi những giá trị kinh tế tương ứng. Nhưng do đầu tư không hiệu quả,
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 12


những đồng vốn đó không những không tạo ra những giá trị kinh tế tương ứng mà còn
gây ra những tác động có hại cho nền kinh tế.
Trên thực tế, những khoản chi đầu tư phát triển ở Việt Nam quá dàn trải và lãng phí.
Một km đường cao tốc có giá khoảng 1 triệu đô la, nhưng theo ước tính thì chỉ 300,000
USD là thực chi cho việc xây dựng con đường, còn lại 700,000 USD thì bị thất thoát.
Những vụ án tham nhũng lớn như PMU 18 hay dự án Đông Tây ở Thành phố Hồ Chí
Minh đã phần nào minh chứng thêm lý do của đầu tư không hiệu quả. Ước tính sơ bộ cho
thấy chỉ riêng phần vốn đầu tư của dự án đường Hồ Chí Minh và số tiền Vinashin đã chi
tiêu lên đến khoảng 150.000 tỉ đồng, bằng gần 10% tổng phương tiện thanh toán năm
2008. Do số tiền khổng lồ này đã được đưa vào nền kinh tế, nhưng tạo ra rất ít giá trị gia
tăng nên nó đã tác động đáng kể đến mức giá chung cũng như gánh nặng nợ công.
2.2 Sự tác động cuả lạm phát đến đầu tư phát triển
2.1.1 Lạm phát làm tăng lãi suất, ảnh hưởng đến đầu tư:
Lạm phát thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay
đều có thể chấp nhận được. Nhưng lãi suất danh nghĩa (LSDN) lại thay đổi theo tỷ lệ lạm
phát. Khi lạm phát thay đổi LSDN sẽ thay đổi theo để duy trì mức lãi suất thực tế ở mức
ổn định.
LSTT= LSDN - % lạm phát
Khi lãi suất tăng, một mặt làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại, mặt
khác lạm phát tăng làm tăng chi phí lãi vay của doanh nghiệp và người kinh doanh. Điều
này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ suất lợi lớn hơn, một số
dự án qua đó mà bị sàng lọc. Vì vậy đầu tư cố định giảm. Lãi suất cao làm tăng chi phí
lưu giữ vốn lưu động (vd hàng trong kho) tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư

dưới dạng vốn lưu động.
Để đánh giá chính xác hiệu quả dự án đầu tư nhất thiết phải tính đến yếu tố lạm
phát. Bởi vì lạm phát làm thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả cuả dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án là toàn bộ chi phí dự tính để đầu tư xây dựng công trình
được ghi trong quyết định đầu tư. Tổng mức đầu tư là cơ sở để chủ đầu tư lập kế hoạch và

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 13


quản lý vốn khi thực hiện đầu tư xây dựng công trình. Lạm phát dẫn đến các chi phí
nguyên vật liệu tăng, làm tổng mức đầu tư tăng, giảm hiệu quả của dự án.
2.2.2 Lạm phát tác động đến tiến độ thực hiện dự án:
Khi lạm phát xảy ra, lãi suất tăng, Ngân hàng khắt khe trong việc cho vay, việc vay
vốn của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, giá cả của nguyên vật liệu, các
yếu tố đầu vào đều tăng lên theo phản ứng dây chuyền, nhiều doanh nghiệp không thể vay
được, nếu có cũng chỉ là số lượng ít, chia làm nhiều giai đoạn. Qua đó làm chậm tiến độ
thực hiện dự án vận hành các kết quả đầu tư trên thị trường.
Lạm phát tăng, lãi suất Ngân hàng cao, giá nguyên vật liệu tăng ảnh hưởng đến tiến
độ giải ngân của các dự án FDI. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ cân nhắc đến việc giải ngân
sao cho hiệu quả nhất.
2.2.3 Lạm phát làm thay đổi tỷ giá hối đoái, từ đó làm giảm hiệu quả đầu tư.
Khi một nước xảy ra lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không
đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn ở thị trường nước ngoài. Theo quy luật cung
cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhập, nhập khẩu tăng, cầu ngoại
tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, người nước ngoài sẽ ít dùng hàng nhập
khẩu hơn, xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ giảm, tỷ giá hối đoái tăng . Như vậy lạm phát
ảnh hưởng đến cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm
tăng nhanh tỷ giá hối đoái.

Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang
nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ tăng làm tăng tỷ giá hối đoái,
đồng nội tệ mất giá, các dự án đầu tư cần nhiều vốn hơn, Chính phủ phải đi vay nhiều
hơn, chi phí vốn và lãi vay nhiều nên hiệu quả đầu tư thấp.
Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc
vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn,
đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối, tỷ giá hối đoái tăng.
3. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam:
Những năm gần đây, Việt Nam đã quá chú ý tới tốc độ tăng trưởng và quyết tâm đạt
tốc độ tăng trưởng cao nên đã dẫn tới tình trạng đầu tư năm sau cao hơn năm trước.
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 14


Bảng số liệu tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển so với các khoản chi khác của Ngân sách
Nhà nước
Năm 2010
Đơn vị
tính: tỷ

triển
Các khoản chi
khác

Năm 2012

Đơn vị
Tỷ lệ %


đồng
Chi đầu tư phát

Năm 2011
tính: tỷ

Đơn vị
Tỷ lệ %

đồng

tính: tỷ

Tỷ lệ %

đồng

125 500

21.56

152 000

21

180 000

19.93

582 200


79.44

725 600

79

903 100

80.07

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tuy nhiên, tăng chi đầu tư phát triên các năm sau cao hơn năm trước không mang lại
hiệu quả như mong muốn. Có thể kể ra các nguyên nhân chính sau đây:
Đầu tư ngân sách nhà nước có cơ cấu chưa hợp lý, còn dàn trải; hiệu quả đầu tư còn
thấp, thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ
bản. Tham nhũng, rút ruột các dự án, công trình là thực tế nhức nhối và cực kỳ nan giải.
Vấn đề này liên quan nghiêm trọng và trực tiếp đến chất lượng công trình, dự án đầu tư.
Mặt khác, gây sụt giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân, gián tiếp làm giảm số thu
ngân sách, liên quan đến vấn đề thâm hụt và lại bội chi,…
Mặt khác, việc đầu tư tập trung quá nhiều vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư
thỏa đáng cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hóa có
giá trị làm tăng GDP, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng
cao nhưng hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng thấp.
Thực tế việc chi đầu tư phát triển ở Việt Nam còn kém hiệu quả còn do những yếu
tố tác động bên ngoài như phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài (hay vay nợ nước ngoài),
điều này đồng nghĩa với Việt Nam có những ràng buộc nhất định, ngoài nghĩa vụ trả nợ
(đối với viện trợ không phải là không hoàn lại), thì còn phải sử dụng một số sản phẩm,
dịch vụ hay nhà thầu của phía cho vay. Có thể ví dụ rất rõ là hầu hết dự án cầu, đường của
Việt Nam đều do vay tiền của chính phủ Nhật Bản, do đó hầu hết các nhà thầu đều là các

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 15


công ty của Nhật. Chính phủ cũng chịu tác động về sức ép của bên cho vay trong giải
ngân ngân sách chi đầu tư. Trước sức ép này, chính phủ chi tiêu ồ ạt mà lại thiếu một
chiến lược đầu tư phát triển độc lập và tự chủ, dẫn đến luôn phải chạy theo các nhà tài trợ.
 Một lượng tiền lớn đổ vào nền kinh tế, chi đầu tư ồ ạt đã dẫn đến một hệ quả tất
yếu là lạm phát.
Giai đoạn 2008 – 2011, Chính phủ Việt Nam gia tăng cả chi thường xuyên và chi
đầu tư với tốc độ cao. Đây được coi là một trong những nguyên nhân dẫn tới lạm phát cao
giai đoạn này.
Chi đầu tư tăng cao là do:
- Việt Nam vừa thoát khỏi hàng ngũ các nước có thu nhập thấp và trở thành nước có
thu nhập trung bình. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, kiến trúc
thượng tầng chưa cao, để đạt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp,
Việt Nam đang đầu tư vào cơ sở hạ tầng với khối lượng vốn khổng lồ.
- Giá cả thế giới tăng cao, tỷ giá tăng làm cho các yếu tố đầu vào của chi đầu tư phát
triển tăng nhanh, đặc biệt là công nghệ, nhân lực chất lượng cao, nguyên nhiên vật liệu.
Hiệu quả chi đầu tư phát triển ngày càng giảm, biểu hiện chủ yếu ở chỉ số ICOR của
Việt Nam ở mức cao và chưa có xu hướng giảm: nếu như trong giai đoạn 1991 – 1995 hệ
số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 – 2008 hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số
ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010 giảm xuống còn 6,18 và năm 2011 là 5,75 nhưng vẫn còn
cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB (đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR
chỉ nên ở mức 3). So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi,
có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.
Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường và
cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực cũng như các nước có điều kiện tương tự.
Từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Đặc biệt,

