Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Định hướng, chính sách và đề xuất thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.55 KB, 26 trang )

Mục Lục
Lời nói đầu………………………………………………………………3
Chương 1 Một số vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài………………….4
1.1 Khái niệm...........................................................................................4
1.2 Đặc điểm.............................................................................................4
1.3 Ưu, nhược điểm của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư……………4
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI……………………………..6
Chương 2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 2006-2010………….7
2.1 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam……………7
2.2 Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010….8
2.2.1 Những định hướng và mục tiêu của Nhà nước trong giai đoạn
2006-2010.................................................................................8
2.2.1.1 Mục tiêu của Nhà nước trong giai đoạn 2006-2010....8
2.2.1.2 Định hướng của Nhà nước trong thu hút vốn và sử
dụng vốn....................................................................................9
2.2.2 Thực trạng thành tựu đầu tư, những ảnh hưởng tích cực của nó
và nguyên nhân…...................................................................10
2.2.2.1 Thực trạng thành tựu đầu tư........................................10
2.2.2.2 Những ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế...........14
2.2.2.3 Nguyên nhân đạt được những thành tựu đó................16
2.2.3 Những hạn chế và nguyên nhân của việc thu hút và sử dụng
FDI chưa hiệu quả...................................................................16
2.2.3.1 Những hạn chế............................................................17
2.2.3.2 Nguyên nhân thu hút và sử dụng FDI chưa hiệu quả..20
2.3 Định hướng, chính sách và đề xuất thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới………………………………….22
2.3.1 Định hướng thu hút FDI………………………....…………..22
2.3.2 Chính sách và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.……………..………………23
Kết luận………………………………………………………………...26
Danh mục viết tắt....................................................................................27


Tài liệu tham khảo………….………………………………………….27

2


Lời nói đầu
Cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, đầu tư trực tiếp
nước ngoài đang có xu hướng ngày càng gia tăng mạnh mẽ và có vai trò to lớn
đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một
trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo
điều kiện khai thác các lợi thế so sánh, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới,
nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu,
tạo thêm nhiều việc làm và chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Việt Nam đã công nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam trên nhiều
phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc tế, phát triển
xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế. FDI đã hỗ trợ Việt Nam một
cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để Việt nam gia
nhập ASEAN, ký kết thoả thuận khung với EU, bình thường hoá quan hệ và
thoả thuận thương mại song phương với Mỹ. Việc Việt Nam tham gia tổ chức
WTO tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc thu hút FDI trong giai đoạn 20062010. FDI hiện nay đang đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh
tế - xã hội ở Việt Nam. Chính vì tầm quan trọng đó, chúng em quyết định chọn
đề tài “ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 20062010” để phân tích và đánh giá thực trạng cùng với những ảnh hưởng của FDI
đến Việt Nam.

3


Chương 1


Một số vấn đề về đầu tư trực tiếp nước
ngoài
1.1

Khái niệm

Đầu tư: Là sự bỏ ra những nguồn lực vào một công việc nhất định nhằm
thu lợi trong tương lai. Đặc trưng cơ bản của đầu tư đó là sinh lãi và rủi ro trong
đầu tư. Hai thuộc tính này đã phân hoá sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy xã
hội phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình
thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước
khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản
xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý,... nhằm
mục đích thu lợi nhuận.

1.2

Đặc điểm

Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của nước tiếp nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia
điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh.
Về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
quyền này phụ thuộc vào mức vốn góp.
Về phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ đều
được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.

1.3


Ưu, nhược điểm của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư

Ưu điểm

4


FDI không để lại gánh nặng nợ nần cho Chính phủ như ODA hay các
hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra
nước ngoài...
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn của các doanh nghiệp
trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. FDI không chỉ đơn thuần là vốn
mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép
tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới cho nước tiếp nhận đầu tư.
FDI có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu lao động,... Thông qua tiếp
nhận FDI, các nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn kết nền kinh
tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của những nước này.
FDI có lợi thế là có thể duy trì sử dụng lâu dài, từ một nền kinh tế còn ở
mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. VD như
ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và
chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một
thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng lâu
dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
Với những ưu thế quan trọng này, ngày càng có nhiều nước xem trọng
FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước
ngoài khác.
Nhược điểm

Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng
huy động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, có
thể gây ra sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài. Do đó nếu
tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư phát triển quá cao thì tính độc lập tự chủ có
thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế bị phụ thuộc.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh
tế - xã hội như làm tăng chênh lệch thu nhập, làm gia tăng sự chênh lệch phát
triển giữa các vùng.
Đối với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ
và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận có thể hạn chế, giảm thiểu những
tác đọng tiêu cực này và sử dụng hài hoà mối quan hệ của nhà đầu tư nước
ngoài với lợi ích kinh tế quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.

5


1.4

Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI

Ổn định chính trị: đây là yếu tố quan trọng đối với nhà đầu tư nước
ngoài, vì có ổn định chính trị thì các cam kết của chính phủ nước tiếp nhận đầu
tư với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên, định hướng
phát triển mới được đảm bảo.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: đó là đặc điểm khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên, dân số,... tác động lớn đến tính sinh lãi hay rủi ro trong đầu tư.
Trình độ phát triển của nền kinh tế và đặc điểm phát triển của nền văn
hoá xã hội: sự thuận lợi hay không về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán...
đều có thể trở thành động lực khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà

đầu tư nước ngoài.
Ngoài những nhân tố trên còn có những nhân tố có tác dụng tăng khả năng thu
lợi nhuận cho các nhà đầu tư, đó là:
Lãi suất: trong một dự án đầu tư, chi phí và doanh thu được thực hiện ở
những thời điểm khác nhau nên để so sánh chi phí và doanh thu, các nhà đầu tư
sử dụng lãi suất để chuyển các dòng tiền về mặt bằng thời gian hiện tại. Như
vậy, nếu lãi suất càng tăng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư càng
giảm. Do đó mức lãi suất thấp là một trong những yếu tố khuyến khích người có
tiền đàu tư vào kinh doanh hơn là gửi tiền vào ngân hàng.
Chi phí sản xuất: chi phí sản xuất giảm thì lợi nhuận sẽ tăng tại mọi mức
lãi suất. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có một nhân tố rất quan
trọng ảnh hưởng đến chi phí sản suất tại nước nhận đầu tư, đó là tỷ giá hối đoái.
Nếu đồng tiền ở nước nhận đầu tư tăng giá, chi phí sản xuất sẽ tăng, lợi nhuận
giảm, làm giảm quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài.

6


Chương 2

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
2006 – 2010
2.1

Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài: thành lập dưới
dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài được thành lập dựa trên mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại,
hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải

tùy thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại như chính
trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa,...
Tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài: liên doanh với nước ngoài là một hình thức tổ chức kinh doanh có
tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch,
quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hóa, hoạt động trên cơ sở
sự đóng góp của các bên về vốn, quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về
lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh gồm sản xuất
kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển
khai.
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BBC) là hình thức đầu tư được ký giữa
các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản
phẩm mà không thành lập pháp nhân.
+ Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT) là hình thức
đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyển và nhà đầu tư xây dựng,
kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời
hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam.
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) là hình thức
đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
7


dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và
lợi nhuận.
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) là hình thức đầu tư được ký

giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho
Nhà nước Việt Nam. Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án
khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo
thỏa thuận trong hợp đồng BT.
Đầu tư phát triển kinh doanh. Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh
doanh thông qua các hình thức sau:
+ Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh.
+ Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi
trường.
Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Nhà
đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt Nam. Tỷ
lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh vực,
ngành, nghề do Chính phủ quy định.
Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Điều kiện sáp
nhập, mua lại doanh nghiệp, chi nhánh theo quy định của Luật đầu tư, pháp luật
về cạnh tranh và các quy định của pháp luật có liên quan.

2.2

Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 20062010

2.2.1 Những định hướng và mục tiêu của Nhà nước trong giai đoạn 20062010
2.2.1.1 Mục tiêu của Nhà nước trong giai đoạn 2006-2010
Mục tiêu tổng quát
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển và trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, đi đôi với sự phát
triển bền vững của xã hội.
Giữ vững ổn định chính trị và an ninh quốc gia, nâng cao vị trí của Việt
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

8


Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5 năm 2006-2010 là đưa tổng sản phẩm
trong nước (GDP) lên gấp 2,1 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt khoảng 1.050-1.100 USD; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm thời kỳ 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8%.Ước tính
nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 là 140 tỷ USD (giá năm
2005), chiếm 40% GDP, trong đó, nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm
khoảng 35%. Cụ thể:
- Vốn FDI thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai
đoạn 2001 -2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký: Tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm
2006-2010 đạt khoảng 38-40 tỷ USD (tăng khoảng hơn 80% so với giai đoạn
2001 – 2005), trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt khoảng 28 tỷ USD, vốn tăng
thêm đạt khoảng 10-12 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 216 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 106,5 tỷ USD (không kể dầu
thô); nhập khẩu đạt 131,3 tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: khoảng 8,7 tỷ USD.
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công
nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ
khoảng 35%.
2.2.1.2 Định hướng của Nhà nước trong thu hút vốn và sử dụng vốn
Định hướng ngành
Ưu tiên thu hút vốn trên một số ngành cụ thể:
- Ngành Công nghiệp - Xây dựng: Khuyến khích đầu tư vào các ngành
công nghệ cao từ các nước công nghiệp phát triển (Mỹ,Nhật, EU…) như điện
tử, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin…Thúc đẩy các ngành công nghiệp

phụ trợ phát triển để giảm chi phí đầu vào của nguyên-phụ liệu.
- Ngành dịch vụ: Khuyến khích đầu tư vào các ngành: Y tế, giáo dục,du
lịch, với những ngành nhạy cảm như tài chính ngân hàng,vận tải, viễn thông cần
có một lô trình thích hợp. Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật như xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường
sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết
cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
9


- Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Khuyến khích các dự án đầu tư cho phát
triển công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và bảo quản thực phẩm, và xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất.
Định hướng vùng
Để tăng cường thu hút FDI tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội
còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng,
bên cạnh những ưu đãi đối với FDI tại các vùng đó, đòi hỏi phải tăng cường đầu
tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các vùng kinh tế khó khăn bằng
nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút đầu tư
vào các khu kinh tế, Khu Công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt (như Chu
Lai, Nhơn Hội…) góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khỏang cách phát triển giữa
các vùng.
Định hướng đối tác
Chú trọng thu hút vốn đầu tư từ những tập đoàn đa quốc gia(TNCs),vì
FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs. Giải quyết tốt các vướng mắc cho
các doanh nghiệp đến từ những nước đối tác chính, gôm Nhật, Hoa Kì, các nước
EU đang hoạt động tại Việt Nam, nhằm tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư
.Tiếp tục khuyến khích và mở rộng đầu tư với các đối tác truyền thống như Đài
Loan, Hàn Quốc, Singapore.
2.2.2 Thực trạng thành tựu đầu tư, những ảnh hưởng tích cực của nó và

nguyên nhân
2.2.2.1 Thực trạng thành tựu đầu tư
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực hoạt động và phát triển mạnh
mẽ nhất, bổ sung vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trước hết chúng ta hãy nhìn vào biểu đồ để thấy sự khác biệt giữa giai
đoạn này và giai đoạn trước đó:

10


Biểu đồ 1: Vốn đăng kí FDI trong 10 năm (1999-2008)
(Nguồn: VnEconomy.com)
Trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam đã thu hút một lượng vốn FDI rất
lớn, tạo ra một sự khác biệt vô cùng lớn đối với những giai đoạn trước đó. Cụ
thể:
Bảng 1: Lượng vốn FDI đăng kí và thực hiện(2006-2010)
(Nguồn: fia.mpi.gov.vn)
Năm
2006
2007
2008
2009
Sơ bộ
2010(9/2010)

Vốn đăng kí
(tỉ USD)
10,2
20,3

64,1
21,48
11,4

Vốn thực hiện
(tỉ USD)
4,1
8
11,5
10
8,05

Số dự án (cấp mới)
800
1406
1557
839
720

Trong năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 10,2 tỷ USD vốn đăng ký
mới, tăng 57% so với năm trước và đạt mức cao nhất từ khi ban hành Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến nay, vượt mức kỷ lục đã đạt được
vào năm 1996 là 8,6 tỷ USD. Trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng
ký năm 2006 có gần 8 tỷ USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2
tỷ USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
11


Như vậy, cả vốn đăng ký của các dự án mới và vốn đầu tư mở rộng sản xuất đều
tăng mạnh so với năm 2005, trong đó vốn đăng ký của các dự án mới tăng tới

77%.
Năm 2007 là năm đạt kỷ lục về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký là 21,3 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 8,03 tỷ
USD. Tổng vốn thực hiện đã đạt hơn 8 tỷ USD (trong đó dầu khí đạt 2,89 tỷ
USD), vượt 4 tỷ USD so với báo cáo ban đầu (4,6 tỷ USD). Tổng vốn đăng ký
đạt 21,3 tỷ USD vượt 1 tỷ USD so với báo cáo ban đầu (20,3 tỷ USD)
Trong năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 1.557 dự án mới với tổng
vốn đầu tư đăng ký 66,5 tỷ USD, gấp 3,55 lần mức thu hút 2007. Trong cùng
kỳ, 397 lượt dự án đã được điều chỉnh tăng vốn đăng ký với tổng vốn đầu tư
đăng ký tăng thêm 5,2 tỷ USD, gấp 1,98 lần năm 2007. Tính cả cấp mới và tăng
thêm, vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam 2008 đạt mức kỷ lục 71,7 tỷ USD, gấp
3,35 lần so với năm 2007.
Trong năm 2009, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải
ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008. Xuất khẩu của khu vực
ĐTNN (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm
2008 và chiếm 52,7 % tổng xuất khẩu cả nước. Nếu không tính dầu thô, khu
vực ĐTNN xuất khẩu 23,6 tỷ USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98 %
so với năm 2008. Nhập khẩu của khu vực ĐTNN năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD,
bằng 89,2 % so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Trong
năm 2009, khu vực ĐTNN xuất siêu 5,03 tỷ USD.
Theo các báo cáo nhận được, trong 9 tháng đầu năm 2010 cả nước có 720
dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 11,4 tỷ USD, tăng 37,3% so
với cùng kỳ 2009. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 9 tháng đầu năm
2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 12,19 tỷ
USD, bằng 87,3% so với cùng kỳ 2009.
Khu vực kinh tế này trong những năm vừa qua đã có đóng góp khá tích
cực vào nền kinh tế Việt Nam.
Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực này đã tăng lên gấp gần 2,5 lần
trong vòng 10 năm từ 1995-2005 lên xấp xỉ 16%, tới 2009 con số này ước tính
là 18,33%. Tỷ trọng đóng góp vào ngân sách cũng tăng gấp 2 trong vòng 8 năm

và đạt 10,52% vào năm 2008. Nộp Ngân sách Nhà nước 1,982 tỉ USD, tăng
25,8% so với năm 2007.Năm 2009, nộp Ngân sách Nhà nước 2,5 tỉ USD, đóng
góp 18,33% vào GDP. Đáng kể nhất là đóng góp vào giá trị sản xuất công
nghiệp của toàn nền kinh tế trong 10 năm 1996-2006 đã tăng hơn 1,5 lần và ở

12


mức cao, đạt 44,4% vào năm 2008. Khu vực này cũng thu hút một lượng lao
động lớn, chiếm 22,2% tổng số lao động tại DN.
Bảng 2: Đóng góp của khu vực FDI so với các khu vực khác
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Đóng góp

NN
Ngoài
NN
FDI

Đóng góp giá trị

Đóng góp

NS
CN
GDP
2006 2007 2008 2006 2007 2008 2006 2007 2008
31.87% 28.89% 29.80% 22.4% 20.0% 18.5% 37.4% 35.9% 35.5%
15.18% 17.89% 18.94% 33.4% 35.4% 37.1% 45.6% 46.1% 46.0%
17.78% 18.02% 19.08% 44.2% 44.6% 44.4% 17.0% 18.0% 18.4%


Một nét sáng nữa của các doanh nghiệp FDI đó là khu vực này hiện đang đạt
hiệu quả kinh doanh cao với lợi nhuận trước thuế chiếm tới 48,1%. Cùng với đó,
trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam về doanh thu theo Bảng xếp hạng
VNR500 qua các năm, các chỉ tiêu hiệu quả như ROA và ROE của khu vực FDI
vẫn vượt trội so với khu vực Nhà nước và ngoài nhà nước, trong đó, năm 2008 chỉ
tiêu ROA của DN FDI cao hơn 3-4 lần, ROE cao hơn gần 2 lần so với 2 khu vực
kinh tế còn lại (bảng 3).