năm 2008, lạm phát lên đến 22,97%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010, lạm
phát ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; năm 2011, lạm phát ở mức 18,58%,
gấp 3 lần mức tăng GDP.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 16


Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và
Quản lý kinh tế Trung ương: “Lạm phát của Việt Nam bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng
và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của
chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại
kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.”
Nói tóm lại, chi đầu tư phát triển ở Việt Nam nhìn chung chưa khả quan, chưa mang
lại hiệu quả do các nguyên nhân chính nêu trên. Vấn đề cấp bách nhwung không phải là
mới, được đặt ra ở đây là cần phải chú trọng tìm ra các giải pháp, hướng đi cụ thể và phải
khả thi hóa các giải pháp ấy, đưa vào thực tế để thực hiện, chứ không chỉ là đưa ra, nhận
xét, mổ xẻ rồi lại chìm vào im lặng.
Chi đầu tư phát triển nói riêng không hiệu quả sẽ làm gia tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy
nhiên, không phải lúc nào tăng chi đầu tư phát triển dẫn đến lạm phát tăng cũng là có hại
cho nền kinh tế, mà điều quan trọng và đáng lưu tâm ở đây là chi đầu tư phát triển hợp lý,
có hiệu quả dẫn đến lạm phát tăng vừa phải qua từng giai đoạn thì nền kinh tế mới có thể
phát triển tăng trưởng ổn định. Theo kinh nghiệm thực tiễn kinh tế thế giới cho thấy nếu
bội chi Ngân sách Nhà nước ở mức độ nhất định ( dưới 5% so với tổng chi Ngân sách
Nhà nước / năm ) là có tác dụng kích thích sản xuất. Những nước có trình độ phát triển
cao người ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp chi ngân sách nhà nước chứ chưa loại trừ nó hoàn
toàn. Thực chất bội chi Ngân sách Nhà nước là một hiện tượng kinh tế khách quan.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể kiềm chế lạm phát tăng cao, ổn định
kinh tế vĩ mô. Biện pháp tối ưu nhất đó là phải tăng cường quản lý Ngân sách Nhà nước,

hạn chế tình trạng thâm hụt ngân ngân sách quá mức như những năm gần đây. Chúng ta
sẽ tìm hiểu vấn đề này ở chương 3.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 17


CHƯƠNG 3:

GIẢI PHÁP CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HIỆU QUẢ
TỪ NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Sử dụng nguồn Ngân sách Nhà nước như thế nào một cách hiệu quả là một trong
những vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay. Để trả lời được câu hỏi này, cần đưa ra được
những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết thực trạng chi đầu tư từ Ngân sách Nhà nước một
cách không hiệu quả dẫn đến tình trạng lạm phát ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Để những giải pháp này đi vào thực tiễn đòi hỏi sự phối hợp không
chỉ giữa những cơ quan Nhà nước, chính phủ, các bộ ngành địa phương khu vực liên
quan, mà còn đòi hỏi có sự tin tưởng và đóng góp của người dân để tạo sự thống nhất và
tăng tính khả thi khi thực hiện.
1. Những giải pháp chung
1. 1 Sắp xếp hợp lý nội dung chi từ Ngân sách Nhà nước
● Cần coi vấn đề quy hoạch là yếu tố cơ bản tạo tiền đề cho hoạt động chi từ nguồn
vốn Ngân sách Nhà nước. Quy hoạch phát triển ở đây không phải là xây dựng riêng lẻ
cho từng địa phương, với thời hạn vài chục năm mà quy hoạch tổng thể hoàn chỉnh cho cả
nước, trong đó có phần chi tiết cụ thể của từng địa phương. Với yêu cầu như vậy, xã hội
cần phải dành ra một khối lượng nhân tài, vật lực thỏa đáng để thực hiện. Dưới góc độ tài
chính, đây là khoản chi quan trọng của Ngân sách Nhà nước và cần phải xác định đó là
khoản chi đầu tư phát triển rất cơ bản.
● Cùng với đó, sẽ sắp xếp lại phạm vi và nội dung chi đầu tư từ Ngân sách Nhà