Bảng 3: Chỉ tiêu hiệu quả so sánh giữa các khu vực kinh tế
(Nguồn: Dữ liệu các BXH VNR500, Vietnam Report)

NN

ROA
Tư nhân

FDI
13

NN

ROE
Tư nhân

FDI


2006
2007

2008

0,04
0,03
0,04

0.03
0.04
0.03

0,27
0,15
0,14

0,26
0,15
0,15

0.35
0.20
0.15

0,62
0,31
0,28

2.2.2.2 Những ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế
Với những đóng góp đáng kể đó, FDI đã tạo nên những ảnh hưởng tích
cực đối với nền kinh tế:
FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, thường xuyên lâm vào tình
trạng thiếu vốn thì FDI là đặc biệt quan trọng. FDI cung cấp một lượng vốn cần
thiết cho nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư để phát triển, hay nói cách khác, nguồn
vốn FDI góp phần tạo ra “một cú huých lớn”, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp
các nước nghèo và các nước đang phát triển như Việt Nam thoát khỏi “vòng đói
nghèo luẩn quẩn” .
FDI giúp tạo việc làm, cải thiện nguồn nhân lực.
FDI có tác động tích cực trong việc phát triển nguồn nhân lực của Việt
Nam thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Các cá nhân làm việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi, nâng cao
trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kĩ thuật tiên tiến. Thông qua các
tác động kể trên, chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay ngày càng tăng
lên, thậm chí còn có thể đạt hiệu quả lớn hơn khi người làm việc trong các
doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc
tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
Tính đến năm 2007, doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo việc làm cho trên
1,2 triệu lao động trực tiếp.Tính riêng trong năm 2008, khối FDI đã tạo ra được
hơn 200 nghìn việc làm mới, nâng tổng số lao động hoạt động trong các dự án
FDI lên 1,467 triệu người, góp phần đáng kể trong giải quyết vấn đề việc làm tại
Việt Nam.
FDI góp phần chuyển giao và phát triển công nghệ.
FDI được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển khả năng công nghệ
của nước ta trong giai đoạn hiện nay.Chuyển giao công nghệ thông qua con
đường FDI thường được thực hiện bởi các các công ty xuyên quốc gia( TNCs),
dưới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs.

14



Các hạng mục chủ yếu trong chuyển giao công nghệ, công nghệ thiết kế và xây
dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các TNCs còn góp
phần làm tăng năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của Việt
Nam. Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở
các doanh nghiệp liên doanh), các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết
kế, chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải tiến cho phù hợp với điều kiện sử
dụng của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI
đối với việc phát triển công nghệ ở Việt Nam, là một nước đang phát triển.
FDI giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh các yếu tố sản xuất của nước ta được khai thác có
hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Thực tế hiện nay, các nước
đang phát triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí thấp nhưng vẫn gặp
nhiều khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Do đó, khuyến khích
đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách
thu hút FDI của nước ta. Theo số liệu của Bộ Công Thương, trong 8 tháng đầu
năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô)
ước đạt 20,65 tỷ USD, tăng 39,9%, tăng 5,89 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2009
trong khi kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng 7,34 tỷ USD. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cũng cho biết, trong hoạt động xuất khẩu, tỷ trọng của khối doanh
nghiệp FDI qua các năm đã không ngừng tăng và tăng rất mạnh. Năm 2001,
xuất khẩu của khu vực này chiếm 24,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, năm
2005 đã tăng lên 34,5% và năm 2009 chiếm tới 42,3%, riêng 7 tháng đầu năm
2010 đã chiếm tới 46,2% với cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là công
nghiệp, gia công chế biến.
FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Việt Nam, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề mới; nâng cao
nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển năng suất lao động ở

nhiều ngành kinh tế. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành nghề được
kích thích phát triển. FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp
và sản phẩm. Hiện nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy
giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, … . FDI cũng chiếm
60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết
15


bị y tế. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của
Việt Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84%
trong điện tử, máy tính và các linh kiện.
2.2.2.3 Nguyên nhân đạt được những thành tựu đó
Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố
gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố
có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực
phấn đấu của các cấp, các ngành.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế
một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách
hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở
nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết
hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn
với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến
thương mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả
minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký
kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào
Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay.
Quan trọng hơn cả, nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh
được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực

hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư.
Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế,
nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu
dân.
2.2.3 Những hạn chế và nguyên nhân của việc thu hút và sử dụng FDI
chưa hiệu quả

2.2.3.1 Những hạn chế
Sự chênh lệch về dòng vốn giữa các ngành.
16


Khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 56,7%, khu vực dịch vụ chiếm
41,8%, khu vực nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 1,2% tổng vốn đăng ký.
Dựa vào số liệu trên, ta nhận thấy có sự phân hóa nguồn vốn FDI ở các khu vực
kinh tế. Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng, dịch vụ; trong khi ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ lệ vốn đầu tư
FDI rất thấp.
Ngoài ra, ta cũng có thể nhận thấy hiện trạng sau đây: Luồng vốn FDI
vẫn tiếp tục chảy vào lĩnh vực bất động sản và du lịch. Đây là lĩnh vực chiếm rất
nhiều diện tích trong đó có cả diện tích đất nông nghiệp có giá trị tăng cao vì
nằm ở những khu đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung, khu du lịch. Riêng
trong năm 2008, ước tính khoảng 30% tổng vốn đầu tư đã thực hiện nằm trong
ngành bất động sản và khách sạn, so với 13% đầu tư vào ngành công nghiệp nhẹ
và 3% trong ngành nông nghiệp và thực phẩm. Đến năm 2009 con số FDI đầu
tư vào bất động sản đã tăng lên 40%. Những khu vực này không tạo được nhiều
việc làm và có xu hướng thâm dụng nhập khẩu, gây áp lực lên cán cân thanh
toán. Thực trạng này dẫn tới hệ lụy là lạm phát, thất nghiệp đã tác động trực tiếp
đến chi phí sinh hoạt và tiền lương thực tế.