nước một cách hợp lý. Đối với chi đầu tư phát triển cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh
tế- xã hội, quan điểm chỉ đạo là Ngân sách Nhà nước chỉ chi cho các công trình không có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp hoặc hoàn toàn không có khả năng thu hồi vốn, vì các công
trình này tư nhân và các thành phần kinh tế không thực hiện đầu tư.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 18


Điều này đòi hỏi mọi nguồn vốn đầu tư của Nhà nước phải được tập trung thống
nhất, việc phân phối phải do chính quyền Nhà nước trung ương thực hiện, căn cứ vào yêu
cầu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội từng thời kỳ.
Trước mắt, vốn đầu tư Nhà nước phải được cấp phát cho 2 lĩnh vực trọng yếu nhất
là:
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng: nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng đã thực sự
trở nên cấp bách, vì hệ thống này hiện đang ở trong tình trạng xuống cấp nặng nề. Để cải
tạo, nâng cấp, xây dựng mới các công trình thuộc hệ thống này cần phải có khối lượng
vốn đầu tư rất lớn.
+ Một số công trình kinh tế mũi nhọn: Có 3 loại hình hoạt động nhà nước
phải tham gia với tư cách là người điều chỉnh vĩ mô:


Các cơ sở khai thác tài nguyên thiên nhiên, các ngành khai thác năng
lượng và công nghiệp phục vụ nông nghiệp: các cơ sở này cần nhiều
vốn và có thời hạn thu hồi vốn dài, hiệu quả kinh tế thấp, nhưng lại
rất cần thiết cho nền kinh tế.




Các cơ sở sản xuất của Nhà nước được tạo ra và điều chỉnh quá trình
cạnh tranh trên thị trường, chống độc quyền.



Các cơ sở kinh doanh dịch vụ phục vụ cho các chính sách xã hội, bảo
vệ lợi ích người tiêu dùng

Còn lại các công trình có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, nên giảm thấp, tiến tới xóa
bỏ hoàn toàn phần vốn đầu tư của Nhà nước. Ngược lại, Nhà nước khuyến khích các cơ
chế đầu tư khác như BT, BOT... để tư nhân và các thành phần kinh tế thực hiện đầu tư
theo cơ chế thị trường.
● Cần quan tâm hơn nữa việc chi đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế- xã
hội, đặc biệt cho các lĩnh vực để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thực hiện công
bằng xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả của khoản chi này, kinh phí chỉ nên do một
cấp ngân sách đảm bảo, không nên lồng ghép như hiện nay, dễ gây thất thoát, lãng phí.
Một biện pháp được Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính đề xuất đó là thực hiện có
chế quản lý chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước theo hướng đặt hàng
Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 19


và mua lại sản phẩm cuối cùng. Tiền của Ngân sách Nhà nước chỉ được chi ra khi nhà
cung cấp đã hoàn thành sản phẩm và bàn giao cho Nhà nước. Khi đó, nếu sản phẩm đáp
ứng được đầy đủ tất cả các điều kiện như đã cam kết trong đơn đặt hàng thì thủ tục thanh
toán mới được tiến hành. Ngược lại, sản phẩm không thỏa mãn được các yêu cầu như đã
cam kết thì Nhà nước hoàn toàn có quyền từ chối thanh toán, dừng việc chi tiêu lại.
● Điều chỉnh lại cơ cấu Ngân sách Nhà nước theo hướng ưu tiên đầu tư cho con
người và thực hiện các chính sách xã hội, giảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển từ Ngân sách

Nhà nước, đồng thời huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát
triển.
● Mỗi địa phương, khu vực kinh tế cần tăng cường phát huy các nhân tố nội lực để
tạo đà cho phát triển bền vững. Với việc phát triển bằng nội lực việc giám sát hiệu quả
của dự án sẽ thuận lợi hơn.
1.2 Giảm chi đầu tư phát triển theo nguyên tắc cắt giảm chi tiêu kém hiệu quả
Một trong những chìa khóa then chốt để xử lý mất cân bằng kép của nền kinh tế hiện
nay là cắt giảm chi đầu tư phát triển. Về mặt nguyên lý, những khoảng chi tiêu kém hiệu
quả sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên, tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn
cho vấn đề này.
- Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ cơ bản
nhất để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể
lượng hóa được chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một
con số thuyết phục về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục
tiêu an sinh, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm
trong tay người ra quyết định và những áp lực liên quan.
- Thứ hai, cắt của những ngành, khu

vực có quan hệ ràng buộc hay cắt ở

những khu vực không liên quan, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không
hề đơn giản.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 20


1.3 Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư Nhà nước
Đồng thời với việc rà soát, cắt giảm chi đầu tư phát triển để đảm bảo kiềm chế lạm

phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ
chế quản lý đầu tư phát triển Nhà nước. Cơ chế quản lý mới phải đáp ứng được một số
nội dung sau:
- Một là, ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với chi đầu tư phát triển
Nhà nước để xác định mức độ hiệu quả kinh tế của từng dự án, từng địa phương và từng
khu vực, phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm
tra, giám sát và đánh giá đầu tư. Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ
được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn, kiểm tra
và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
- Hai là, thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có
quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được
thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường. Qua đó sẽ lựa chọn
được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong phân cấp cần tính đến phát
triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và quyết định đầu tư để các dự án đầu
tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ
sung lẫn nhau.
- Ba là, tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư
nhà nước, cơ quan này chịu trách nhiệm thẩm định và giám sát hiệu quả của các dự án
đầu tư, đưa ra những phân tích chính xác và khách quan, mặt khác cơ quan này phải hoạt
động độc lập, không chịu sự giám sát và quản lý bởi Chính phủ mà là bởi Quốc hội.
- Bốn là, thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư Nhà nước, trên cơ sở đó
thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư Nhà nước nói chung và từng dự án
đầu tư Nhà nước nói riêng. Cần phải công khai hóa các thông tin sau:

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 21


+ Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề;

tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc...
+ Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những
cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản
biện về dự án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án.
+ Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
+ Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu
chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
+ Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có)
giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách
nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch.
Mặt khác những đơn vị chịu trách nhiệm chính đối với việc hoàn thảnh dự án phải
có cam kết rõ ràng về kết quả đạt được. Nếu phát sinh những hậu quả về chất lượng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến dự án, những đơn vị này phải chịu sự quản lý bằng chế tài của
Nhà nước, có thể là bằng xử phạt hành chính: chịu trách nhiệm tu sửa, hoàn thiện dự án
theo kế hoạch bằng chính vốn của đơn vị đứng ra thầu dự án. Nếu nghiêm trọng hơn thì
người quản lý phải chịu trách nhiệm về hình sự do những tổn thất gây ra đối với Ngân
sách Nhà nước.
Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả chi đầu tư phát triển
Nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công
việc thường xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng. Cơ chế mới về quản lý chi đầu tư phát triển Nhà nước không chỉ áp dụng cho việc
lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát,
cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư phát triển hiện có.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 22


2. Giải pháp cụ thể cho Việt Nam hiện nay:

-

Chính sách đầu tư phát triển hợp lý đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Chính sách đầu tư phát triển đúng đắn sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội hợp lý và
hiệu quả qua đó hạn chế tỷ lệ lạm phát tăng cao do đầu tư không hiệu quả

-

Tăng nhanh đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là vào những ngành
thuộc thế mạnh của nước ta như nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trong những năm tới là
biện pháp hàng đầu để tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Trong đó cần
đặc biệt chú trọng đến:
+ Xây dựng hạ tầng kỹ thuật nông thôn, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn,
vùng sâu vùng xa.
+ Nâng cao nhận thức người dân của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và biện
pháp canh tác tiên tiến trong công tác nuôi trồng. Xây dựng tiêu chuẩn đầu vào
phù hợp với yêu cầu về kỹ thuật của các sản phẩm nông nghiệp góp phần tăng
khả năng cạnh tranh cũng như xây dựng thương hiệu riêng cho các sản phẩm
này.