Lượng vốn giải ngân thấp, sủ dụng vốn chưa thực sự hiệu quả.
Tốc độ giải ngân vốn vay còn rất thấp: Tỷ lệ giải ngân so với vốn đăng ký
của năm 2006 là 46,6%, năm 2007 là 37,6%, năm 2008 là 17,9% năm 2009 là
46,6% . Điểm sáng duy nhất là tình hình FDI 3 tháng đầu năm 2010 vừa được
công bố cho thấy, giải ngân vốn FDI trong tháng 3/2010 đã nhảy một bước dài
khi đạt kỷ lục 1,4 tỷ USD nâng tổng số vốn FDI giải ngân trong quí 1 năm 2010
lên 2,5 tỷ USD. Tốc độ giải ngân không theo kịp nguồn tiền đổ vào khiến chúng
ta đang đứng trong một vòng luẩn quẩn. Ngân hàng sẽ tăng lãi suất huy động
dẫn đến việc tăng lãi suất cho vay. Gánh nặng này đè lên vai các doanh nghiệp
và họ "chia sẻ" nó sang hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ... khiến cho giá cả tăng vọt
và kẻ chịu trận cuối cùng chính là người tiêu dùng.
Ta có hai chỉ số chính để đo lường hiệu quả của đầu tư FDI: ICOR (đo
lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia tăng
một đơn vị sản lượng) và TFP (hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp). ICOR
càng cao thì càng là dấu hiệu xấu, chứng tỏ vốn đầu tư trở thành yếu tố quá
quan trọng trong khi các nhân tố tăng trưởng khác lại không phát huy. Ngược
lại, TFP càng cao càng là dấu hiệu tốt. Trong 10 năm (1999-2009), ICOR của
khu vực nhà nước, tư nhân và FDI lần lượt là: 7,76; 3,54; và 7,91. Nhìn ra thế
giới, ICOR trung bình của nhóm tăng trưởng cao chỉ có 3,6. Vậy Khối FDI có
17


chỉ số ICOR cao nhất và điều đó chứng tỏ hiệu quả là thấp nhất. Còn về khía
cạnh chuyển giao công nghệ, giai đoạn 2004-2009, hệ số TFP của các khu vực
kinh tế nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp có FDI lần lượt là: 8,6; 3,1 và -17,6.
Hệ số TFP của khối nhà nước cao nhất cho thấy mặc dù vốn đầu tư rót vào khu
vực này nhiều (đầu tư không hiệu quả) nhưng sự chuyển giao công nghệ là có
thật. Nói cách khác, doanh nghiệp công “cũng có mang lại đổi mới công nghệ”.
Trong khi ở khối FDI thì chỉ số này lại âm (-17,6). Như thế nghĩa là ở khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài, sự tăng trưởng chủ yếu nhờ các yếu tố khác, ví dụ lao

động rẻ mạt, chứ không phải do công nghệ. Trên thực tế, khảo sát ở nhiều
doanh nghiệp FDI cho thấy máy móc, công nghệ được đối tác nhập vào Việt
Nam đều cũ kỹ hoặc đã khấu hao hết.
Chất lượng lao động còn thấp.
Trong khi dòng vốn FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam thì số việc làm được
tạo ra vẫn có tăng, song chủ yếu lại là lao động rẻ mạt, không có kỹ năng. Theo
điều tra năm 2007, các công ty nước ngoài đầu tư ở Việt Nam nhận cả những
công nhân mù chữ và đã mở các lớp “xóa mù” chỉ để đảm bảo công nhân có thể
đọc được các thông báo an toàn và những chỉ dẫn cơ bản. Về danh nghĩa, các
doanh nghiệp FDI được tiếng là thu hút nhiều lao động nhưng thực chất hiện
nay các doanh nghiệp này đang tìm cách khai thác triệt để nguồn lao động rẻ
tiền, “vắt kiệt” mồ hôi của công nhân mà không quan tâm đào tạo trình độ và kỹ
năng cho họ. Trên thực tế, mặc dù khu FDI thu hút 1,7 triệu lao động nhưng đều
là những lao động không được đào tạo hoặc chỉ được đào tạo ngắn ngày. Một
điểm bất cập khác là dòng vốn đầu tư nước ngoài hầu như chỉ rót vào những
ngành có công nghệ tương đối thấp, nặng về lắp ráp, gia công mà một số doanh
nghiệp thực chất là các phân xưởng của công ty mẹ bên nước ngoài.
Vấn đề đất đai và công tác giải phóng mặt bằng.
Công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục.
Nhiều địa phương đang lâm vào tình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho
các dự án quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp phép đầu tư. Việc thu hồi
đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công trình ngoài hàng rào
kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn lớn nhất đối với việc triển
khai một số dự án FDI quy mô lớn hiện nay.
Vấn đề quy mô vốn và diện tích sử dụng đối với một số dự án FDI quy
mô lớn cũng đang là vấn đề đặt ra cần phải được xem xét một cách nghiêm túc.
Việc khai tăng nhu cầu sử dụng đất sẽ tạo ra áp lực lớn cho nhà nước về tài
18