-

Tăng nguồn vốn đầu tư phân bổ cho các ngành sản xuất: những ngành sản xuất trực tiếp
tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

-

Dành tỷ trọng vốn thích đáng đầu tư cho ngành năng lượng như điện, xăng dầu …. thiếu
điện, xăng dầu thì không thể nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, trong thời

gian tới hướng ưu tiên phải là chú trọng huy động và kêu gọi các khả năng có thể để đầu
tư vào những ngành này đặc biệt tận dụng nguồn năng lượng từ thiên nhiên tận dụng từ
năng lượng mặt trời, sức gió, thủy triều… nhằm đảm bảo việc sản xuất và điều phối kịp
thời theo nhu cầu sản xuất kinh doanh.

-

Đầu tư hợp lý vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tránh đầu tư tràn lan và giàn trải
vào một số công trình chỉ mang lại lợi ích trong ngắn hạn, hoặc chỉ mang tính hình thức.
Chú ý chi đầu tư phát triển đối với hệ thống giao thông nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 23


-

Bộ phận cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà nước phải thật sự là những người có
năng lực, chịu trách nhiệm thẩm định và giám sát hiệu quả của các dự án đầu tư, đưa ra
những phân tích chính xác và khách quan, mặt khác cơ quan này phải hoạt động độc lập,
không chịu sự giám sát và quản lý bởi Chính phủ mà là bởi Quốc hội.

-

Tham nhũng, rút ruột công trình của những người đứng đầu dự án, công trình, làm chất
lượng hiệu quả các dự án giảm sút. Luật pháp quy định các hình phạt đối với các tội danh
liên quan chưa đủ sức răn đe. Tham nhũng cả hệ thống, liên đới tới những vị có chức cao
quyền trọng, để lôi ra ánh sáng và công minh xét xử dường như là chưa thể. Cho nên, làm
thế nào để đẩy lùi được vấn nạn ấy, cần đến một hệ thống pháp luật nghiêm minh và đội

ngũ lãnh đạo thật sự có đức, có tài.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 24


 KẾT LUẬN

Yêu cầu về tái cấu trúc chi đầu tư phát triển trở thành một yêu cầu lớn của
đất nước, của nền kinh tế nếu như chúng ta muốn đạt được mục tiêu như các nước
phát triển là các nguồn tài nguyên phải được khai thác và sử dụng một cách có hiệu
quả nhất để kinh tế có thể phát triển không những về tốc độ mà còn về chất lượng.
Mặt khác theo nguyên lý chung của thị trường, một nền kinh tế vận dụng theo cơ
chế thị trường dù là định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải để thị trường vận hành là
chính trong các hoạt động kinh doanh, còn Nhà nước chỉ cần tập trung vào những
vai trò mang tính nhiệm vụ đích thực của mình, chỉ có Nhà nước mới có thể làm
được hoặc Nhà nước làm được tốt nhất để đảm bảo lợi ích chung của xã hội đó là
thiết lập môi trường kinh doanh tốt, tạo hạ tầng, chăm lo con người với hai hệ
thống quan trọng là giáo dục và y tế, chăm lo hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo sự
phân phối một cách công bằng những nguồn lực của Nhà nước cho các đối tượng
khác nhau. Đây là nhiệm vụ mà Nhà nước của tất cả các nước kể cả những nước
phát triển đều phải làm. Ở đất nước như Việt Nam thì còn hệ quả của chiến tranh,
của chất độc màu da cam, cũng như hệ quả của thời kỳ bao cấp để lại... có nghĩa là
khối lượng để Nhà nước phải chăm lo rất lớn.

Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

Trang 25



×