chính cũng như các vấn đề xã hội trong quá trình giải phóng mặt bằng khu vực
dự án, đồng thời cũng gây lãng phí nguồn lực về đất đai của quốc gia vốn ngày
càng hạn hẹp. Không nên chia bãi biển cho các dự án quá nhỏ, manh mún (như
ở “thành phố resort” Phan Thiết), cũng không nên tạo đặc quyền cho các dự án
quá lớn, trải khắp một bãi biển rộng (như đoạn đường từ Đà Nẵng đi Cửa Đại,
Hội An), vì như vậy sẽ làm cho các dự án nhỏ không đủ quy mô để phát huy lợi
thế về thiên nhiên của địa phương và hiệu quả không cao, còn các dự án lớn thì
tạo nguy cơ chiếm dụng đất trong tương lai, khi các bãi biển của chúng ta trở
thành những khu du lịch có sức hút, những mảnh đất hiện tại được cấp với giá
thấp sau này sẽ biến những người chủ sở hữu trở thành những kẻ thống trị
những bãi biển giàu có đó.
Tác động xấu đến xã hội và môi trường.
Khi các dự án đến các địa phương, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi,
nông dân - đối tượng đông nhất trong xã hội mà trên 83% lao động chưa qua
đào tạo bị mất kế sinh nhai, khiến cho nền kinh tế phải đối mặt với tỷ lệ thất
nghiệp ngày càng gia tăng. Tình trạng thiếu việc làm khiến thu nhập và mức
sống của nông dân ngày càng thấp tương đối so với mặt bằng chung của xã hội,
làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
Một trong những tác động tiêu cực nhất của FDI đối với nước nhận đầu
tư là những ảnh hưởng về môi trường. Hiện nay, hệ thống xử lý nước thải, sự cố
tràn dầu,… trong các dự án FDI đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh
thái trong khi các chương trình giám sát, xử phạt vẫn chưa được thực hiện một
cách toàn diện.
FDI cũng ảnh hưởng tới đa dạng sinh thái, sinh học, tài nguyên nước,
thuỷ sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông. Các khu công nghiệp
mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống và nơi cư trú của các động thực vật hoang dã đã bị xáo trộn, phá hủy.
Sự việc công ty Vedan phá hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được
lấy làm ví dụ điển hình nói về tác động của các doanh nghiệp FDI tới môi
trường Việt Nam và việc quản lý của các cấp chính quyền với các dự án đầu tư .
Sự vi phạm nghiêm trọng những quy chuẩn về bảo vệ môi trường của nhiều

công ty, tổ chức sản xuất kinh doanh hiện nay và sự làm ngơ của chính quyền
địa phương đã , đang, và sẽ phá hủy những tài sản chung của xã hội chỉ để phục
vụ mục đích riêng của một nhóm người thiểu số.
2.2.3.2 Nguyên nhân thu hút và sử dụng FDI chưa hiệu quả
19


Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn
một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên
ngành. Bên cạnh đó thủ tục hành chính rườm rà, nhiêu khê là một cản trở không
nhỏ. Bài “Thủ tục hành chính “ngáng chân” doanh nghiệp FDI” số ra ngày
21/05/2009 trên báo Đời sống & Pháp Luật: “Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh
nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam cho hay, qua khảo sát ý kiến thì có 5% doanh
nghiệp Hàn Quốc có ý định giảm qui mô kinh doanh ở Việt Nam và có 2%
doanh nghiệp muốn chuyển đầu tư từ Việt Nam sang nước khác.” Thủ tục hành
chính phức tạp như chuyện giải thích về luật rất khác nhau là một trong những
lý do lớn để số doanh nghiệp Hàn Quốc này muốn rời bỏ Việt Nam trong tương
lai.
Thứ hai, công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm
còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và
quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung.
Thứ ba, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố
quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư
tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng
công trình hạ tầng ngoài hàng rào, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường
giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa để
tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được
do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu.
Thứ tư, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là
công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh

tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội… mà còn ở cả những
trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương...
Việc tìm kiếm lao động lành nghề, nhân lực quản lý cấp trung gian có
trình độ là vấn đề đau đầu của đa số các Doanh nghiệp FDI. Các DN nước ngoài
khi mới đến Việt Nam, đôi khi vẫn phải thuê người nước ngoài vào làm, bởi lẽ
họ khó mà tìm được người giỏi ở Việt Nam ngay. Tuy nhiên, mức thuế thu nhập
cá nhân đối với lao động nước ngoài khá cao, xu hướng sắp tới là công ty sẽ
phải cắt giảm lao động nước ngoài và họ sẽ phải tìm người Việt Nam cho các vị
trí quan trọng. Thế nhưng, đây là việc vốn dĩ vô cùng khó, bởi vì: “Một số sinh
viên Việt Nam đã ra trường mà những tính toán cơ bản lại không tính
được”( Harry Beirnaert, Chủ tịch Hiệp hội DN Bỉ - Luxembourg tại Việt Nam).
Trong thực tế, các doanh nghiệp nước ngoài hầu như chỉ mới khai thác nguồn
lao động chi phí thấp chứ chưa thực hiện nhiều việc chuyển giao kỹ thuật công
20


nghệ cao và đào tạo nhân lực để phát triển công nghiệp nội địa. Kết quả một
cuộc khảo sát của Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF) được thực hiện trong
hơn 100 doanh nghiệp điện tử gần đây, cho thấy các công ty trong nước tuyển
dụng từ 10 – 64% lao động có trình độ cao đẳng trở lên, trong khi đó con số
tuyển dụng cùng trình độ tương ứng ở khu vực FDI chỉ ở mức từ 4 - 10%.
Sau sự kiện Công ty Sanyo thành lập nhà máy sản xuất linh kiện điện tử
đầu tiên bằng vốn FDI, các ngành công nghiệp Việt Nam cơ bản vẫn chỉ sản
xuất được những mặt hàng đơn giản, những sản phẩm công nghệ cao cũng mới
chỉ là lắp ráp.Báo cáo của Nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế Tp.HCM (nay là
Viện Nghiên cứu phát triển), cho biết lao động không có chuyên môn kỹ thuật
tại Tp.HCM đến năm 2010 chiếm tỷ lệ khoảng 65,6%; lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật kể cả công nhân kỹ thuật, trung cấp, cao đẳng và đại học
chỉ khoảng 34,4%. Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay là phải có giải pháp để tăng
cường năng lực kỹ thuật cho lao động Việt Nam để tiếp thu công nghệ từ các

doanh nghiệp FDI.
Thứ năm, công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc
phục trong môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, nhiều địa phương đang lâm
vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như
đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các
công trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó
khăn lớn nhất đối với triển khai một số dự án FDI quy mô lớn hiện nay, đặc biệt
đối với dự án 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó là tình trạng cho thuê đất với
“giá rẻ bất ngờ” của một số địa phương, điển hình là vụ việc xảy ra ở tỉnh
Quảng Nam. Tỉnh này đã cho một doanh nghiệp nước ngoài thuê đất với giá
2,75 đồng một năm trên 1 mét vuông, rẻ hơn gấp nhiều lần so với giá 1 điếu
thuốc lá- báo điện tử Vietnamnet đã đưa tin.
Thứ sáu, việc xử lí chất thải của các dự án đầu tư nước ngoài tập trung tại
các khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh
hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là
đối với các dự án sản xuất quy mô lớn.

2.3

Định hướng, chính sách và đề xuất thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới

2.3.1 Định hướng thu hút FDI

21


Tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của chủ trương thu hút FDI. Một hệ
thống quan điểm nhất quán trong việc tổ chức và hoạch định chính sách thu hút

FDI vào Việt Nam trong những năm tới đang là vấn đề cấp bách. Cho đến nay,
mặc dù Đảng và nhà nước ta đã có quan điểm rõ ràng về vai trò của FDI, coi
vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Tuy nhiên, quan
điểm rõ ràng chưa được thể hiện thật sự nhất quán trong tổ chức và chính sách
thu hút vốn FDI. Chính vì việc quán triệt trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng
địa phương chưa thật đầy đủ, dẫn đến tình trạng thiếu sự nhất quán trong việc
triển khai thực hiện thu hút nguồn vốn này. Do đó, tiếp tục khẳng định tính
đúng đắn của chủ trương thu hút vốn dầu tư nước ngoài và cần thiết phải khai
thác đến mức tối đa nguồn vốn này để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam trong khi nguồn vốn trong nước còn có hạn.
Tập trung thu hút FDI vào những ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất hàng
hóa và dịch vụ có lợi thế như nuôi trồng thủy hải sản, du lịch, thủy điện, đồng
thời tập trung vốn FDI vào những ngành có công nghệ tiên tiến, có tỉ lệ xuất
nhập khẩu cao; còn những ngành ít vốn, công nghệ thấp thì huy động chủ yếu
vốn đầu tư trong nước, nếu có liên doanh thì bên Việt Nam là đối tác chính.
Khắc phục sự chênh lệch về nguồn vốn trong các ngành và các vùng.
Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào các khu vực địa bàn còn đang gặp khó
khăn về cơ sở hạ tầng, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi như miền Trung,
miền núi phía Bắc, vùng sâu, vùng xa...Khi cần thiết, Chính phủ phải huy động
thêm cả vốn trong nước, chấp nhận thu hồi vốn chậm, lãi suất thấp để xây dựng
một số điểm kinh tế cho các khu vực như khu công nghiệp Dung Quất( Quảng
Ngãi ), nhà máy thủy điện Ytaly( Tây Nguyên ), nhà máy thủy điện Tà Bú( Sơn
La ),...
Chuyển đối tác đầu tư: Việt Nam cần tập trung tăng cường hợp tác trực
tiếp với các nước phát triển có tiềm lực kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia,
các tập đoàn lớn trên thế giới để tranh thủ được công nghệ gốc, tiếp cận với
cách quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập vào thị trường quốc
tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải chú ý thu hút các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của nước ngoài vì đó là doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với
những biến động của thị trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp
vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tạo điều kiện việc

làm.
Nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần
22


xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với các bộ tổng hợp, các bộ
quản lý các ngành, UBND tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý Nhà nước. Cần
triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng minh bạch các thủ tục
hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quá trình, thời hạn, trách nhiệm
xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và cải cách
hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
2.3.2 Chính sách và giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam trong thời gian tới
Các chính sách của nhà nước
- Cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Một số giải pháp đề xuất nhằm thu hút hiệu quả FDI tại Việt Nam
Bên cạnh những chính sách nhằm tăng cường việc thu hút dòng vốn FDI
như tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư về: luật pháp, cơ sở hạ tầng, thủ tục
hành chính, trình độ quản lý, ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách hệ thống tài chính
– ngân hàng, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả dòng
vốn FDI, lồng ghép chiến lược này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam trong tương lai cũng như vào chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Chiến lược này sẽ cho phép giải quyết các vấn đề như: quy hoạch
tổng thể các ngành và vùng thu hút FDI, đặt ra các ưu tiên cho việc thu hút FDI,

tránh được những vấn đề bất cập trong phân cấp đầu tư, tránh được sự manh
mún và tản mạn trong xúc tiến đầu tư, kết hợp có hiệu quả dòng vốn ODA, vốn
FDI và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) trong phát triển kinh tế.
Thứ hai, cần đổi mới tư duy về thu hút và sử dụng vốn FDI theo hướng tự
do hóa hơn nữa đối với dòng vốn này chứ không phải đưa ra các hạn chế, các
điều kiện dễ quản lý hơn như ta đã phạm sai lầm khi sửa đổi luật đầu tư nước
ngoài năm 1996. Bên cạnh việc thực hiện các chính sách thu hút nhiều hơn nữa
đối với dòng vốn FDI, cần chú trọng đến chất lượng của dòng vốn này (công
nghệ; thị trường; đào tạo nguồn nhân lực, tác động lan tỏa…)

23


Thứ ba, hướng dòng vốn FDI vào khu vực dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực
xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực kỹ năng cao. Điều này vừa
phù hợp với xu hướng quốc tế vừa giúp Việt Nam xây dựng được một khu vực
dịch vụ hoạt động hiệu quả và có khả năng cạnh tranh cao. Một khu vực dịch vụ
như vậy sẽ giúp cho Việt Nam đẩy nhanh được quá trình công nghiệp hóa, bảo
vệ môi trường, phát triển cân đối giữa các vùng miền, đào tạo được nguồn nhân
lực kỹ năng cao, thúc đẩy cải cách hành chính và qua đó tạo ra môi trường đầu
tư thuận lợi hơn cho thu hút FDI.
Thứ tư, bên cạnh việc thu hút dòng vốn FDI từ các nước truyền thống,
cần định hướng thu hút vốn FDI từ những nước có công nghệ nguồn như Mỹ,
Châu Âu Và Nhật Bản. Đặc biệt, cần có những chính sách xúc tiến và mục tiêu
hóa đầu tư để thu hút FDI từ những TNC hàng đầu thế giới. Vì: (1) Công nghệ
mà các nước này sử dụng và chuyển giao là công nghệ cao (mặc dù có thể
không mới nhất) và ít gây ô nhiễm môi trường; (2) Các TNC giúp đào tạo
nguồn nhân lực với kỹ năng cao; (3) Các TNC có thể giúp Việt Nam kết nối
mạng lưới sản xuất, thị trường và nghiên cứu triển khai toàn cầu của họ; (4) Các
TNC thường thực hiện những dự án với giá trị vốn lớn; (5) Các TNC sẽ giúp

Việt Nam nắm bắt được những xu hướng sản xuất và kinh doanh đang diễn ra
trên toàn cầu…
Thứ năm, phối kết hợp một cách chặt chẽ và nhịp nhàng hơn giữa các cơ
quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch nhằm xây dựng
một hình ảnh quốc gia chung với tầm nhìn, chiến lược và chính sách phát triển
quốc gia, cùng những nét đặc thù độc đáo và riêng biệt của đất nước. Bên cạnh
đó cần tiến hành việc mục tiêu hóa các ngành, các lĩnh vực cần được ưu tiên đầu
tư để đề ra các chiến lược xúc tiến phù hợp từ các TNC lớn và trong những
trường hợp cần thiết cần thực hiện việc xúc tiến ở cấp nguyên thủ quốc gia. Sau
khi xúc tiến đầu tư thành công nên có công tác hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần trở thành thành viên của tổ
chức xúc tiến đầu tư thế giới (WAIPA) nhằm nắm bắt được những xu hướng
phát triển mới nhất của FDI trên thế giới và học hỏi các kinh nghiệm tốt nhất
trong việc xúc tiến đầu tư.
Thứ sáu, các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng những lợi ích lan
tỏa từ các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn bằng cách xây dựng chiến lược
tham gia vào chuỗi giá trị của các công ty này trên thị trường thế giới cũng như
trong nước với tư cách là nhà thầu phụ, nhà cung ứng các dịch vụ đầu vào và
đầu ra, cung ứng nguồn lao động, đặc biệt là lao động có chất lượng cao…
Chính phủ cũng cần có những chính sách riêng hỗ trợ cho các doanh nghiệp này
24


trong việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, kể cả trong việc liên doanh
với nước ngoài.
Thứ bảy, cùng với quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và
khu vực, những lĩnh vực được bảo hộ mạnh như ô tô, xe máy… sẽ được tự do
hóa và nhiều doanh nghiệp FDI có thể phải chuyển hướng kinh doanh hoặc
ngừng hoạt động, do đó Việt Nam cần nghiên cứu sâu hơn về hình thức M&A
để có thể áp dụng tại Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển

của dòng vốn FDI.
Tóm lại, với việc bảo đảm môi trường chính trị, xã hội ổn định, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó có đầu tư
nước ngoài, thực hiện chính sách phát triển bền vững cùng những biện pháp nêu
trên sẽ góp phần củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư. Việt Nam sẽ là điểm đến
ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi họ cảm thấy yên tâm và hứa hẹn
có đồng tiền lợi nhuận.

Kết luận
Cho đến nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như là
một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Với mục tiêu đưa
Việt Nam tới năm 2020 cơ bản trở thành nước côngnghiệp thì bên cạnh việc
25


phát huy nội lực, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ cho mục
tiêu này cũng là một nguồn lực quan trọng.Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong những năm tới có ý nghĩa rất to lớn đối với sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Tuy nhiên chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn về những tác
động tiêu cực mà nguồn vốn này đem lại để đưa kinh tế phát triển theo hướng
bền vững. Hoàn thiện việc tổ chức và chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài , đáp ứng nhu cầu sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo đúng chủ trương quan trọng của Đảng và nhà nước ta là xem nội lực
là quyết định, ngoại lực là quan trọng; kết hợp nội lực và ngoại lực thành sức
mạnh tổng hợp trong xây dựng đất nước.

Danh mục viết tắt
[1] ĐTNN: Đầu tư nước ngoài.
[2] GCNĐT: Giấy chứng nhận đầu tư.
26



×